Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Thời
sự Văn hóa–Xã hội VN
Chủ đề:
Sài Gòn Xưa & Nay qua Tên Đường
Tác giả:
Nguyễn Văn Lục
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời giới thiệu: Ông Nguyễn Văn Lục mới gửi tôi
bài này. Không dài như thường lệ mà vừa đủ. Chuyện ca tụng VNCH
đặt tên đường cũng đã có vài bài viết và tôi không nhớ tác giả.
Ai cũng ca tụng cái tên đường hợp lý của VNCH. Tôi chỉ nhớ như
sau: trường Gia Long của tôi thật đẹp vì là ngôi trường nữ to
nhất Sài Gòn, rất đẹp, yên tĩnh, được bao bọc bởi toàn danh nhân
về văn chương trừ Phan Thanh Giản: Phan Thanh Giản, Bà Huyện
Thanh Quan, Ngô Thời Nhiệm...
Tôi thích con đường Phùng
Khắc Khoan Quận 1. Tôi gọi đó là “Con đường mùa Đông” của tôi vì
đi vào đó là mát rượi hoặc se lạnh với hai hàng me cao chụm đầu
vào nhau. –khuyết danh.
.
Sau 1975, một số nhà văn miền Bắc, như Dương Thu Hương, ngoài sự nhìn thấy Sài Gòn như là một đô thị phát triển mà mức sống hẳn vượt xa miền Bắc, còn nhìn thấy Sài Gòn còn là một đô thị có nền văn học “mở” tự do, dân chủ, đa dạng, đủ mầu sắc.
Từ ngạc nhiên đến thán phục, họ có thể
tìm thấy ở Sài Gòn tài liệu báo chí, thơ văn, truyện đủ loại của
các nhà thơ, nhà văn phía cộng sản như: Huy Cận, Thế Lữ, Chế Lan
Viên, Tú Mỡ, Xuân Diệu, hay tác phẩm của các nhà văn tiền chiến
như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, tác phẩm của thế hệ Tự Lực Văn Đoàn
như Trần Tiêu, Nguyên Hồng, ồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, nhạc Văn
Cao, Đoàn Chuẩn được Thái Thanh hát trên đài truyền hình Sài Gòn.
Trong tủ sách riêng, tôi còn có giữ
được khá nhiều ấn bản rất quý về Thế Lữ, về Chế Lan Viên, về
Nguyên Hồng, Trần Tiêu, Tô Hoài, v.v. Đặc biệt một tập thơ mỏng
tanh của nhạc sĩ Văn Cao nhan đề có một chữ: Lá.
Xin trích một đoạn thơ của con người
tài hoa của đất nước.
Khuôn mặt em
Giữa những ngày dằng dặc
Chỉ còn khuôn
mặt em
Sáng trong và bình lặng...
Dù hai đứa chúng ta
Chưa lúc nào sung sướng
Những ngày đau
khổ ấy
Khuôn mặt em
Như mảnh trăng những đêm rừng cháy
Trên đường đi
Anh đặt em trên đồng cỏ
Thấy em đẹp mãi
màu xanh cỏ dại
Trên đường đi
Anh đặt em trên dốc núi
Để tìm lại những
đường mềm của núi
Trên đường đi
Khuôn mặt em làm giếng
Để anh tìm làm
đáy ngọc châu
Ôi khuôn mặt sáng trong và bình lặng
Tôi
được đầu tiên và còn lại cuối cùng
Văn Cao
Xin cho phép tôi hoang phí thêm một bài
nữa.
Những Bó
hoa
Những bó
hoa mang tới chúc tụng
Thành công một
con người
Hằng ngày hằng ngày
Xây thành cái mồ chôn
Con người thành
công ấy
Người ta đôi khi bị giết bằng
những bó hoa.
17/3/1974
Văn Cao
Tôi hy vọng có một ngày nào đó, tôi còn
đủ thời giờ viết về những nhà thơ, nhà văn cao quý này. Viết về
những nỗi khốn khổ của họ. Tôi đã có dịp viết về Nam Cao, một nhà
văn lớn của chúng ta qua truyện ngắn thật hay: Chí Phèo. Riết rồi
tôi mơ được làm Chí Phèo thay vì làm Kim Trọng hay Từ Hải. Chí
Phèo đã thực hiện được giấc mơ đời người –hạnh phúc– qua cái hớ
hênh của Thị Nở. Mà không phải trả giá bằng cái đã được bày binh
bố trận.
Bởi
vì, tôi nhìn ở nơi họ như một giá trị. Coi họ là của chung của
Việt Nam. Chẳng phải của Hà Nội mà cũng chẳng phải của Sài Gòn.
Còn lại các tài liệu về chính trị viết
về Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp phần lớn do các tài liệu viết bằng
tiếng Pháp của Paul Mus, Jean Lacouture, Jean Lartéguy, v.v. Và
không biết bao nhiêu tài liệu sử học, chính trị đủ loại. Trên thư
viện Đại Học Đà Lạt, được biết có 5000 cuốn sách, tất cả bằng
tiếng Pháp. Người sinh viên giỏi nào nghiền ngẫm được 100/5000
cuốn đã trở thành đắc đạo và có thể xuống núi hành hiệp giang hồ.
Nhất là chủ nghĩa Mác–xít được dậy công
khai trên giảng đường Đại học do tinh thần tự trị đại học.
Thế nhưng, có thể còn một góc cạnh khác
mà chính người miền Nam cũng không lưu ý cho đủ. Đó là ngay cả
những người cộng sản, nhất là Đệ IV thì họ có tên chính thức trên
các đường phố Sài Gòn.
Nhân tiện đây xin đưa ra một chứng liệu
là, dù chống cộng sản, miền Nam Việt Nam trước và sau 1954 đã có
một thái độ chính trị cởi mở và khoan hòa. Vì thế đã có những
người yêu nước thuộc cộng sản Đệ IV Quốc tế đều có tên trên đường
phố tại Sài Gòn.
Nó khác với cộng sản Hà Nội, sau 1975
đã dẹp tên những người cộng sản Đệ IV ra khỏi tên các đường phố ở
Sài Gòn. Cái tinh thần nhân bản của miền Nam ấy đã làm ngạc nhiên
một người cộng sản Đệ IV, sống cả đời bên Pháp, sang Pháp từ
những thập niên 1940 cho đến hiện nay, như Hoàn Hoa Khôi nhớ lại
những con đường ở Sài Gòn đã đưa ra nhận xét:
“Trong quá khứ, Sài Gòn ngắn ngủi của
tôi: từ lúc còn nhỏ, qua những lần đi học, đi chơi, đi xi-nê, đi
mua sách, tôi thắc mắc khi ngang qua các con đường mang tên Tạ
Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch. Họ là ai, sao không thấy
trong những trang sử học ở trường; họa hoằn lắm, trong những lần
nghe lóm truyện người lớn, hay đọc sách báo, thoáng thấy những
nhắc nhở rời rạc, đó là những người đệ tứ Trốt-kit, bị cộng sản
tức Việt Minh thủ tiêu, vì là ‘Việt gian’ mà đệ tứ cũng là cộng
sản.
Sao họ
lại được tổ quốc (miền Nam chống cộng) ngày ấy ghi ơn? Người lớn
nghiêm trang, trầm trọng, bí mật và ít lời. Vì không biết hay
không dám/muốn nói.
Nhưng năm 1975, khi đất nước thống
nhất, tại sao những người đệ tứ này, qua những con đường đổi tên,
một lần nữa bị thủ tiêu?”
Nhìn lại 60 năm tranh đấu cho Việt Nam.
Hồ sơ đệ tứ, Nhóm đệ tứ Việt Nam tại Pháp, trang 275.
Thật vậy, ở miền Nam, nhất là sau 1954,
chính phủ đã cấp tốc thay thế tất cả các tên phố Tây — xóa sạch
dấu vết thuộc địa — đổi ra các phố Việt. Việc này đã giao cho một
công chức tòa Đô Chánh, ông Ngô Văn Phát, tự Tuần Phong (1) —
Trưởng Phòng Họa Đồ, tòa Đô Chánh. Công việc làm gấp rút chỉ
trong ba tháng đã hoàn thành.
Ông Ngô Văn Phát vẫn giữ lại một số tên
phố cũ đã có từ lâu đời như Cầu ông Lãnh, nhà thờ Huyện Sĩ, các
đường Bà Hạt, Bà Chiểu, Bà Điểm, Bà Quẹo, Bà Hom... cũng như Lăng
Cha Cả. Tên các nhóm đệ tứ cũng vẫn được giữ lại như các đường Tạ
Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Trần Văn Thạch, v.v. Và đặc biệt giữ
lại đường Pasteur. Cũng như ở Đà Lạt vẫn giữ lại đường Yersin.
Thật đáng trân trọng.
Các đại lộ chính nay nó trở thành một
tiêu biểu cho một chủ trương chính trị của miền Nam như các đường
Tự Do, Công Lý, Thống Nhất, Dân Chủ, Cộng Hòa.
Các đường dành cho các vị anh hùng nắm
giữ những trục lộ chính và gián tiếp đánh giá và vinh danh công
trạng như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Lê Lai, (Lê Lai chỉ là công thần
của Lê Lợi nên con đường dành cho ông nhỏ và ngắn thôi), Nguyễn
Huệ, Trần Quốc Toản, Hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng.
Các vị vua Chúa nhà Nguyễn như Gia
Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cũng vậy. Riêng nhà vua Duy
Tân chiếm giữ một đường phố sau trở thành huyền thoại của giới
sinh viên và giới ca nhạc sĩ với Phạm Duy.
Đường Khổng Tử, Trang Tử dành cho người
Tàu Chợ Lớn.
Các bến
sông dọc bến tàu nay trở thành những công trạng lừng danh của
cuộc kháng chiến chống Tàu như bến Bạch Đằng, bến Chương Dương,
bến Hàm Tử.
Các nhà cách mạng chống thực dân Pháp cũng đều có tên như Nguyễn
Thái Học, Hoàng Hoa Thám, Phan Thanh Giản, Trần Quý Cáp, Cường
Để, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh,
Bùi Viện, Bùi Thị Xuân, Huỳnh Thúc Kháng, Phó Đức Chính, Cô Bắc,
Cô Giang, Phan Văn Trị, Tôn Thọ Tường.
Các nhân sĩ, văn sĩ thi hào như Nguyễn
Du, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Đồ Chiểu, Tú Xương, Tản Đà,
Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan.
(Đọc thêm các tác giả Vũ Linh Chiêu và
Nguyễn Văn Luân: “Thuần Phong–người đặt tên cho đường phố Sài Gòn
trước 1975”, Diễn Đàn trí thức Việt Nam, ngày 03/04/2019)
Cái khôn ngoan, cái cân nhắc, cái hiểu
biết đánh giá lịch sử chính trị, cái độ lượng của người đặt tên
đường đến độ chỉ cần xem tên đường, vị trí của nó trên bản đồ,
con đường dài hay ngắn, nơi đô thị sầm uất hay không? Nhờ đó biết
được phần nào vai trò quan trọng của nhân vật lịch sử đó trong
lịch sử dân tộc.
Đọc tên đường của thành phố Sài Gòn là
đọc lại lịch sử của Việt Nam trong ngàn năm chống Tàu và 90 năm
chống Pháp.
Trong khi đó, ngoài Bắc, trừ một số đường đã được đặt tên từ
1945–1947 nay vẫn để nguyên. Nhất là các tên đường trong khu Phố
Cổ hầu như không thay đổi.
(Xem thêm Nguyễn Loan–Nguyễn Hoài. Tự
điển đường phố Hà Nội nxb Thế giới, 1994).
Nhưng tên các vua Chúa Nhà Nguyễn và
các anh hùng dân tộc chống Tầu, nhất là chống Pháp là không có
tên tuổi. Tên các nhà văn, thi sĩ cũng vậy.
Tuy nhiên, còn biết bao nhiêu tên tuổi
bị bỏ quên? Bao nhiêu người đã hy sinh xương máu, bao nhiêu nhà
văn hóa không có tên tuổi? Trong khi các lãnh đạo cộng sản thì
tên tuổi nhan nhản, không thiếu mặt người nào cả, ngay cả những
kẻ đại gian, đại ác!
Và người lãnh đạo cộng sản nào khi chết
cũng chỉ mơ ước có tên trên đường phố Hà Nội. Nhưng trong tương
lai lấy đâu ra chỗ? Rất có thể, họ sẽ dẹp bỏ tất cả các con đường
có sẵn trong Phố Cổ như các phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Bạc,
Hàng Than, Hàng Trống, Hàng Quạt, v.v. (Xem Nguyễn loan–Nguyễn
Hoài. Tự điển đường phố Hà Nội.)
Vì thế, người ta có cảm tưởng, đọc tên
đường phố Hà Nội không phải để đọc lịch sử đất nước này. Mà là
đọc lịch sử 90 năm sự thống trị của chế độ cộng sản từng ngày đã
một thời cai trị đất nước và nay còn tiếp tục chưa biết đến bao
giờ? Mỗi năm kéo dài là thêm mỗi năm xác chết cộng sản còn đó vẫn
canh chừng người sống. Nó thiếu hẳn cái tình tự dân tộc, đất
nước, con người miền Nam trước 1975!
Nguyễn Văn Lục
© 2019 DCVOnline
Nguồn: DCVOnline minh
họa và chú thích
Tác
giả chú thích:
(1) Nhà văn, chuyên viên họa đồ Ngô Văn
Phát, bút hiệu Thuần Phong, Tố Phang, Đồ Mơ, sinh ngày 16/10/1910
tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Thuở nhỏ học ở Bạc Liêu, Sài Gòn, đậu
bằng Thành Chung rồi nhập ngạch họa đồ ngành công chánh. Ông ham
thích văn chương từ ngày còn đi học, từng có thơ đăng trên Phụ nữ
tân văn, họa mười hai bài Thập thủ liên hoàn của Thương Tân
Thị... Có lúc ông dạy Việt văn tại trường Petrus Trương Vĩnh Ký ở
Sài Gòn.
Năm
1957 ông có bài đăng trên bộ Tự điển Encyclopedia – Britannica ở
Luân Đôn (Anh Quốc). Đó là chuyên đề Khảo cứu về thành phố Sài
Gòn. Năm 1964 chuyên đề Ca dao giảng luận in trên tạp chí Trường
Viễn đông Bác cổ ở Paris (sau in thành sách ở Sài Gòn). Ông cũng
có chuyên đề Nguyễn Du et la métrique populaire (Nguyễn Du với
thể dân ca) đăng trong bộ sách nhan đề: Mélanges sur Nguyen Du
(Tạp luận về Nguyễn Du) trong dự án Nguyễn Du do tổ chức Nghiên
cứu Việt học của trường Đại học Sorbonne thực hiện năm 1965.
Những năm 70 ông được mời giảng môn Văn
học dân gian tại Đại học Văn khoa, Sư phạm Huế và Cần Thơ. Ông
mất năm 1983 tại Sài Gòn.
Tác
phẩm:
Ngụ ngôn Việt Nam I, II (thơ),
Bức tranh vân cẩu (nt),
Bóng người qua
(1928),
Giữa Đồng Tháp Mười,
Giọt lệ phòng đào (1929),
Và nhiều tác phẩm kịch, giảng luận văn
chương Việt Nam khác.
Nguồn:
Tố Phang (Wikipedia)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
Dù T–10
SĐND–QLVNCH
dùng trong thời chiến
|
Hình nền: Lũy Tre Làng. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by psxh chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật,
October 20, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang