Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
Tù cải tạo
Tác giả:
Lê Tân Anh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
“Đem
đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân mà thay cường bạo.”
–Nguyễn Trãi
Hầu hết
các tù cải tạo của Cộng sản ai cũng biết đến Trại Tù Hàm Tân có
danh số Z30C. Trại này được lập chừng 2 năm sau ngày Cộng sản Bắc
Việt cưỡng chiếm miền Nam... để tập trung các tù ở miền Nam như
Cà Mâu, Bầu Lâm, Tây Ninh, Suối Máu... Rồi từ đó CS mới phát vãng
đi các Trại giam Khánh Hòa, Pleiku, Tây Nguyên để mở mang các
trại tù khác ở nơi rừng sâu nước độc.
Trại Z30C ở gần Căn Cứ 6 cách Phan
Thiết 20 cây số, quanh đấy có nhiều trại cũng mang danh số Z30A,
B, D, để giam giữ nữ quân nhân VNCH, công chức, hình sự.
Z30C đến năm 1983 lại là nơi giam giữ
tất cả các sĩ quan từ ngoài Bắc đưa vào, chờ tha. Thành thử nơi
Z30C anh em cải tạo bốn phương có dịp gặp gỡ nhau.
Trại Z30C nằm ở phía tay phải Quốc Lộ 1
Nam ra Bắc, trước đây là một cánh rừng buông lớn. Đi sâu vào là
suối lạnh, đất hoang dã. Từ các nơi khác trước khi ra Bắc đều tập
trung nơi đây để chặt các cây cổ thụ, đất được san bằng mặt, gò
mối được ủi nền, lấp phẳng phiu, cây cối được chặt đốn, nhà cửa
lán trại được thành hình cất dựng, biến vùng hoang làm nơi nhốt
tù.
Thoạt
đường vào trại là những dãy nhà ngói là nơi văn phòng, trại bộ
đội, nhà ở của Trại Trưởng. Vào sâu 150m mới đến trại giam tù.
Chu vi trại khoảng 1,600m. Phân giới
trong ngoài trại bằng 2 hàng rào tre gai mới trồng, ở giữa là
đường đi tuần đêm. Lớp rào phía trong quanh trại là hàng rào kẽm
gai. Ở cửa trại và bốn góc trại có chòi canh có bảo vệ trang bị
súng đứng gác.
Nằm lọt trong chu vi đất của trại, nhà
cửa bằng gỗ cây ván xẻ, có trên 10 căn nhà giam, 1 nhà bếp, 1 căn
bệnh xá. Chỉ có một cửa chính vào phòng giam, cuối là nhà cầu,
hai bên là giường tầng sạp ngủ. Mỗi nhà giam chứa 50 tù, chỗ nằm
chật có 6 tấc cho mỗi ô. Tầng dưới bằng ciment, tầng trên là sạp
ván.
6 giờ
chiều có tiếng kẻng đánh là tất cả tù phải xếp hàng lũ lượt vào
nhà giam qua sự điểm danh của bộ đội bảo vệ với sự giúp sức của
tù trật tự. Sau khi nhà giam khóa cửa thì chỉ có bảo vệ đi tuần
ngoài cho đến 6 giờ sáng thì bảo vệ đến mở cửa nhà giam và điểm
danh lại tù. Trong đêm nếu có tù đau nặng hay xảy ra bất trắc thì
gọi bảo vệ tuần tra đến cho đi bệnh xá hay an ninh trại tới giải
quyết.
Trại có
một sân trống và rộng. Ở đầu cửa vào có một hội trường được cất
với nền cao, cột lớn chống đỡ mái, ba mặt lộ không đóng vách hay
xây tường. Dịp lễ lớn, tết, học tập chính trị, kêu danh sách
chuyển trại hay tha về, tù được lệnh tập trung nghe gọi hay xem
diễn kịch, hát cải lương Trại thuê giải trí cho Tù. Tiền thù lao
ban hát kịch và cải lương được xuất ra từ tiền xà bông tháng của
Tù góp lại.
Cuối sân trại sau cùng dãy nhà giam là bệnh xá của trại giam. Ở
đấy có một tù Bác sĩ hay Y tá lấy trong các tù ra chẩn bệnh và
cho thuốc. Ngay bên phải Trại là nghĩa địa tù.
Ngày đi lao động, các đội xuất trại xếp
hàng ngồi trước sân chờ quản giáo và toán bảo vệ đến điểm danh
lấy đi làm. Mỗi đội có 2 bộ đội bảo vệ mang súng kè kè áp giải
đầu đội và cuối đội.
Đội lao động được phân chia theo chuyên
môn. Lao động nặng thì có đội khai quang, đào gốc buông, phá
rừng, đốt rẫy, xới đất. Lao động vừa thì có đội rau xanh, đội
chăn nuôi. Lao động nhẹ thì có đội đan lát. Có một đội ca kịch
được tuyển chọn các tù biết đàn biết hát được dẫn đến một bãi đất
trống gần trại để tập luyện. Ban ca kịch này được nhạc sĩ Y Vân
hướng dẫn tập hát và soạn hòa âm các bài ca mới sau này. Các tù
nhân tự sắm lấy đàn trống, quần áo, tóc giả để cải trang đóng vai
nữ.
Ngày ra
mắt ban ca kịch, các cán bộ lẫn trại viên đều ngạc nhiên khi thấy
một đàn vũ nữ, ngực nở, mông to, đầu tóc uốn kiểu thời trang chạy
ra trình diện khán giả. Thiên hạ tưởng rằng mượn từ ở ngoài vào
giúp vui. Có vài đực rựa mặt mày đẹp sexy hơn cả con gái thật sự
khiến nhiều anh tù xa vợ con nhà quá lâu tương tư đêm ngủ đâm ra
mộng tinh, di tinh.
Về nhạc công có một thượng sĩ an ninh
quân đội tự chế ra một cái đàn tây ban cầm bằng ván thùng và dây
điện thoại. Anh ta lại chơi tay trái, tự soạn hòa âm các bài ca
nhạc “cách mạng”, khi anh tấu đàn lên người ta tưởng như nghe cả
một ban nhạc dây hòa tấu. Nhạc sĩ Y Vân đã làm say mê thích thú
các người mộ điệu bằng các buổi trình diễn ngoạn mục điệu nghệ
các bài ca “cách mạng” làm bè với ba giọng, chuyển thể, đuổi
nhịp, dội âm (canon) khiến các bộ đội cao cấp biết chơi nhạc ở
các tỉnh xa đòi học tập cái tài hoa nghệ thuật của “bọn Ngụy”.
Cải tạo buổi “lao động khổ sai” theo
đúng nghĩa đen của nó vì người tù làm việc mà không muốn, vì thấy
có công việc dù là nhàn hạ đấy nhưng là cả nhục hình hành hạ tù,
hạ phẩm giá con người, vi phạm luật nhân quyền. Mục đích chính
của cải tạo ở các trại giam mà Cộng sản đã bắt tù sản xuất làm
của cải để tự nuôi sống lấy tù và Trại Tù “ăn theo” bồi dưỡng cho
Bộ chỉ huy trại và gia đình bộ đội canh giữ trại. Tiền nuôi tù do
Bộ Nội vụ Cộng sản có mà không đáng kể. Nghe nói tiền cấp dưỡng
cho tù, Mỹ có chi cho 1 đô/ngày cho một người tù. Nếu có thì
chúng bỏ túi và chia nhau. Một công việc khổ sai điển hình Trại
nói là nhẹ nhàng hết sức là có một số sĩ quan, công chức tù có
học vị cao như bác sĩ, kỹ sư, giáo sư đại học không làm được việc
nặng nhọc như các người khỏe mạnh quen việc chân tay phải đi phá
rẫy, khai hoang, đào giếng, đắp nền, v.v. thì Trại dành cho các
người này sản xuất điều chế phân bón cây.
Người tù làm phân bón nghĩ là một đặc
ân “nhân đạo” của Trại rồi nên họ lội xuống hầm phân người ở cầu
tiêu sau trại để ải lâu ngày, nhung nhúc giòi bọ, hôi thối nồng
nặc đến ruồi nhặng cũng phải ngạt không bay xuống được. Thêm sự
sáng tạo của anh tù trưởng toán phân bón muốn tỏ tinh thần tích
cực lao động tốt nên khiến anh tù dưới hầm phân phải nghiền bóp
các cục phân còn vón lại, chắt bỏ các hột bo bo còn nguyên không
tiêu vất riêng ra, bón mót kỹ các bọc ni lông để nộp cho Bộ chỉ
huy trại dồn lại đem bán kiếm tiền.
Các hố phân bón đã làm được tên Toán
Trưởng ác ôn bắt tù làm phân chia phiên canh gác nghiêm nhặt để
ngăn các tù nhân ở bãi lao động lân cận lén ăn cắp về bón cho
vườn rau tư hữu để cải thiện.
Trong các buổi kiểm thảo vào buổi tối
thường có những vụ đấu tố nhau về ăn bớt phân, ăn cắp phân thật
bần tiện. Trại cải tạo tù nhân bằng cách bỏ đói, cho ăn dưới mức
tiêu chuẩn. Các tù tranh nhau từng li từng tí trong việc chia
cơm, chia thức ăn, chia nước. Những con mắt đói có thể cân đo như
cân tiểu li không sai một ly ông cụ nào. Các tù phạm kỷ luật được
phần ăn chỉ còn một phần nửa khẩu phần để họ quá đuối sức không
thể tìm cách trốn được. Những toán tù đi lao động, đố con vật nào
là loài “có máu” thoát khỏi tay họ. Chỉ một thoáng giây con rắn
rồng bò nhanh như cắt trên đường tù đi qua, một người vừa kêu lên
có con rắn kia kìa, lập tức một anh tù phóng theo như hiệp sĩ mù
trong gió kiếm, con rắn rồng đã bị anh tù chộp ngay lấy đầu, một
tay nắm lấy đuôi tuốt mạnh giang thẳng ra. Anh tù cầm ngay cái
đầu con rắn đưa vào mồm cắn, mút một hơi hết sạch máu con rắn.
Xác rắn còn lại được nhiều bạn tù trong toán mặc cả mua lại làm
thực phẩm cải thiện cho bữa ăn thiếu protein. Cóc nhái, tắc kè,
chuột đều sạch bóng ở những nơi tù lai vãng. Tù bắt được chúng họ
hốt ngay rác, đốt lửa thảy vào cháy sơ là đem ra chia nhau ăn
ngon lành.
Ở
Trại Z30C cũng như các trại giam khác, chế độ cho thăm nuôi đều
hạn chế. Thoạt đầu tù chỉ được tiếp tế có 5 kí. Mấy năm sau lên
tối đa 20 ký. Những năm tháng khi Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam,
dân chúng còn không đủ ăn, gạo và thực phẩm được phân phối theo
tem phiếu do đó tù rất đói vì thế gia đình không thể tiếp tế thân
nhân theo số lượng Trại cho phép. Mọi anh tù đều “vô sản” cả phải
trông vào thực phẩm của Trại giam cung cấp. Nhiều tù nhân nảy
sinh nhiều tài sáng tạo mưu sinh độc đáo, họ chế các bẫy thú bắt
chồn, cheo, kỳ đà làm khô gửi ra giúp gia đình. Có người lượm lặt
vỏ bom, đạn pháo 105ly chế hộp, lược, vòng đeo tay trang sức rất
mỹ thuật, bán cho bạn đồng tù hay cả bộ đội ở trại giam làm vật
kỷ niệm. Với kềm búa làm bằng cọc sắt hàng rào, tù cải biến sửa
sang lại các động cơ xe Jeep, xe GMC phế thải thành nhà máy cưa
để chế tạo bàn ghế giường tủ để cho Trại bán cho ngoài dân lấy
tiền xài riêng với nhau và thí cho tù thêm chút cơm phụ trội.
Tù miền Nam đã làm cán bộ nể phục, như
tại Z30C một anh tù tay ngang đã bắc một “cây cầu sông Kwai”
ngang con suối lạnh để nối đường cho xe hơi chở lâm sản qua lại.
Tù còn làm một cái đập nước ngăn nước suối thành một bể nước vừa
là nơi chứa nước ăn cho nhà bếp trong mùa khô cạn và một hồ tắm
cho tù.
Tù tại
Z30C đa số là sĩ quan, công chức Trưởng Ty, Sở, các người tình
nghi hoặc đối lập với CS, chỉ có một số ít can phạm hình sự thôi
nên trình độ hiểu biết của họ cũng như khả năng kỹ thuật của họ
cao, có thể tháo vát làm được mọi chuyện trên dưới.
Phần lớn các cán bộ quản giáo tức là
các bộ đội trông coi một đội lao động chịu trách nhiệm quản lý
nhân số đội, lãnh nhận và dắt tù đi làm, kiểm điểm học tập lao
động, cho phép thăm nuôi, phạt kỷ luật, cắt giảm khẩu phần. Thoạt
đầu vì mặc cảm tự tôn của phe chiến thắng và tư cách cai tù các
quản giáo tỏ vẻ khinh miệt các tù nhân nhất là tù “nhà banh” hay
quân binh QLVNCH khi mới đối đầu với chúng. Một thời gian ngắn
sau đấy bọn quản giáo xem lý lịch và tội trạng từng người, chúng
tra vấn tò mò hỏi về học vấn, kỹ thuật so với sự xuyên tạc tuyên
truyền láo khoét của Đảng Cộng sản là Quân đội Miền Nam là lính
đánh thuê ác ôn ngu dốt không biết gì hết. Do nhu cầu mở mang
phát triển trại, cán bộ quản giáo theo lệnh Trại trưởng khai thác
khả năng của tù giam trong trại được gọi đi làm.
Một số anh em tù lúc đầu không chịu hợp
tác nhưng sau nhận thấy công việc họ làm đem lại nhiều lợi ích
thiết thực cho anh em tù. Sĩ quan Quân cụ thì giúp cho Trại việc
gỡ bom và mìn quanh trại. Sĩ quan Công binh thiết lập các cầu dây
bắc qua con suối vào mùa nước lớn để tiếp tế cơm và lương thực
cho các toán lao động khai quang bên kia con suối. Còn ty trưởng
điện lực lập một nhà điện thắp sáng cho vùng. Nhân viên Nông Lâm
Súc giúp Trại tổ chức việc chăn nuôi, đào ao cá.
Đến lúc bấy giờ các cán bộ trại giam
mới thức tỉnh và rất nể phục tù miền Nam có nhiều tài năng kỹ
thuật ngoài việc đánh giặc. Cán bộ trại giam ngoài công việc kỹ
thuật được tù hoàn tất chu đáo, chúng bỏ bớt thái độ hằn thù. Sau
chúng xun xoe nhờ cậy các anh em tù học cao dạy cho chúng Anh
văn, Toán Lý Hóa.
Về sau này sự thân thiện đi đến cảm
thông rồi cải hóa, tù đã rủ được quản giáo trốn trại để vượt
biên. Năm 1982, tại Z30C đã có hai vụ tù và quản giáo thoát trại
trót lọt. Ngoài ra ở ngoài đời còn có nhiều cán bộ trại giam tìm
tù quen cũ nhờ cậy.
Z30C còn có nhiều tù có khí phách.
Trong đội Đan lát năm 1981 có một công chức cũ dáng chừng là Ty
trưởng được điều về đội Đan lát. Đội có nhiều toán chuyên môn như
đan rổ, giá, nong, sàng và dễ nhất là chuốt nan. Mỗi người phải
làm theo chỉ tiêu của mình do toán trưởng ấn định. Ông Ty trưởng
bị bắt buộc chuốt 100 cái nan một ngày. Ông ta ngồi mơ mộng đâu
đâu nhất định không làm gì. Toán trưởng trình quản giáo can thiệp
bắt làm cho có lệ 5 cây nan cho có việc để khỏi mất mặt bầu cua,
ông ta cũng đếch làm, muốn phạt gì thì cứ phạt. Sau đành để ông
làm ông bụt và còn mất công đánh thức ông dậy để về.
Trại nổi tiếng có cụ Trần Hữu Duyên
giáo phái Hòa Hảo. Một buổi sáng cụ Duyên gánh đồ đạc đi ra cửa
chánh của Trại. Bảo vệ canh cổng chặn lại hỏi Cụ đi đâu. Cụ điềm
nhiên trả lời:
– Bộ Nội vụ các anh nói giữ tôi 3 năm.
Nay đến đúng hạn thì tôi về chớ!
Trại trưởng đến nói về thì phải có lệnh
tha. Cụ Duyên nói:
– Chúng tôi đạo giáo chả làm gì có tội
mà tha. Cụ Hồ nói “Đoàn kết đại đoàn kết”, bắt người ta vào tù mà
gọi là đoàn kết à!
Trại trưởng gặp ông già đành phải dỗ
ngọt cho cụ vào lại trại.
Ở Trại có nhiều sĩ quan Đà Lạt trẻ
tuổi, các anh này ngày nghỉ Chủ Nhật đi tìm khắp các đội lao
động, gặp được người cùng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt thì làm lễ
ra mắt kính niên trưởng hay nhận anh em đồng khóa. Họ giúp đỡ
nhau cũng như khuyên bảo nhau giữ thanh danh Quân đội VNCH chớ
hèn hạ xưng em với bọn cán bộ nhãi ranh.
Năm 1981 có gần 100 sĩ quan cấp tá từ
các trại giam miền Bắc vào. Họ bị nhốt riêng vào một nhà gạch mới
xây, sau một ngày các sĩ quan này phải xuất trại đi lao động. Khi
ra cổng trại, cán bộ bảo vệ bảo họ phải dở nón chào và hô chào
cán bộ bộ đội như nội quy trại đã quy định. Tất cả các đội sĩ
quan cấp tá phản đối:
– Đã là Tù không phải chào kẻ canh tù.
Làm gì thì làm!
Trưởng Trại lúc đó là một đại úy chạy
ngay ra. Sau 10 phút đối đáp, có lẽ tên Trưởng trại đuối lý nên
lệnh thi hành nội quy phải xếp xó.
Trại Z30C đã có giam giữ Vua kẽm gai
Hoàng Kim Quy. Ông Quy bị hành hạ rất tội nghiệp. Đồ thăm nuôi bị
lục soát kỹ, giấy đi cầu bị sổ tung ra xem có viết gì trong đó
không? Ông Quy chết vì kiệt sức năm 1982.
Nhà văn Phan Nhật Nam và các văn thi sĩ
có tiếng đều có ở tù trại này một thời gian trước khi ra Bắc.
Về văn nghệ, trại cấm tù ca hát “Nhạc
vàng”. Qua những đêm canh gác ngoài nhà giam cán bộ nghe được một
số tù hát các bài ca tiền chiến hay quá và kể các truyện võ hiệp
Kim Dung, truyện tình cảm Quỳnh Giao, chúng năn nỉ xin chép lại
bài hát và đề các truyện để ra ngoài tìm mua đọc.
Trại có cụ Lam Giang Nguyễn Quang Trứ
trước viết biên khảo lịch sử cho Tướng Nguyễn Bảo Trị “Khối Quân
Huấn Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH”, cụ tính nhuận bút một chữ là
$10.00. Cụ Trứ chột một con mắt nên tính cộc cằn, cán bộ đụng nói
đến cụ là cụ văng tục Con C...
Cụ làm bài thơ bằng chữ Hán, cán bộ hỏi
đòi cắt nghĩa Cụ nói là thơ của “Cụ Hồ” trong Nhật ký trong Tù.
Các anh em tù nói chuyện gì mà cán bộ
vặn vẹo là họ gài già Hồ vào để chặn họng chúng.
Cán bộ trại giam phần đông là bộ đội
trẻ ngoài Bắc lớn lên trong thời chiến tranh đói kém thiếu thốn
nên chúng vào miền Nam thấy đồ ăn thức uống, tiện nghi dụng cụ
cái gì cũng lạ cả. Trong trại Z30C có một chú bảo vệ canh tù
trong giờ ăn trưa ngoài bãi. Một anh tù lấy một cặp lạp xưởng đem
nướng lửa thơm phức. Chú lính Bắc ngửi thèm quá đến bảo:
– Ê đằng ấy nướng con gì, không đầu
không đuôi ngon quá, kiếm đâu vậy?
Anh tù mới xí gạt, nói:
– Con lạp xưởng. Họ bắt nó ở ngoài bờ
suối ấy!
Hôm
sau, chú lính ngố mới kiếm anh tù rắn mắt nói:
Chiều tối hôm qua tôi thắp đèn ra bờ
suối sục thì chỉ bắt được những con lạp xưởng dài hơn. Nhưng
chúng đen thui, đem nướng hoài nó không đỏ.
Hóa ra chú lính đã nhầm con dun đất lớn
với con lạp xưởng.
Cà phê phin mà lính miền Bắc gọi là
“cái nồi ngồi trên cái cốc” đã làm chúng rụng rời chân tay khi
chúng hít phải thơm ngát trong sương gió lạnh khi canh gác ngoài
nhà giam. Chúng mới báo cáo lên trại trưởng cấm tù uống cà phê để
mùi thơm ngon bay làm chúng trễ nải canh gác. Trại trưởng cho
điều tra lại quả có thế, mùi cà phê còn ác liệt hơn tiếng sáo
Trương Lương làm bủn rủn binh Sở ở đây lại dữ tợn hơn là nạo dạ
dày trống rỗng của binh Hồ.
Hôm sau một thông cáo sặc mùi “duy vật
biện chứng phép” chỉ thị cho tù nhân.
I. Xét thấy cà phê mà các trại viên đem
vào uống có tác hại như sau:
1) Làm tiêu hóa mau chóng bữa cơm của
trại viên với khẩu phần ít ỏi khiến trại viên đói lả không đủ sức
đi lao động.
2) Các trại viên lợi dụng đãi cà phê để tụ tập loan truyền tin
thất thiệt phản động.
II. Do các lý do đó, kể từ ngày ra
thông cáo này, cấm các tù nhân đem cà phê vào trại uống. Trạm
thăm nuôi tịch thu, khám xét chặn giữ mọi thức uống có cà phê.
Các trật tự viên nào bao che hay để cà phê lọt vào trại, và các
tù hội họp, chiêu đãi cà phê đều phải bị kỷ luật nghiêm trị.
Lệnh cấm cà phê làm tất cả tù, các quản
giáo, các cán bộ trại giam các cấp ngơ ngẩn “thương tiếc” vì
không còn được hít hà mùi thơm cà phê nồng ấm ở nơi giá lạnh như
khu rừng lá còn hoang vu chưa thuần này. Lệnh cấm là lệnh cấm,
nhưng vẫn có cà phê đem đãi ngộ khách tri kỷ, thế mới lạ chứ!
Ban Tư Tưởng bắt tại trận một tụ điểm
xôm tụ đãi cà phê mà sau đó không làm gì bắt kỷ luật chủ nhân có
cà phê. Tại sao?
Lý do: tuy gọi là cà phê nhưng lại
không phải cà phê? Không là cà phê thì không có độc hại theo tinh
thần bản thông cáo? Cà phê này là cà phê “dỏm” Tù chế nó bằng
cách rang bo bo cho cháy đen ăn không nổi. Bo bo như Bắp rang
cháy 85% cũng bốc thơm như cà phê. Họ cho chất váng mỡ pha vào để
được béo ngậy như cho bơ vậy. Từ đó chân–giả lẫn lộn, nhờ bọn
trật tự, cán bộ “tham ô”, cà phê được lần nữa vào thoải mái như
thường. Chuyện cà phê lần nữa lại thắng thế về phe tù cải tạo do
các cán bộ trại giam quá thiếu thốn vật chất nên buông trôi cho
sự “hủ hóa” của cái phồn vinh của miền Nam. Chuyện Trại Z30C cấm
tù uống cà phê đã thành một đề tài mỉa mai loại người “duy vật”
phản kháng không lại vật chất cám dỗ.
Thật sự Cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm
miền Nam chúng ta chúng không thể nào “cải tạo” được tù lẫn dân,
vì trình độ văn hóa của chúng quá thấp kém lại thêm bị nhồi sọ
lối ăn nói hàm hồ ngược ngạo của Cộng sản “ba búa” lại thêm sinh
hoạt kinh tế miền Bắc quá đói khổ khiến nên các cán bộ và lính
canh thiếu thốn và thèm khát phải xin xỏ tù.
Trái lại tù miền Nam phần đông vẫn còn
cốt cách phong lưu hào phóng vì trong dĩ vãng đã được thừa hưởng
sự văn minh giao lưu của thế giới tự do nên vì qua sự tiếp cận tự
nhiên đã “cảm hóa” được chúng ham thích sự tự do phóng khoáng của
miền Nam nên dần dà chúng thức tỉnh khỏi sự kiềm kẹp trói buộc
của chính sách Cộng sản, trở lại “chiêu hồi” chúng, do đó anh em
tù chính trị bị chúng giam giữ thực tế không bị “cải tạo” li ông
cụ nào (cải tạo của Cộng sản là “Tẩy não”) mà trái lại chúng bị
chúng ta “cảm hóa” ngược lại theo như nghĩa của lời hịch của
Nguyễn Trải xưa kia “Lấy
Chí Nhân mà thay Cường bạo!”
Lê Tân Anh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)/a>
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Bui Lieu chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, October 5,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang