Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
Ngắn
Chủ đề: Tết Trung thu
Tác giả: Dư Thị Diễm Buồn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Em
ra đời mùa thu năm 1970, vào ngày rằm tháng tám Âm lịch. Đem so với
ngày
dương lịch đúng y chang trong tờ giấy khai sanh của em.
Mẹ thường kể cho cả nhà nghe, vào những
lúc vui nào đó hay là ngày mừng em sinh nhựt:
- Nằm trong nhà bảo sanh mẹ nghe tiếng hò,
tiếng hát, tiếng reo vui rộn rã của thiếu nhi cùng tiếng phèng la,
tiếng chiêng trống múa lân của đoàn dâng cộ đèn mừng Tết Trung Thu,
hay Tết Nhi Đồng của nước ta thuở đó, vào thời Việt Nam Cộng Hòa.
Theo lẽ mẹ đặt cho con cái tên là Thu, là Nguyệt, là Hằng, là Nga,
là Thu Nga, là Thu Hằng, là Nguyệt Thu hay Thu Nguyệt... Mới đúng
nghĩa với ngày sanh tháng đẻ của con gái mẹ. Nhưng lần về thăm đâu
hai tháng trước khi con chào đời, lúc ra đi, ba đưa cho mẹ phong
thư, bảo chừng nào làm khai sanh thì mở ra mà xem... Trong thư, ba
đã đặt tên cho con cái tên rồi!
Mẹ em chép miệng trầm ngâm một hồi, tiếp:
- Quê hương mình chinh chiến triền miên.
Ba con theo đơn vị đóng quân mãi ở miệt rừng U Minh Thượng, U Minh
Hạ... tận Cà Mau lận. Tội nghiệp ba, biết khoảng giữa tháng đó đứa
con đầu lòng chào đời, mà ông hằng mong đợi nhưng vẫn không ở nhà
được, để nghe “Con khóc oa, oa... khi lọt lòng mẹ. Còn ông bà, họ
hàng thì cười tươi vui mừng đón con...”
Em lớn khôn dần trong vòng tay mẹ, và tình
thương yêu vô bờ của hai đấng sanh thành. Ba em là lính chiến luôn
xa nhà, cả trong những mùa Trung Thu là ngày ra đời con gái cưng của
mình, mà ông cũng ít khi có dịp về nhà vui với vợ con...
Rồi mùa Trung Thu năm em vào học lớp Năm
(lớp một) của trường nữ Tiểu học Trưng Vương. Đó là ngôi trường nữ,
hai tầng có vách tường, mái ngói màu gạch tôm, khang trang nằm trên
đường ông bà Nguyễn Trung Long (Mỹ Tho). Đường này đi ra bến bắc
Rạch Miễu qua sông có nhiều cồn nhỏ, cồn lớn... cồn Ông Đạo Dừa, rồi
đi về tỉnh Bến Tre.
Địa phận tỉnh Định Tường có Thành phố Mỹ
Tho, nổi tiếng hiền hòa nằm mơ màng trên dòng sông Cửu Long... Mà
những câu hò, câu hát bình dân khen ngợi ở nhiều khía cạnh nào đó về
thành phố yên bình khả ái này.
“Mỹ
Tho đẹp lắm, đi tắm Cầu Dầu
Anh hỏi em đang
ở nơi đâu?
Để cha mẹ anh đến cau trầu cưới
em...”
“Mỹ Tho có kẹo hột điều
Có cô thôn nữ mỹ miều dễ thương
Ai về Chợ
Cũ, Trung Lương...
Hồng đào chín mộng, có
đường mạch nha
Đêm thu đẹp ánh trăng ngà
Mái chèo đưa đẩy qua nhà thăm em...”
Miệng truyền miệng trong dân gian:
“Đèn
Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn
tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ...”
Ở xứ mình, thường tiệm buôn bán trong các
chợ, chủ nhà ở phía sau, hoặc trên lầu, còn phía trước, mặt tiền thì
bày hàng để buôn bán.
Mỗi năm, cứ vào cuối tháng sáu, đầu tháng
bảy Âm lịch là thành phố Mỹ Tho trong các cửa tiệm thấy rõ rệt màu
sắc tươi vui rộn ràng. Bởi các dãy phố tiệm ở chợ gần như đều trưng
bày bán các loại bánh Trung Thu. Họ còn treo bán đầy đủ các loại
lồng đèn giấy màu sặc sỡ, có vẽ thêm hoa, bướm hoặc những nét đặc
biệt lên hình dáng mỗi thứ lồng đèn như: Đèn kéo quân, đèn cá chép,
đèn con rồng, đèn ngôi sao, đèn máy bay, đèn xe tăng, thiết giáp,
đèn tàu, đèn chuồn chuồn, đèn trái bí, đèn xếp...
Bánh trung thu thập cẩm có bốn trứng, ba
trứng, hai trứng, một trứng hột vịt muối để trong nhân có lạp xưởng,
thịt khô, vi cá... đó là những bánh mặn. Còn bánh trung thu thập cẩm
chay không có thịt và hột vịt, bánh nhân đậu đỏ, nhân mứt... cùng
bánh dẻo nhân hột sen, nhân đậu xanh...
Riêng em thích nhứt vẫn là bánh ông Địa.
Chắc là bánh có hình dáng như ông Địa trên bàn thờ nên gọi là bánh
ông Địa? Trên đầu bánh còn có sợi chỉ đỏ dài. Bánh ông địa ăn ngọt,
giòn thơm mùi trái vị, ngũ vị hương, mùi quế... rất đặc biệt.
Trong dãy phố công chức đó, có nhà của gia
đình em ở. Vào tối mười ba, mười bốn, rằm tháng tám là trẻ con đốt
lồng đèn cầm chạy chơi quanh xóm. Nhà nhà treo lồng đèn trong nhà
ngoài ngõ, hương khói nhang, mùi bánh trung thu thơm tho cúng ở bàn
thờ Ông Thiên, cùng mùi trà Tàu, hoa, quả... thơm lừng phảng phất
trong gió thoảng bay.
Em vui vẻ tung tăng chạy nhảy, theo đuôi
các bạn quanh quẩn trước sân của năm bảy căn nhà quen biết sát bên,
ở trong xóm chớ không dám đi xa hơn. Vì mẹ đã căn dặn em từ mấy ngày
trước:
- Tối con
được đốt lồng đèn chơi trong vài nhà gần, để khi mẹ gọi thì nghe mà
lên tiếng... Không được đi xa, mẹ gọi, không có tiếng trả lời của
con thì sẽ có đòn nghe chưa...
Em vâng dạ nghe lời, vì không phải mẹ em
không có lý do... Bởi gần đây giặc giã càng sôi động... Đêm đêm Việt
cộng thường pháo kích ầm ầm vào thành phố... Đạn pháo vô tình tàn
phá nhà cửa, thây phơi, máu đổ... khiến sanh linh đồ thán, trời sầu,
đất thảm... Và từ đó tuổi thơ em sớm nhuốm màu chinh chiến đau
thương!
Đã hai
mùa Trung Thu rồi, bận rộn ba em không về! Vì đoàn quân ba em trấn
giữ, chận thù... khi ở Vị Thanh, Cờ Đỏ (một địa danh ở mền Tây), khi
Tịnh Biên, Đồng Tháp Mười nơi nổi tiếng “đỉa lội như bánh canh”. Còn
thường trực ở chỗ có “muỗi kêu như sáo thổi” và nhiều con vắt... Đó
là rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ... Bởi ba em là lính chiến thuộc Sư
Đoàn 21BB, còn có biệt danh nghe hay và oai hùng lắm là Sét Miền Tây
đó mà.
Hôm nay,
từ khi trời nhá nhem chạng vạng thì phố sá đã lên đèn... Tiếng hát
vang vang rền vọng, tiếng chiêng trống lân giục giã trên các nẻo
đường của thành phố, làm lòng dạ em nôn nao, náo nức rồi nhảy lưng
tưng, ca hát líu lo như mấy đứa nhỏ kế bên nhà...
Mấy đứa cùng xóm đến trước hàng rào nhà,
rủ rê nhập bọn đi dâng cộ đèn, hoặc cầm đèn qua nhà chúng chơi.
Nhưng nghe lời má dặn, và nhớ ba khiến em muốn khóc quá! Em lắc đầu
xua tay nguầy nguậy có ý bảo với chúng là em không đi đâu. Ba em
đang dãi dầu ngoài trận tuyến! Với những người lính chiến như ba thì
làm sao có ngày lễ. Cho dù là lễ Tết hay phép thường niên cũng vậy,
ít khi được như ý... Ba em chợt đi, chợt đến bất ngờ ghé thăm nhà
chớ không hẹn trước.
Đêm nay các nhà trong xóm đều đốt lồng đèn
trước cửa. Hương trầm, bánh, trái, hòa với mùi thơm của nước trà
Tàu... Nhà nhà ấm cúng mừng đón Trung Thu. Riêng nhà em lạnh lẽo
vắng tanh, má không buồn đốt đèn dù là đèn điện.
Chiều đi học về sau khi ăn cơm, má còn căn
dặn em:
- Con ra
sân đốt lồng đèn chơi một mình, đừng đi đâu nghe... Nhà mình ba
không về, nên đêm nay không có mừng Trung Thu... Ít bữa ba về mình
sẽ ăn Trung Thu muộn, nghe con...
Em cầm lồng đèn đi tới đi lui trong sân
nhà với chú mèo tam thể, “meo, meo...” tiếng kêu, quấn quít bên chân
em. Gió hiu hiu mát rượi, đưa đẩy cây lệ liễu hông nhà, làm những
cành lá tha thướt lay động lồng bóng trăng tròn. Trăng thu đêm nay
rực rỡ tỏa ánh sáng thanh thoát xuống muôn loài trên trần thế, ôi
thật là nhè nhẹ êm ả...
Em nghe trẻ hàng xóm trước nhà hát những
bài Trung Thu:
“...
Đêm Trung Thu em đốt đèn
đi chơi...
Em đốt đèn đi khắp phố phường...
Đèn Ông Sao với đèn cá chép,
đèn thiên nga
với đèn trái bí...”
Và em còn nghe anh chị con nhỏ Bạch Nhạn
nhà bên cạnh hát ca... khiến em ganh tị thấy mắc ghét lắm! Em cũng
biết hát vậy chớ bộ! Em liền rống họng, cất tiếng hát lanh lảnh,
vang vang... cố tình cho tụi nó ngán chơi:
“Hôm
nay đêm rằm,
rằm là rằm tháng Tám?
Ông Trăng kia đã lên cao rồi
ông nhìn chúng
em ông tủm tỉm cười!
Ông Trăng ơi, này ông
Trăng ơi,
xuống đây với chúng em cùng vui
chơi!
Ông Trăng ơi này ông Trăng ơi,
Xuống đây chúng ta cùng ca hát vang trời...
Có chi nữa không?
Có trống ếch cà lùng tùng
xèng...
Có chi nữa không?
Có bánh ngọt thơm phưng phức...
Có chi nữa
không?
Có những đèn Trung Thu ở miền Nam tự
do, ấm no hạnh phúc...
Ông Trăng ơi! Ông
Trăng ơi,
xuống đây với chúng em cùng vui
chơi...
Xuống đây chúng ta cùng ca hát vang
trời...
Ông Trăng ơi... này ông Trăng ơi,
ơi...”
Tiếng vỗ tay lớn và nhanh, làm em ngạc
nhiên quá đỗi! Mèn ơi, ai mà vỗ tay khen tặng em dữ vậy cà? Chắc chị
anh mấy con nhỏ hàng xóm chớ gì? Còn khuya à, chúng nó ganh tị chẳng
thèm nghe em hát, thiếu điều muốn bịt hai cái lỗ tai lại nữa kìa,
chớ ở đó mà chúng vỗ tay khen em hát...
Nhưng chao ôi, sừng sững lồng dưới ánh
trăng rằm lộng lẫy! Người lính chiến hiên ngang, oai phong đứng đó!
Ông mặc bộ trây-di màu cỏ úa, đầu đội nón sắt, và trên thắt lưng cây
súng nhỏ... Giầy sô cao ống bám bụi đường xa, mùi nắng cháy khen
khét quen thuộc... ông trìu mến nhìn em mỉm miệng cười! Rồi ông hơi
khum lưng xuống, đưa hai tay đón chờ...
Thảy cái lồng đèn dưới sân, em phóng tới
ôm chầm thật chặt lấy ba. Hôn tứ tung lên mặt, lên mũi, lên ngực,
lên áo ba...
Giọng em rộn ràng, vui mừng và ơi ới gọi lớn:
- Mẹ ơi, mẹ ơi ba về! Ba về, ba về mẹ
ơi...
Trong nhà
nhanh chân bước ra tới hàng ba. Mẹ nhìn hai cha con em nở nụ cười mà
mắt hoen dòng lệ hạnh phúc.
Thế là đèn điện nhà em được thắp sáng!
Lồng đèn treo hai bên cửa trước, trong nhà, và sân sau được ba châm
lửa đốt đèn cầy. Ánh lửa dạ giấy màu, hồng, vàng, tím xanh... tươi
trẻ, vui mắt. Trong nhà mẹ lúi húi nấu nước châm trà, cắt bánh trung
thu... Em vui mừng chạy qua mẹ, rồi chạy sang ba... Em ôm cổ ba, nói
cười líu lo như con chim chích chòe vào buổi bình minh nắng ấm...
Nhà em, những nhà trên trần thế được thắp
sáng ánh trăng vàng thanh thoát của đêm Trung thu.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam bị giặc
cưỡng chiếm! Năm đó trẻ con chúng em không có lễ Trung Thu! Ba em bị
bắt tù cải tạo... nhà cửa em trống trơn vì phải bán lần, bán hồi các
đồ vật trong nhà... Rồi má em đi bán chợ trời... Đó là kế sinh nhai
duy nhứt của mẹ con em, và chắt chiu dành dụm để dành đi thăm nuôi
ba.
Những năm về
sau, vào đêm rằm tháng tám không ai còn nghe tiếng hát hò, trống múa
lân của đoàn dâng cộ đèn nữa. Chợ búa không có bánh trung thu bày
bán tự do khắp nơi như xưa. Có chăng họ chỉ làm chui, bán lén... vì
đó là mặt hàng xa xỉ phẩm! Thành phố em ở nhà nhà xác xao, cửa đóng
then cài dưới trăng thu. Mặc dù ánh trăng thu vẫn sáng nhưng lòng em
cảm thấy dìu dịu hắt hiu buồn!
Những đứa nhỏ hàng xóm sống gần nhà em
thưa dần, vì chúng theo gia đình về quê ngoại, quê nội, hoặc đi kinh
tế mới... Và em không có đèn lồng trái bí dễ xếp cất, dễ đốt mẹ mua
cho như những năm qua!
Sau bao nhiêu năm giặc chiếm miền Nam. Là
bấy nhiêu năm ba em bị giặc nhốt trong tù cải tạo! Hôm nay không
định trước, mẹ dắt em đi thăm ba, lại lọt đúng vào ngày rằm của mùa
Trung Thu.
Mẹ con
em vượt qua biết bao nhiêu chặng đường lồi lõm có khi đi bằng xe
hơi. Có lúc lội bộ, có lúc bằng xe tàu mo, đò chèo... Khi thì mẹ
gánh em ngồi trong thúng bên đầu gióng này, đầu gióng kia chất chồng
đồ ăn, áo quần cũ, thuốc men.
Mẹ con em đi từ một hai giờ khuya đến
chiều tối ngày sau mới đến nơi! Khi đến trại tù thì đã quá giờ thăm
nuôi. Nên mẹ con em và một vài bà khác cùng cảnh ngộ cũng đi thăm
nuôi chồng con. Những kẻ lỡ bước chúng em được chủ vườn ở gần trại
tù (cách mấy cây số) tốt bụng cho ngủ trong trại ruộng của nhà họ.
Tối đó, mọi người lỡ đường vùi mình vào
đống cỏ khô dưới nền đất sét nứt nẻ, thiếp đi vì mệt mỏi... May mà
cả đêm qua trời không mưa, nhưng gió núi tê tái lạnh lùng rung cây
ào ào. Hai mẹ con em nằm chèo queo một góc trong trại ruộng không
vách, không phên.
Em nhìn trăng qua nhiều lỗ trống không
trên mái chòi. Trăng rằm lên cao, càng lên cao ánh trăng càng sáng
vằng vặc. Sương khuya xuống mịt mù đỉnh núi và chập chờn trên dải
đồi mờ ảo xa xa. Tiếng côn trùng về đêm, hòa cùng tiếng dế tỉ tê...
Những con chim ăn đêm bay qua ẩn hiện mịt mờ, kêu oang oác trên trời
cao... Tiếng gió hú qua đồi làm xào xạc nhành cây lá chung quanh,
khiến em sợ hãi rúc vào lòng mẹ.
Để rồi sáng dậy ra mặt, tay, chân... người
nào cũng đầy vết muỗi cắn. Bầy muỗi đêm qua được ăn bữa giỗ no nê!
Chúng thiệt là ác độc, nỡ đành hút máu của những kẻ lỡ đường ngủ
trong trại ruộng!
Mẹ em lồm cồm ngồi dậy khi nghe vẳng tiếng
gà gáy trong xóm xa... Bà sửa soạn lại túi nải chờ rạng đông đi vào
trại tù thăm chồng. Bỗng bà thấy hai bóng đen lù lù xuất hiện khi mờ
khi tỏ trong màn sương sớm. Càng lúc họ đến càng gần... mẹ em sợ quá
gọi mấy người kia thức dậy, để cùng đối phó nếu rủi gặp kẻ xấu, hoặc
chuyện không may!
Họ càng đến gần trời cũng sáng thấy rõ
hơn... Thì ra là hai người thanh niên đi gỡ bẫy chim, chuột, gà
rừng... Nói chuyện một hồi thì mấy bà cùng mẹ con em vào nhà cha mẹ
họ là chủ trại ruộng này để xin nước uống...
Mẹ em nhớ lại đã bao nhiêu năm rồi mới đi
thăm nuôi chồng. Ba đói khổ lắm, mẹ liền cởi chiếc nhẫn cưới bằng
vàng 18K đang đeo trên ngón tay áp út ra. Đó là di vật sau cùng của
ba tặng bà trong ngày đính hôn! Mẹ đem đổi lấy con gà giò (gà mới
lớn nhổ lông xong, còn hơn nắm tay) và lít gạo trắng của chủ nhà...
Rồi mượn nồi niêu của họ làm gà rô-ti và nấu nồi cơm còn nóng hổi
đem cho ba em!
Bao nhiêu năm tù tội... Đến bây giờ vợ, chồng, con mới gặp lại nhau!
Má em khóc sướt mướt chẳng nói nên lời! Ba ôm em vào lòng nghẹn ngào
thổn thức... Ba trông thật tiều tụy, ông ốm gầy, tay chân lỏng
thỏng, mặt mày hốc hác, mắt hõm sâu, da đen chì, mét chẹt, nắng cháy
nám đen... Chân tay ghẻ chốc, thẹo vít chỗ lành, chỗ lở...
Ba em già quá nhiều! Nếu bất ngờ gặp ngoài
đường không ai nói, chắc em sẽ không nhận ra, và sẽ không tin tù
nhân đó chính là cha của mình! Em xót xa thương ba vô cùng, ôm chặt
ba nức nở khóc òa...
Gần hết giờ thăm nuôi, mẹ đưa cho ba tất
cả đồ đem theo, trong đó có con gà được chặt ra làm bốn và nồi cơm
đầy... Ba em múc hết nồi cơm, cạo lấy luôn cơm cháy, đưa nồi không
còn dính một hột để chút nữa đây trên đường về má em ghé trả lại
người cho mượn.
Ba lấy hai cục thịt gà (nửa con) đưa cho má và em. Mắt u buồn và
rưng rưng dòng lệ mỏng, ông nhẹ giọng bảo:
- Em và con đem theo ăn, trên đường về.
Chắc con và em đói khổ lắm? Thôi mẹ con về đi, anh sẽ giữ gìn sức
khỏe. Đường quá xa xôi, khó khăn đừng... đừng có lên thăm nữa...
Mẹ em nước mắt dâng tròng, lật đật lấy gà
để trở vào gói cho ba, mếu máo nói:
- Ở nhà không gì vất vả cả, chỉ lo cho anh
thôi. Anh đem gà vào ăn đi. Mẹ con em tới bến xe sẽ mua ăn, thiếu gì
đồ ăn họ bán...
Dáng ba thất thểu đi vào trại tù... Và cửa tù từ từ kéo đóng lại! Mẹ
em nát dạ tan lòng đứng nhìn theo, rồi lủi thủi dắt con ra về... Vừa
đi bà vừa lau dòng lệ đau thương lã chã chảy dài xuống má. Còn em
nước mắt cũng trào tuôn... Đường về nhà em còn xa xôi lắm, lại gặp
cơn nắng cháy, mưa sa! Hai mẹ con không ai nói với ai lời nào, mỗi
người theo đuổi ý nghĩ riêng của mình... Trong đầu óc thơ ngây bé
nhỏ của em lúc bấy giờ!
Ba em ngày xưa là sinh viên trường Luật.
Bởi “Đất nước lâm nguy / Thất phu hữu trách.” Ba em học nửa chừng
thì vào quân ngũ. Ba em có giành dân lấn đất hay cướp giựt của họ
đâu! Vậy thì ba em có tội tình gì? Phải chăng tội ông làm bổn phận
người trai trong thời loạn vì an nguy của gia đình và bảo toàn lãnh
thổ? Giờ đây họ bắt nhốt trong tù nơi xa xôi hiểm trở? Để ba em và
đồng đội đau không thuốc uống, đói không có ăn, lạnh không đủ ấm!
Lại bị nhốt trong vùng hoang dã đìu hiu đi cả ngày không thấy bóng
người như thế này...
Đi gần đến tối mà mẹ con vẫn chưa đến nhà.
Giờ đây em vừa khát và mỏi mệt cả tứ chi. Em kêu đói bụng, mẹ chép
miệng bảo:
- Ráng
nhịn về nhà sẽ có đồ ăn, vì mẹ chỉ còn đủ tiền để đi xe thôi. Lúc
nãy mẹ định bới cơm cho ba, còn miếng cơm cháy mẹ con ăn cho đỡ dạ
trên đường về. Nhưng thấy ba vét sạch nồi cơm nên mẹ làm thinh! Tội
nghiệp ba ở trong tù đói khát nhọc nhằn lắm con ơi...
Nói đến đó, mẹ em nghẹn lời sụt sùi dòng
lệ khổ! Về đến nhà, em không sao ngủ được. Hoàn cảnh trại tù, ba em
và đồng đội của ông bị hành hạ đọa đày cứ lởn vởn trong đầu óc thơ
dại của em. Từ đó nỗi hờn oán nhen nhúm ngày càng lớn trong tâm hồn
em: “Không bao giờ! Phải, không bao giờ em quên, và tha thứ cho
những kẻ đã đày đọa ba em, và những đồng đội của ba em...”
Vào rằm tháng tám năm sau, em thẫn thờ
ngồi bên cửa sổ vò võ nhìn bầu trời cao rộng, trong sáng ánh trăng
thu! Và con mèo tam thể dễ thương đó, vẫn cào, kéo lai quần em. Nó
chạy nhảy tung tăng, kêu “meo, meo...” giỡn trăng như để làm vui
lòng cô chủ nhỏ.
Thấy em buồn, má cũng chẳng vui gì hơn! Một lúc sau, bà tìm ra cái
lồng đèn trái bí mấy năm trước đã cũ mèm, giấy dán đổi màu và bị
chuột cắn tưa mấy lỗ. Nhớ lại lâu lắm rồi, em đã cẩn thận nhét cái
lồng đèn đó dưới chót, ở trong thùng tập vở, sách truyện, và báo cũ
của ba em.
Đã mấy
mùa Trung Thu qua đi, ba em vẫn chưa được thả về. Em lơ là nhìn cái
lồng đèn nghe chừng xa lạ, mà cảm thấy lòng xao xác héo hắt buồn
loang! Làm sao em vui được khi ba em còn bị đày nơi rừng sâu Việt
Bắc, nơi nổi tiếng rừng thiêng, và nước độc! Nước độc đến nỗi, từ bờ
suối bên này, lội qua bờ suối bên kia thì lông chân bị rụng hết! Ở
đó họ chỉ uống được nước mưa... và có khi đi cả mấy tháng trời, cũng
không thấy bóng sơn nhân, hay lâm nhân... Em lại càng xót xa đau
buồn nhức nhối hơn! Mỗi khi nửa đêm trở giấc, em nghe mẹ khóc lén,
khóc thầm!
Thế
nhân dù có buồn vui! Nhưng đêm nay trăng thu vẫn ngạo nghễ lên cao.
Càng lên cao, trăng càng trải ánh sáng ngà ngọc xuống muôn loài. Gió
thu vẫn nhè nhẹ man mác và mây thu vẫn bàng bạc bay bay về phương
trời vô định... Những cánh chim đêm thu, in chập chờn trên không
gian rồi hối hả bay đi... Chúng như ngầm hiểu nỗi thống khổ đoạn
trường của con người theo vận nước nổi trôi! Và cảm thông trời miền
Nam tự do ấm no đã không còn nữa... Đến cả loài chim muông mà còn
biết buông tiếng kêu ảo não, oán, hờn, trách, hận... đau thương.
Sau khi ba em được thả về, gia đình đùm
túm theo thuyền chài vượt biển Đông! Mười mấy ngày lênh đênh trên
biển cả, gió dồn, sóng dập, đói khát thảm thê. Tưởng chừng cả gia
đình dìm dưới mồ huyệt lạnh của đại dương rồi... Hành trình vượt
biên trùng trùng hiểm nguy thừa chết thiếu sống! Nhờ Ơn Trên, rồi
gia đình em cũng trôi giạt vào Nam Dương (Indonesia) quần đảo với
những thuyền nhân chung chuyến tàu.
Sống lang thang từ đảo này qua đảo khác:
Pacikata, Terrempa, Ku-Ku, rồi Galang (Trung tâm tỵ nạn cộng sản
vùng Đông Nam Á) Tại trại tỵ nạn Galang, nếp sống của người tỵ nạn
cộng sản có quy củ và khá hơn về nhiều mặt. Nhứt là vấn đề y tế! Nơi
đây có trường học dạy Anh văn, có nhà thương, có nhà thờ, có chùa,
có bệnh viện... Có văn phòng Cao ủy tỵ nạn làm việc, để nhận người
vào đệ tam Quốc Gia... Và nhiều tiệm buôn bán gia dụng nấu ăn của
dân bản xứ... Dần dà có quán phở, quán hủ tiếu, quán nhạc, quán
cà-phê, quán sinh tố...
Galang là một trong những hòn đảo đẹp của
Nam Dương. Chùa được cất trên đồi cao gần các dãy trại, để dân tỵ
nạn dễ dàng chiêm ngưỡng và cúng bái. Ngôi chùa khang trang có nhiều
tượng phật cao lớn hơn người... được tàu và trực thăng chở đến...
Phí tổn của ngôi chùa này, nghe đâu do các thương gia ở Nam Dương và
Singapore góp gom để xây cất...
Sáng sớm và chiều tối nào em cũng theo ba
má lên chùa. Vì trên chùa gió mát, và đôi khi em được các sư cho
trái cây hoặc bánh, kẹo... của bá tánh đã cúng Phật. Ở đảo đói khát
thấy mồ, em thèm đủ mọi thứ.
Hôm nào được các sư cho đồ ăn dư của Phật
thì em mừng húm! Em nghĩ bụng đồ ăn thừa của Phật sẽ được phước đức
(và má em cũng nói như vậy). Phía sau chùa chừng hơn trăm thước cao
nữa, phóng tầm mắt nhìn, chúng ta có thể thấy rõ bốn hướng của biển
cả mênh mông vô bờ, vô tận... Và em cảm thấy tâm hồn mình dạt dào
hạnh phúc mỗi lần có dịp đứng bên ba má em nhìn hoàng hôn xuống.
Mặt trời chiều ráng màu đỏ nghệ có hình
bầu dục như quả trứng gà, treo lơ lửng trên nền trời nhiều mây có
vân ngũ sắc ở hướng tây. Nắng vàng trải trên mặt thủy triều của đại
dương bao la xanh ngát một màu ánh nắng lung linh chấp chóa lúc mây
tạnh gió yên.
Vào
những buổi sáng mờ sương, biển thanh thoát và hiền dịu vô cùng...
Mặt nước lăn tăn gợn sóng theo từng đợt gió đùa... nền trời trong
như ngọc, lác đác từng làn mây trắng mỏng như nằm bất động có pha
những sắc màu rực rỡ do những tia nắng bắn ra từ mặt trời cao ngạo
vừa nhú lên ở phương đông. Rồi sương mờ dần tan, chỉ trong chốc lát
thôi... biển tịnh yên, mặt biển xanh lơ, và vầng hồng rạng rỡ cho
nắng ấm, gió the the man mác lay nhẹ chòm lau, khóm đước và hòa cùng
lá thông reo dọc bờ biển tạo ra âm thanh êm ả dễ chịu vô cùng...
Hải âu xoải cánh bàng bạc loang loáng
trong ánh bình minh... “Chim én không làm thành mùa xuân / Nhưng có
chim én mùa xuân thêm phần ý nghĩa.” Ở chốn hải đảo này, em xin nói
lên thiển ý của mình rằng: “Nếu biển không có cánh hải âu thì biển
cả mất đi phần thi vị”.
Có hôm dưới mái hiên chùa, em phóng tầm
mắt nhìn trời biển động! Gió thổi vùn vụt, cây cối ngả nghiêng. Sấm
ầm ầm, sét nổ giòn, những tia chớp sáng lòe lên rồi phụt tắt! Mưa
nặng hột tầm tã ào ào. Biển nộ cuồng từng cột sóng dâng cao như muốn
đảo lộn càn khôn! Thật dễ sợ cho sự nổi trận lôi đình của Thủy Long
Vương trong lòng biển cả(?) Em ngồi co ro, chợt nhớ câu: “Đời không
đau khổ đời vô vị / Biển chẳng phong ba, biển chẳng hùng”.
Hôm đó nơi trại tỵ nạn, ba khéo tay làm
cho em cái lồng đèn trái bí bằng lon nhôm coca-cola, trong mùa Trung
Thu ở trên hải đảo Galang. Lon nhôm sau khi rửa sạch, lau khô, ba em
kiên nhẫn dùng nhiều cục đá có cạnh nhọn, bén... Ông đục từng đường
dài, nhắm sao cho ngay và đều... Ba ngồi cả ngày trời tẳn mẳn đục,
chà cạnh cho hết bén... Rồi nhẹ tay bóp cho những cọng lon nhôm cong
(không gãy) mà ông đã bỏ không biết bao nhiêu cái lon nhôm. Bị xuể
tay, rướm máu mới làm được một cái lồng đèn trái bí, tạm vừa ý cho
con gái mình! Thuở đó gần cuối năm 1979, đảo Galang có mấy chục ngàn
người dân tỵ nạn cộng sản, đại đa số là từ miền Nam Việt Nam. Họ bôn
đào khi miền Nam bị cộng sản và Việt cộng cưỡng chiếm!
Chiều đến cầm lồng đèn trái bí ba làm cho,
lòng em tươi vui phơi phới như hoa nở mùa xuân. Lon ton theo bọn trẻ
con, em đi dâng cộ đèn vòng vòng trong các trại do những anh chị
hướng dẫn... Ôi hải đảo phủ ánh trăng thanh thoát giữa vùng mây
nước, có tiếng sóng biển bủa rạt rào, tiếng gió vi vu hòa cùng tiếng
hát mừng Trung Thu vang dội, rền vọng ngút trời xanh... Của những
đứa trẻ đã cùng gia đình trốn chạy khỏi vùng cộng sản để đi tìm
phương trời tự do... Đêm Trung Thu đó, chúng em được ăn nhiều bánh
kẹo, uống nước trái cây thơm ngọt, từ các nhà hảo tâm của xứ người
chở đến cả tàu, cả xe đến tặng. Họ còn đem cho cả lồng đèn làm đủ
kiểu hình thù các con vật... được sơn phết, dán giấy, vẽ, tô đẹp đẽ,
màu sắc rực rỡ, chói lộng hấp dẫn và quyến rũ vô cùng... Nhưng em
không nhận đâu, bởi ba đã làm cho em lồng đèn trái bí bằng lon nhôm
rồi. Em quý cái lồng đèn này hơn tất cả mọi lồng đèn trên thế giới,
trong mùa Trung Thu. Bởi cái lồng đèn trái bí bằng lon coca làm
thành đó, ngoài tốn nhiều công sức, còn là tâm ý và gói ghém cả tình
cha thương con của ba em...
Mùa Trung Thu ở trại tỵ nạn cộng sản
Galang, khắc ghi đậm nét trong đời, và cho em niềm nhớ không
nguôi... Nó sẽ làm hành trang em mang theo trong ký ức trên khắp
quãng đường lưu lạc.
Thời gian qua mau quá, mới đó mà đã mấy
mươi năm ở xứ người... Ba má vất vả nuôi dưỡng chăm lo cho con học
hành đỗ đạt nên người... Ngày nay em đã thành nhân, ông bà có cháu
ngoại để bồng bế thương yêu, nuông chiều...
Dòng thời gian thắm thoát cứ trôi mãi
trôi, nay ba má em đã ngoài tám mươi! Ông bà ở tuổi “Bát thập cổ lai
hy”. Cái tuổi dễ bịnh hoạn, và gần đất xa trời khiến em buồn đau
thấm thía trong lòng, mỗi khi nghĩ đến! Nhưng phải làm sao đây? Vì
đó là định luật của Tạo hóa, mà trót sanh ra làm kiếp con người thì
kẻ trước, người sau không một ai tránh khỏi!
Rồi ngày đó cũng đã đến, một mất mát lớn
cho gia đình! Má em đã qua đời! Giờ đây, đêm đêm em luôn nguyện cầu,
xin Ơn Trên cho ba em ăn ngon, ngủ khỏe... Và em cố gắng làm mọi thứ
để ba được an ổn tâm hồn, vui vẻ hạnh phúc trong thời gian ngắn ngủi
của đời người còn lại bên cháu con! Dẫu biết rằng, trong cuộc đời có
đầy dẫy hỉ, nộ, ái, ố... thăng trầm, dâu bể, phế hưng... Nhứt là
trên quê hương khốn khổ Việt Nam của em sau ngày cộng sản và Việt
cộng chiếm đóng!
Giặc đã mang nền giáo dục (ở mọi khía cạnh, mọi phương diện) của làn
sóng đỏ từ ngoài miền Bắc tràn vào miền Nam. Hoàn cảnh xã hội miền
Bắc mấy mươi năm theo chế độ cộng sản đã gây và ảnh hưởng tác hại
mọi mặt về tâm lý, văn hóa, xã hội... nhập vào đời sống... Đã thấm
nhuần, và ăn sâu trong tâm hồn, trong máu huyết của con người từ
trong gia đình, ra ngoài xã hội người miền Bắc. Với những điều
nghịch lý, giả nhân, giả nghĩa, lừa bịp, dối gian, tính toán, tinh
ma... Đã xảy ra hàng ngày với cha con, anh em, bạn bè... thì nói chi
đến tình nghĩa vợ chồng, hay nặng nợ với ngọn rau tấc đất, nước
non...
Vì thế,
những đổ vỡ của gia đình nhan nhản xảy ra hàng ngày trước mắt, và
khắp nơi... không sao đếm cho xuể! Khuôn ngọc thước vàng từ nghìn
xưa ông cha ta để lại “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” dưới chế độ
cộng sản vô thần, giờ đây đã bị thui chột, vô nghĩa hết rồi! Thì thử
hỏi xã hội Việt Nam ngày nay làm sao không rối bời? Và quê hương đất
nước Việt Nam làm sao không nát tan, không bị chia năm xẻ bảy... vì
lợi ích riêng của những kẻ cầm quyền hiến dâng, bán cho ngoại bang!
Hôm nay là ngày rằm tháng Tám, đã vào
chánh mùa Trung Thu. Em đẩy ba ngồi trên xe lăn chầm chậm rẽ vào chợ
(vì cả hai chân ba đều yếu). Vùng gia đình em tạm cư, có rất nhiều
chợ Á Đông. Cả tháng nay, tiệm nào cũng bán đầy dẫy bánh trung thu.
Bánh trung thu đủ loại ở địa phương, nội
địa sản xuất... và bánh từ các nước khác nhập vào. Bánh trung thu
nằm phơi phới trong các hộp vẽ hoa bướm màu sắc tươi trẻ rực rỡ. Các
hộp đều có nắp đậy bằng kiếng, nhìn thấy rõ bánh bên trong... gợi
thèm cho khách vào ra chợ.
Em nghĩ, năm nay các bánh được làm từ nước
Tàu Cộng, Việt Cộng chắc hẳn ít ai dám rớ tới? Vì lợi ích riêng, họ
không nghĩ đến sức khỏe của người tiêu thụ, đã dùng quá nhiều hóa
chất... Ăn vào dễ, lấy ra khó, sẽ hại cho thân thể, và có khi còn
chết người!
Ba em
nhìn từng hộp bánh... trong tủ kiếng. Ông lựa rồi chỉ tay, muốn mua
một hộp bánh Trung Thu có trứng, và lấy thêm hộp bánh dẻo nữa. Nhà
em ngoài ba, chỉ có hai vợ chồng em và hai đứa nhỏ (nhưng chúng
không thích bánh trung thu) Ai cũng sợ ngọt, nên chắc chắn sẽ ăn
không hết... Chỉ cần mua một hộp, hai bánh này, hai bánh kia đủ rồi.
Nhưng em lấy cả hai hộp bánh người bán đặt vào bao xách, máng trên
xe cho ba vui lòng. Ba em chỉ hai chiếc lồng đèn treo trên vách. Em
nghĩ chắc ba mua cho hai cháu ngoại... Trả tiền xong em định đẩy ba
đi ra, nhưng ông chỉ thêm cái lồng đèn trái bí, làm em ngạc nhiên
nhìn ba?
Ông nhìn
em mỉm cười, trìu mến:
- Ba mua lồng đèn trái bí cho con! Nhớ
thuở con còn bé nhỏ thích chơi đèn Trung Thu với đám trẻ con trong
xóm... Năm đó đi lính xa, bất ngờ được về thăm nhà trong đêm Trung
Thu. Ba đứng sau lưng cả buổi mà con không hay! Khi thấy ba, con
phóng tới ôm chầm thật chặt như sợ ba vuột mất... Rồi con mừng rỡ,
líu lo gọi mẹ báo tin ba về...
Mắt già nua trắng dã, ba em cảm động nghẹn
lời! Ông tiếp:
-
Ba mua bánh về cúng má, lúc sanh thời bả ưa bánh Trung Thu và bánh
dẻo lắm... Cho dù con gái ba bây giờ tuổi đời có lớn hay già đi nữa,
nhưng trong mắt ba lúc nào con cũng còn nhỏ bé! Còn tình thương con
trong lòng ba càng ngày càng lớn vô bờ, vô tận con ơi...
Em dang đôi tay ôm chầm lấy ba! Hôn lên
trán ba em, mà mắt rưng rưng dòng lệ kính yêu và hạnh phúc thổn thức
ngập cõi lòng!
Em
may mắn được sanh ra trong miền Nam! Em diễm phúc được thừa hưởng
rất nhiều, rất nhiều thứ mà chỉ ở miền tư do dưới Chánh thể Cộng Hòa
mới có... Em đã nghe được câu nói của ai đó, để riêng mình thẩm thấu
và nghiệm thấy rằng: “Trên cõi đời nhiều hệ lụy khổ ải này, có hai
người đàn ông để cho em kính nể và yêu thương nhứt. Đó là ba em và
chồng em!”
Đường
phố đã lên đèn, nhưng ánh trăng thu rực rỡ cao ngạo, thanh thoát áp
chế ánh đèn đường vàng võ. Cha con em dừng lại bên lề nhìn đoàn múa
lân dẫn đầu, các thiếu nhi dâng cộ đèn náo nhiệt đi qua.
Trên đất nước tự do, các em vô tư, thảnh
thơi, mặt mày hớn hở nhịp nhàng cất tiếng hát vang vang:
“Đêm
Trung Thu em đốt đèn đi chơi
Em đốt đèn đi
khắp phố phường
Đèn ông sao với đèn trái bí
Đèn xe tăng với đèn cá chép...
Em đốt đèn
đi khắp phố phường...”
California, Tệ xá Diễm Diễm Khánh An
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
Tập truyện ngắn “Xứ Lạ Tình Quê”
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Rằm Trung Thu. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by dtdb chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, October 4, 2017
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang