Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề:
Xuân & Cuộc đời
Tác giả:
Huỳnh Văn Của
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Ông
nằm yên nhìn qua khung cửa sổ. Bên ngoài tuyết đang rơi. Ông
biết con mình vất vả lắm mới vượt qua 14 dặm đường để đến với
ông. Ông không nhớ chuyện gì đã xảy ra và xảy ra bao lâu rồi.
Ông mơ hồ nhớ lại lúc vừa ra khỏi phòng tắm lúc nửa đêm là cảm
thấy choáng váng, nhói ngực rồi không biết gì nữa.
– Ba đang ở trong bệnh viện Hershey.
Hôm nay là ngày thứ năm rồi.
Lúc nãy, khi mở mắt ra thì con ông đã
cho biết ngay là ông bị xuất huyết não. Không thể giải phẫu vì
vết thương nằm ngay trung khu thần kinh. Đã năm ngày hôn mê!
Không hỏi và không cần con ông nói, ông cũng biết là đời mình
chỉ còn tính từng ngày. Nhưng không ngờ ông còn tỉnh táo chi lạ.
Lẽ ra phải đau, phải nhức đầu mà còn phải lâm vào tình trạng mất
cảm giác toàn thân nữa mới đúng. Đằng này, lúc con ông vừa vào
thăm thì hai y tá vật lý trị liệu đã vực ông dậy cho ngồi xuống
ghế nệm để giơ tay, búng cẳng. Mệt lả người và vô cùng vướng víu
vì một chùm dây, nhợ được gắn, chọt khắp cả người, từ trên mũi
xuống tận... vùng cấm địa! Biết trước sau gì ai cũng phải đến
giai đoạn của cuối cuộc hành trình, nhưng trong hoàn cảnh này
ông mới thấm thía câu “gánh nặng cho cả nhà”!
Ông trở đầu nhìn quanh phòng, rồi nhìn
con. Như hiểu ý, con ông đến bên giường, đặt tay lên vai ông,
nói:
– Ba yên
tâm. Cứ nghỉ ngơi cho khỏe. Con đã xin nghỉ làm hôm nay. Còn má
thì hôm qua đã ở đây suốt đêm. Hồi nãy em Dung tới đón má về
rồi.
Ông nghe
nói vậy thì thấy thương vợ quá đỗi. Lần nào ông nằm bệnh viện bà
cũng canh bên giường cả đêm. Khi ông bị té xe phải mổ lấy lá
lách và rút máu bầm trong bệnh viện Sài Gòn 40 năm trước và cho
tới lần này cũng vậy. Nghĩ cũng lạ! Chỉ khi nào có chuyện cần
nhờ nhau mới thấy tình và nghĩa vợ chồng thiêng liêng và nồng
nàn làm sao! Bình thường thì không có ngày nào không càm ràm
nhau, gây gỗ nhau. Nhưng lúc cạo gió, xoa đầu, bóp tay, nắn chân
hoặc khi bệnh nặng liệt giường thì lại cuống quýt và phập phồng
lo lắng đủ thứ. Ông biết mình nợ bà rất nhiều, nhứt là khi bà
đang trơ trọi có một mình trên cõi đời vì mọi người thân bên bà
đều đã quá cố. Thân tộc gần nhứt chỉ còn vài đứa cháu, là con
của một người anh... họ! Chúng nó đều mồ côi cha lẫn mẹ. Bà theo
chồng và chỉ biết có ông và đàn con năm đứa mà thôi. “Tui tứ cố
vô thân. Chỉ có một mình ông và mấy đứa nhỏ thôi đó nha!” Nhớ
lại câu “nũng nịu” của bà lúc cả nhà đoàn tụ nơi xứ lạ quê người
này, ông cảm thấy ấm lòng chi lạ. Dường như ông vừa thấy lại
hình ảnh của một “mái tóc quá lưng lướt qua góc phố” của 60 năm
về trước. Hình ảnh dù chỉ là trắng đen nhưng vẫn đẹp làm sao!...
... Ông có cảm giác như mình đã mở mắt
nhưng sao không thấy gì cả ngoài những đốm lửa hừng hực nhảy múa
trước mặt. Sau đó, ông thấy rõ ràng mình ngồi dậy được và nhìn
thấy chính mình đang nằm trên giường bệnh. Cứ như bị mộc đè!
Nhưng rõ ràng là ông nhìn thấy và nhận ra hết mọi người: vợ ông,
đứa con trưởng, đứa con gái thứ tư và cả người bác sĩ với bộ đồ
màu xám tro đang cúi xuống sát mặt mình. Ông muốn nói lời chào
nhưng cổ họng dường như bị nghẹt và âm thanh thì vang vọng từ
cõi nào đó thật xa xăm. Ông muốn nói với vợ là ông rất vui và
hạnh phúc khi thấy bà vào thăm ông. Nhưng khi ông định nắm lấy
tay vợ thì thấy mình chỉ như đang với vào khoảng không và ngực
lại nhói từng cơn, còn đầu thì... co, giựt liên hồi. Nhức quá!
Trời ơi! Sao nhức đầu quá! Ông la hét, quơ quào, dãy dụa rồi
không còn thấy gì nữa ngoài những đốm lửa bây giờ đã trở thành
tím lịm đang ngùn ngụt bủa vây trước mặt. Ngay sau đó thì lửa
tắt. Tất cả bỗng trở thành một hố đen thăm thẳm...
– Ông ơi! Tỉnh dậy đi! Thấy trong
người ra sao! Có đau nhức ở đâu không? Nói đi tui xoa bóp cho.
Ông không biết mình đã mê đi bao lâu,
nhưng bây giờ thì nghe văng vẳng như vợ đang nói với mình, nhưng
khi quay đầu hướng về phía có tiếng nói thì sao không thấy gì cả
mặc dù mắt đã mở. Ông không có cảm giác rõ rệt về những gì đang
xảy ra chung quanh. Có lẽ mấy cái tế bào hình que và hình nón
trong não chạm vào đâu thì nơi đó “chiếu phim” cho xem mà thôi
vì ông có cảm giác như có người nào đó rờ trán rồi bóp tay, bóp
vai, nhưng sao không trông thấy gì hết. Tất cả chỉ là một vùng
tối mờ mịt.
–
Nếu nghe tiếng con thì chớp mắt hay bóp tay con đi ba!
Thì ba đang mở mắt và đưa tay cho má
mày nắm đây nè! Ông trả lời mấy lần nhưng con ông cứ lập đi lập
lại hoài câu nói đó. Ông bất chợt cảm thấy khó thở, nặng đầu
nhưng ngay sau đó lại có cảm giác bềnh bồng, nhẹ tênh rồi thấy
một vùng tối từ đâu đổ ập tới... Lần này thì ông mở mắt và nhìn
thấy vợ đang ngồi bên giường, lần chuỗi Mân Côi. Trong góc phòng
là con ông đang ngồi nói chuyện với ai đó qua điện thoại. Thấy
ông mở mắt bà mừng rỡ cầm tay, rưng rưng. Ông bóp nhẹ tay bà.
– Ba tỉnh rồi nè con!
Ông nghe tiếng vợ nói với con mà thấy
thương bà và con quá đỗi! Không muốn làm khổ vợ con nhưng cũng
phải đành chịu! Con chắc phải nghỉ làm nữa rồi! Còn vợ có lẽ lo
lắng quá nên tiều tụy thấy rõ. Ông muốn nói lời an ủi bà nhưng
vẫn là tiếng khò khè trong cổ họng. Ông muốn bóp tay vợ để bà
thêm an lòng nhưng sức lực đã biến đi đâu hết.
– Ông ơi! Ráng lên nha. Vợ chồng con
Út nói sẽ chạy về thăm ông cuối tuần này đó! Bà con ở đây đều có
vô thăm ông mấy bữa trước. Gia đình chị hai Liễu cũng có chạy
lên nữa. Còn ông Tịnh, thằng Chiếu, thằng Bình đều có vô thăm
ông hôm qua.
A! Cô “út điệu” của cả nhà! Cô con gái “rượu” hay nhõng nhẽo
nhứt trong ba chị em. Còn ông bạn của thời Tổng Nha Công Vụ thì
thân thiết từ hơn nửa thế kỷ nay rồi. Chắc là hai đứa bạn thân
của thằng con trưởng đã chở ông ấy lên thăm mình đây. Đỗ Văn
Tịnh! Phó nhòm của đội bóng bàn Tổng Nha Công Vụ thuộc Phủ Thủ
Tướng của nền Đệ I Cộng Hòa, là một ông bắc kỳ vui tính và xuề
xòa hết biết. Còn hai người bạn thân của con ông thì vui nhộn và
kể chuyện tếu rất có duyên. Hai đứa làm ông nhớ lúc con ông đem
ban nhạc về dợt trên căn gác lửng hồi cuối thập niên 60. Đám bạn
của con ông tiếu lâm hết mức. Hôm nào chúng ngủ lại sau khi dợt
nhạc là cả nhà thức trọn đêm nghe bọn trẻ tán dóc rồi pha trò,
cợt đùa không biết mệt. Hai đứa bạn của con ông – đều là dân “đi
mây về gió” thuở xưa – bây giờ cũng liếng thoắng như vậy. Đã vợ
con đề huề rồi mà lâu lâu cứ hẹn gặp nhau “quậy” tá lả bằng
những chuyện kể rất có duyên. Tuổi trẻ Sài Gòn của dạo đó và lứa
trưởng thành ngày nay ở xứ người sao vẫn hồn nhiên quá đỗi! Ông
thấy lòng thanh thản và hạnh phúc. Mọi người đều tốt với gia
đình ông. Cộng đồng người Việt Quốc Gia vùng trung phần
Pennsylvania không có bao nhiêu gia đình nên ai nấy đều quen
biết và gần gũi nhau. Riêng gia đình của người hàng xóm hồi còn
ở Việt Nam thì đã như là người trong cùng một nhà. Bọn trẻ gọi
bác hai Liễu là theo tên của người trưởng nữ. Louis Trần Huỳnh
Thọ lúc sinh thời là cựu quân nhân khóa 3 Trường Võ Khoa Thủ
Đức. Ông bị thương giải ngũ rồi về làm tại Tổng Nha Công Vụ.
Không ngờ đầu thập niên 60 hai gia đình lại ở sát cạnh nhau tại
khu phố trong hẻm 120 đường Trương Minh Giảng. Khu phố có 6 căn
nhà thì nhà ông số 5 còn ông Thọ ở căn số 4. Qua đây cả hai gia
đình có thể gọi là hàng xóm vì gia đình ông ở Pennsylvania còn
bên “bác hai Liễu” thì ở Virginia. Chỉ cách nhau có 3, 4 tiếng
lái xe thôi!
– Ba ngủ rồi con. Thôi mình về đi. Mày cũng cần phải nghỉ ngơi
nữa! Cả tháng nay bây cực với ba mày lắm rồi!
Vợ và con không biết ông vẫn còn thức
và chỉ nhắm mắt để đó. Bà tưởng ông ngủ thì càng tốt. Cứ để hai
mẹ con yên tâm đi về. Ở trong này riết rồi không chừng bệnh
luôn. Không hiểu sao ông tỉnh táo đến như vậy. Mà cũng chẳng
thấy đau nhức gì nữa. Có lẽ là nhờ thuốc thang đầy đủ. May là ở
Mỹ! Chứ nếu còn ở trong nước thì ông “đi” từ lâu rồi! Mà nên
“đi” sớm càng tốt vì cứ dây dưa như vầy thì khổ cho thân ông và
cho mọi người quá! Ông nén tiếng thở dài và lần hồi như thấy
mình trở lại thời đạp xe chạy theo vợ hồi lúc mới gặp bà trên
đường xuống phố đường Bon ở Nam Vang. Sau đó là cả cuộc đời đang
được đạo diễn tài ba là khối óc dựng thành phim rồi chiếu lại
cho xem... Đã thật!...
... Ông nằm im mở mắt nhìn đứa con
đang ngồi trầm ngâm nhìn ra khung cửa sổ. Ông biết mình khó qua
khỏi lần này. Đau đớn triền miên. Morphine thì có giới hạn. Chỉ
nội cơn ngứa dưới lưng cũng đủ làm con người bần thần vì...
không được gãi cho đã huống chi trong người là cả một kho bệnh
trầm kha. Xuất huyết não, trụy tim, suy thận, thống phong, teo
cuống họng. Mất khả năng nhai nuốt nên đã phải chịu cho đưa thức
ăn qua ống dẫn thẳng vào bao tử. Nằm một chỗ để chờ chết quả là
khó chịu không thể tả. Thà hôn mê rồi “đi” luôn. Đằng này... Ông
không nghĩ ngợi thêm. Chỉ muốn đứt hơi ngay lập tức. Ông đã cầu
nguyện thật nhiều để mong được Chúa đón đi từ lâu. Nhưng Ngài
chưa chuẩn nhậm nên ông còn phải nằm chờ trong tình trạng lúc
tỉnh, lúc mê. Ông bất giác nhìn đứa con trưởng. Thấy con tiều
tụy, hốc hác mà thương nó quá! Ngày nào cũng vào với ông rồi mới
chạy đi làm. Ông biết nó vì cha mẹ mà phải chôn chân ở xứ “đi xe
ngựa và không xài điện khí” này. Ông nhớ lúc nó may mắn được
nhận vào trường công lập của Pháp đúng 50 năm về trước. Một cuộc
thi tuyển dù mấy đứa nhỏ chỉ mới được đúng 6 tuổi! May mắn hơn
nữa là sau đó nó thi đậu vào 6ème rồi qua học tại trường trung
học nổi tiếng nhứt của Pháp ở Sài Gòn. Ông và vợ đã hy sinh rất
nhiều cho thằng con. Nó là đứa duy nhứt được “đầu tư” vào chương
trình Pháp. Có nghĩa là sẽ có tương lai sáng sủa hơn các bạn của
nó đang học bên chương trình Việt. Từ nhỏ, ông muốn con mình
theo con đường âm nhạc nên đã gom và đóng thành sách nhạc hàng
trăm bài hát nổi tiếng của thời tiền chiến và thập niên 50, 60
cùng một cây mandoline, nhạc cụ mà ông đã chơi từ nhỏ cho tới
giữa thập niên 50. Tất cả những thứ đó đều là gia tài văn nghệ
ông dành cho thằng con trưởng. Thằng con cũng có máu văn nghệ
nhưng chỉ thích gõ trống và cũng không thích đàn, dù là chơi
guitare, nói chi tới mandoline. Ông dìu dắt nó về mọi mặt từ lúc
còn thơ nhưng đến khi nó vào Hướng Đạo, một hành động mà ông
tưởng chỉ là ham vui với bạn, rồi khi nó quyết định bỏ du học
chỉ để lên Đà Lạt bằng câu nói “Con muốn theo học môn Bang Giao
Quốc Tế của trường Chánh Trị Kinh Doanh” thì ông hiểu con mình
đã trưởng thành, đã đủ sâu sắc để định hướng cho đời mình ngay
lúc còn trong lứa tuổi thanh thiếu niên.
Cái giá của việc bỏ du học bên Bỉ là
nó bị đôn quân theo lệnh tổng động viên năm 1972. Cái “tội” mê
chơi sau khi nhận món quà sinh nhật năm 15 tuổi là chiếc Suzuki
M15, đã khiến nó ở lại lớp cho nên bị bứng giò vì luật Ủy Quyền
năm 1972. Vợ ông khóc sưng mắt khi nó trình diện nhập ngũ và
càng hãi hùng hơn nữa khi sau đó thằng con chọn về Binh Chủng
Biệt Động Quân. Ông không ngạc nhiên vì cái tính phiêu lưu vốn
đã di truyền từ cha qua con, nhưng ông thấy con mình đi thứ
lính... dễ chết quá, bậc cha mẹ ai mà không lo lắng? Đúng là nó
gàn bướng và liều mạng vì có “đường binh” mà nó không màng tới.
Nó luôn nói “Con không muốn ba má tốn tiền chạy chọt”. Còn khi
đề cập tới việc nhờ một đại tá Thiết Giáp mà bà vợ là hàng xóm –
ở căn mang số 6 – có con cùng học chung một trường, ở chung một
chỗ trọ với nó, thì câu trả lời là: “Con không muốn ba má mắc nợ
hay mang ơn ai cả!” Vợ ông khóc mỗi ngày và sau đó chỉ còn một
niềm an ủi duy nhứt cho bà là “Nó cận thị năng như vậy chắc là
người ta cho làm trong văn phòng chứ đưa ra mặt trận thì thấy
đường đâu mà đánh giặc!”
Thời may, nó ra khỏi cuộc chiến một
cách lành lặn và chỉ trả nợ quỷ thần có đúng một năm phá rừng,
làm rẫy sau khi mất nước. Kể ra thì gia đình ông có phước hơn
nhiều người khác. Từ lúc đám con còn nhỏ thì gia đình ông chỉ
sống bằng đồng lương công chức của ông! Còn vợ thì chỉ loay hoay
trong nhà lo việc bếp núc và phụ ông nuôi dạy đám trẻ. Càng may
mắn hơn nữa là cô con gái kế thì theo chồng di tản ngay sau khi
có lệnh đầu hàng của tướng Dương Văn Minh hôm 30 tháng 4/1975.
Hai vợ chồng nó theo tàu Hải Quân ra khơi và định cư tại vùng
đông bắc Hoa Kỳ từ đó đến nay. Nhờ có vợ chồng nó mà sau thời
gian “ngất ngư” vì bo bo, khoai, sắn và bột mì của 3 năm đầu,
thì từ 1979 đến ngày rời Sài Gòn để đi Mỹ thì mỗi năm nó gởi về
vài thùng hàng đủ để cho cả nhà “cầm hơi” một cách... khoan
khoái. Rõ ràng là gia đình ông được Ơn Trên thương tưởng và đoái
hoài vì cả nhà đều an lành định cư nơi này. Con cái đều đã lập
gia đình, có việc làm vững chãi, có nhà cửa, xe cộ tươm tất và ở
cách nhau không quá 5, 10 phút lái xe. Còn hạnh phúc nào hơn khi
hầu như cuối tuần nào cũng có con cháu gom lại đầy nhà để tiệc
tùng vỡ lỡ! Sống ở xứ người là phải như vậy thôi: hết nuôi con
từ mấy chục năm trước, bây giờ tới giữ cháu cho đám trẻ đi làm
kiếm tiền. Hai vợ chồng già lấy hạnh phúc của đại gia đình làm
nguồn vui. Còn mong gì hơn nữa chứ?...
... Dường như có tiếng đọc kinh rồi
tiếng khóc của rất nhiều người. Có những bàn tay xoa bóp, vỗ về
ông. Ông có mở mắt nhưng không thấy, có cố gắng nói nhưng không
ra tiếng và âm thanh chung quanh nghe y hệt như tiếng hành tinh
trong vũ trụ đang chíu chít quay. Ông không có cảm giác đau đớn
từng hồi, từng cơn như trước đó, nhưng biết rõ ràng là mình đã
ngưng thở từ khi có một ống cao su đút sâu trong miệng. Ông biết
mình đang đi đến cuối cuộc hành trình. Hành trình về nguồn của
một con người thật êm ả làm sao! Thanh thản quá! Bình an quá!
Rồi bỗng dưng ông thấy lại tất cả. “Nhà làm phim kiêm đạo diễn
đại tài” đang chiếu lại và chiếu rất chậm cuốn phim của cuộc đời
ông. Từ lúc theo Má đội từng hũ nước mắm đi bán dạo, rồi mua
giàn cho các gánh cải lương từ Sài Gòn hoặc các tỉnh qua lưu
diễn tại Nam Vang, cho tới thời kỳ qua lại biên giới như đi ăn
cơm bữa: sáng làm việc ở Sài Gòn, chiều ghé chợ Đủi trên đường
Lê Văn Duyệt đón xe đò để vượt 250km về Nam Vang thăm vợ con.
Ông lại thấy cảnh đốt đèn Manchon lúc đem gia đình về Sài Gòn
mua nhà trong vùng chợ Xóm Chiếu. Thời đó tuy chiến tranh đã
tràn lan, nhưng khu Lê Văn Linh, Tôn Đản, Trịnh Minh Thế thì rất
thanh bình khi thầy và thợ sống chung rất hài hòa mặc dù vùng
Khánh Hội, Xóm Chiếu, Tân Thuận bị gán cho cái nhãn hiệu bất an
ngay từ lúc mới phát triển.
Khúc phim đang chiếu ngon lành bỗng
dưng ông thấy Má từ đâu hiện ra cười với ông và hối đi kiểm soát
vé hát ngay lập tức. Cùng lúc đó ông thấy chính mình đang lái
chiếc Vespa từ Sài Gòn vượt đoạn đường 150 cây số để về Sa-đéc
tìm người cha đã 25 năm chưa gặp mặt con. Hình ảnh bây giờ đã
không là trắng đen hay xám ngắt mà đang bừng sáng với một màu
trắng rất tinh khôi, trắng hơn cả mây trời trong một ngày thật
quang đãng. Ánh sáng bao trùm mọi thứ và dần dà lan tỏa đến bên
ông. Ánh sáng rất lạ lùng, chói chang nhưng không nhức mắt, cuồn
cuộn nhưng rất dịu dàng. Chiếc Vespa như không còn chạy trên
đường mà đang chắp cánh nhẹ lướt, bềnh bồng trong vầng sáng rất
tinh khiết đó. Bỗng dưng bóng tối lại đổ ập đến. Bóng tối của
vực sâu miên viễn. Bóng tối của thiên thu đang đưa ông vào giấc
ngủ triền miên không biết đêm hay ngày.
HUỲNH VĂN CỦA
(Để
nhớ Phê-rô HUỲNH VĂN ĐẶNG 06/05/1930–14/01/2009)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trung tâm lưu trữ các Ngày lễ mừng Bổn mạng BCND/QLVNCH...
|
Hình nền: Xuân Kỷ Hợi. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by hvc chuyển
Đăng ngày Thứ Ba,
January 15, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang