Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề:
Xuân và Mai…
Tác giả: Huy Văn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Thôn
Phú Lộc uể oải phơi mình dưới cơn nắng gắt dù trời đang vào Xuân.
Hậu cứ của Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 12 BĐQ cũng lắng dần sinh hoạt. Thay
vì theo con đường đi ngang qua doanh trại kiêm hậu cứ của các Tiểu
Đoàn 21 và 39 BĐQ để đến khu vực của Tiểu Đoàn 37 thì tôi rẽ phải,
theo lối tắt ở phía sau cư xá sĩ quan của Liên Đoàn rồi băng ruộng
để đi cho gần. Vừa bước lên bậc thềm của văn phòng Tiểu Đoàn 37 BĐQ
thì đã nghe tiếng reo vui:
– Có ông ở đây thật là đỡ cho tui quá!
Thiếu úy Tuấn vừa thân mật bắt tay tôi,
vừa nói nhỏ:
–
“Gồng” dùm tui vụ tiếp nhận quà Xuân Chiến Sĩ này nghe! Ông về thật
đúng lúc ghê nơi!
Anh bạn cựu học sinh Phan Chu Trinh và
sinh viên trường Luật này bán cái đẹp thật! Tôi vừa lầm bầm trong
bụng vừa đóng vai đại diện cho Tiểu Đoàn để nhận quà và thư chúc Tết
của các học sinh trường Nữ Trung Học Hồng Đức gởi cho đơn vị. Đã có
hai thầy và bốn em học sinh đang ngồi quanh bàn họp, trước mặt mỗi
người là một tách trà đang tỏa khói và vài dĩa bánh mứt. Trong góc
phòng là một số thùng gói ghém đẹp mắt và buộc nơ nhiều màu. Cuộc
tiếp xúc diễn ra ngắn gọn nhưng rộn rã. Một mặt là nhờ Tuấn gài
chuyện thời còn đi học và tôi thì cứ luôn miệng kể chuyện tham dự
hội chợ Tết Giáp Dần của Trường Nữ, mặt khác, hai vị giáo sư đều là
những người đã tham gia buổi văn nghệ mừng Xuân do Tiểu Đoàn tổ chức
hồi năm ngoái, nên câu chuyện cứ thế mà diễn tiến trong bầu không
khí thật tự nhiên và thân mật. Sau đó, Tuấn mời phái đoàn qua Câu
Lạc Bộ ăn cơm chiều nhưng người giáo sư hướng dẫn thoái thác với lý
do chính đáng là “Phải đưa các em về sớm như đã hứa với nhà trường
và phụ huynh...”
– Ông có chương trình gì cho mấy ngày Tết không?
Tuấn vừa hỏi tôi, vừa nhìn theo chiếc
Dodge chở phái đoàn của trường Nữ Trung Học đang tiến ra cổng.
– Ăn Tết tùy hứng. Không có dự tính nào
cả. Tôi đáp gọn.
– Vậy nếu ông muốn thăm Thiếu tá Gio hay Đại úy Vương và mấy người
bạn của ông ngoài hành quân, thì ngày mai trở lại đây đi với tui vào
Quảng Ngãi. Sáng đi sớm. Phát quà xong là về liền. Còn không thì
trưa mùng Một trở lại đây nhậu với anh em một bữa. Coi như để mừng
Xuân và bàn giao bán chính thức hậu cứ này cho ông.
– Mai mấy giờ ông đề-pa?
– 8 giờ sáng! Hay là... ở đây chờ tui lo
xong công việc rồi tụi mình vào phố nghe! Thăm “nàng” một chút rồi
mình trở vào đây ngay. Tường Vy gặp ông chắc vui lắm, cứ nhắc ông và
bản Mộng Dưới Hoa hoài.
– Tôi không có chủ đích rõ rệt, lại cũng
có ý ghé qua vài nơi. Đúng 8 giờ sáng mai mà không thấy tôi thì ông
cứ vọt, đừng chờ! Còn mùng Một thì tôi sẽ có mặt với anh em!
– Cũng được! A! Suýt chút nữa tui quên.
Mới hai tuần trước, có một cô tên Mai và người chồng vào đây tìm
ông. Họ có để lại một mảnh giấy nhỏ. Ông chờ đây.
Tuấn vào trong văn phòng rồi trở ra ngay
với một mảnh giấy trên tay.
– Tui đã biết câu chuyện ghi trong đó. Là
cô ấy kể cho nghe chứ không phải tui coi lén đâu! Nhớ trở lại đây
sáng mai hoặc mùng Một nghe!
Tôi gật đầu, bắt tay từ giã Tuấn rồi cất
mảnh giấy vào túi áo. Không cần đọc vội vì có thể đoán được nội
dung. Trên đường ra cổng, tôi rảo chân đi một vòng ngang qua dãy văn
phòng của các Đại Đội với hy vọng nhìn thấy một gương mặt quen thuộc
nào đó. Nhưng không còn ai lai vãng. Vắng ngắt. Khu gia binh kế bên
doanh trại cũng im lìm không kém. Quang cảnh hoàn toàn trái ngược
với một năm trước đây, khi Tiểu Đoàn từ Trà Kiệu trở về hậu cứ dưỡng
quân và ăn Tết. Còn bây giờ thì cả Liên Đoàn đang bảo vệ Quảng Ngãi.
Lính xa nhà nên hậu cứ buồn thiu! Gia đình của những người bạn thân
cũng không thấy đâu. Nhà chị Hương, vợ Thiếu úy Công và nhà Trung sĩ
Chế Việt, người bạn văn nghệ đầu tiên của tôi khi mới ra đơn vị, đều
đóng cửa. Có thể chị Hương đã về Hố Nai ăn Tết và vợ con của Chế
Việt cũng đã về Huế đón xuân không chừng. Nhớ quá những ngày dưỡng
quân đầu đời của Lính!...
... Mảnh giấy của cô giáo tiểu học theo
tôi vào Hương Xưa, chiếc quán quen thuộc nằm cạnh ga Hòa Khánh, nơi
lui tới hầu như hằng ngày mỗi khi chúng tôi có dịp dưỡng quân tại
hậu cứ. Buổi xế chiều, quán vắng. Những người quen thuộc không thấy
đâu. Anh chị Quyến lo đi sắm Tết. Hương, cô em út của chị Quyến thì
đi dự tiệc mừng xuân với bạn học chung lớp. Không biết khi nào họ
trở về. Cô thâu ngân viên cho biết như thế. Tôi chọn chiếc bàn trong
cùng, nơi mọi khi chúng tôi vẫn thường quây quần trước đây. Nhân ảnh
vẫn hằn nét trong đầu nhưng người thì đã chia xa. Một thoáng chạnh
lòng khi nghĩ đến những đồng đội còn đang miệt mài trong vùng lửa
đạn. Họ không có mùa xuân đích thực. Bóng xuân chỉ đến qua làn sóng
phát thanh với những bài hát quen thuộc đến nằm lòng. Mùa xuân của
Lính là những gói quà nho nhỏ và những cánh thư từ hậu phương gởi ra
tiền tuyến. Những nét chữ học trò, dù mang cùng một nội dung, đã là
một hạnh phúc thật ấm lòng. May mắn lắm Lính mới nhận được vài chữ
không nằm trong “bản sao” đã được ai đó viết sẵn. Tuy nội dung chỉ
là vài dòng mộc mạc với lời chúc an lành trong mùa xuân mới, nhưng
bấy nhiêu thôi cũng đủ để Lính khoan khoái đem khoe rầm trời với bạn
bè trong đơn vị. Ngày mai đồng đội của tôi sẽ nhận được những niềm
vui nho nhỏ ấy để càng thêm nhớ nhà, nhớ phố và nhớ bạn hữu gần xa.
Họ còn ở tuyến đầu còn tôi may mắn hưởng xuân nơi phố thị và đang
miên man nhớ họ: những người – mà chỉ mới một năm về trước – đã cùng
tôi lòng vòng ngoài Đà Nẵng. Bây giờ thì một số đã về với cát bụi
hoặc đã an phận đời thường sau khi đã bỏ lại một phần thân thể nơi
chiến địa. Không tính người mới, thì những người cũ còn lại trong
Trung Đội chỉ đếm được trên đầu ngón tay sau 4 lần bổ sung quân số
trong năm vừa qua. Một năm lại đến rồi đi. Ngày giờ này, năm ngoái,
ai nấy đều hăm hở vác những nhánh mai từ rừng núi Quế Sơn và Duy
Xuyên mang về làm đẹp cho hậu cứ rồi tha hồ ra phố Đà Nẵng vui xuân,
còn hôm nay thì chỉ một mình tôi bên ly cà-phê, ngồi trong quán vắng
để thả ký ức về những kỷ niệm còn rất đậm nét, trong đó có hình ảnh
của cô giáo trẻ mà anh em trong đơn vị đặt cho biệt danh là... “Mai
mốt”. Tôi không buồn đọc mẫu nhắn tin mà tôi đã đoán được phần nào
nội dung. Chắc chắn không ngoài chuyện báo tin đã lập gia đình kèm
theo vài câu cáo lỗi vì đã không lần nào tôi nhận được hồi âm của
Mai. Cũng hợp lý thôi khi những lá thư tôi gởi cho Mai chỉ là để
nhắc tới hôm gặp gỡ thật tình cờ và đặc biệt, hoặc chỉ nhờ chuyển
vài lời thăm hỏi của tôi đến ông nội của nàng. Nhưng tôi lầm!
“... Ông Nội mới qua đời tuần vừa qua (thứ
bảy 8/2/1974) trong Hòa Mỹ. Nội vẫn nhắc anh hoài và đã có ý định sẽ
gửi tặng anh một nhánh mai như hồi năm ngoái. Nhưng... Buồn quá!...
Còn em thì bận đủ thứ chuyện nên chỉ một lần gửi thư thăm anh rồi
thôi. Bà nội đã về Phước Tường ở với ba má và vợ chồng chúng em. Vài
hàng tin cho anh rõ. Mai”.
Bức thư chỉ vỏn vẹn bấy nhiêu lời. Không
có câu nào nhắc tới sự bặt tin sau đúng một lần hồi âm. Nhưng vì sao
tìm đến hậu cứ để báo tin buồn, trong khi những liên lạc suốt năm
qua chỉ là những lời thăm hỏi của tôi nhờ nhắn lại với người lão
niên mà tôi thật lòng trọng kính? Tôi không có cảm giác rõ rệt, chỉ
biết đâu đó trong lòng đang dậy lên một nỗi buồn pha lẫn chút bùi
ngùi. Tôi có thể đoán được nguyên do vì sao ông cụ qua đời và nhớ
ngay đến ngày gặp mấy ông cháu của Mai trong vùng trách nhiệm hành
quân... chỉ mới một năm trước đây thôi!...
Tháng giêng 1974, chừng một tuần trước Tết
nguyên đán, địch liên tục quấy phá và pháo kích vào hai xã Phú Diên
và Dương Mông thuộc quận Quế Sơn, gây thương vong cho các đơn vị Địa
Phương Quân và Nghĩa Quân cũng như các hương chức xã, ấp và dân
lành, nên Tiểu Đoàn 37 BĐQ được chuyển khẩn cấp từ Phong Thử thuộc
quận Điện Bàn qua Quế Sơn để... dẹp loạn. Tiểu Đoàn rải quân từ Phú
Trạch về tới Hòa Mỹ, lấy con đường hỏa xa xuyên Việt làm ranh giới
giữ an ninh cho các làng, thôn trong vùng. Mấy ngày truy lùng bóng
địch chỉ như một cuộc picnic bằng súng đạn dọc theo hành lang của
hai con suối Trà Nam và suối Cái ngay tại cửa ngõ đi vào thung lũng
Quế Sơn, bên kia đường rầy xe lửa. Không thấy bóng dáng của đám
chính quy, còn du kích thì vốn quen thuộc địa thế nên nhanh chóng
chém vè rồi biến mất dạng vào rừng sâu của thung lũng sau khi bắt
loa tuyên truyền hoặc pháo kích lẻ tẻ vào vị trí đóng quân của chúng
tôi và các đại đội bạn. Không khí lành lạnh của núi rừng, cộng với
vẻ hoang tàn đổ nát của những ngôi nhà một thời là dấu ấn của sự trù
phú và an bình trong vùng Cẩm Sơn, Hòa Mỹ làm người Lính chợt se
lòng. Đó đây là những nền nhà ngổn ngang kèo, cột mục rữa hoặc cháy
nám. Từ đường xe lửa xuyên Việt trở vào hướng Tây là vùng oanh kích
tự do, là đất chết. Nhưng khi nắng hồng mang hương Xuân trở về thì
cũng là lúc vạn vật hồi sinh nên bằng cách này hay cách khác, một số
người quanh vùng vẫn vượt đường rầy, vào tận trong vùng Cẩm Sơn vốn
đã bỏ hoang từ lâu để lo chuyện vườn tược hay chăm sóc những khóm
mai vàng vốn nổi tiếng đẹp nhứt Quảng Nam của họ. Đã có không hiếm
những trường hợp họ bị du kích hay chủ lực tỉnh bắt đi dân công,
thực chất là tải thương cho địch sau khi chúng thất bại trong những
lần tấn công vào phòng tuyến của các đơn vị Địa Phương Quân hay các
đơn vị tăng phái như chúng tôi. Ông nội của Mai và đứa cháu chừng
12, 13 tuổi là những người mà chúng tôi gọi là liều mạng đó.
– Ổng không mang theo giấy tờ tùy thân và
khai là đã ở trong thôn Hòa Mỹ mấy ngày rồi đó chuẩn úy! Còn đây là
những bó mai ổng nói là chặt từ trong vườn nhà.
Trung sĩ Diệp vừa báo cáo vừa chỉ vào mấy
bó mai buộc đầy trên chiếc xe đạp dựng kế bên hai ông cháu. Tôi nhìn
ông lão, chưa kịp hỏi thì ông đã lên tiếng, đại ý nói là đang cư ngụ
trong làng tỵ nạn Chiêm Sơn–Trà Kiệu, vốn là nơi dành cho đồng bào
tản cư khỏi vùng giao tranh bao gồm các xã Phú Trạch, Hòa Mỹ và Cẩm
Sơn của Quế Sơn cùng những nơi khác của quận Duy Xuyên gom về.
– Tôi đã 70 tuổi rồi! Đem theo giấy tờ làm
chi cho mất công?! Còn thằng cháu thì mới có 12 tuổi thôi. Nó theo
để phụ giúp tôi về trong đó chặt ít nhánh mai về bán Tết.
Ông lão vừa phân trần, vừa đưa tay chỉ về
hướng thung lũng. Tôi trấn an ông và giải thích là Lính chỉ làm
nhiệm vụ của mình khi hai ông cháu đi ngay vào chốt tiền đồn. Giữ
ông lại để lấy tin chứ không phải làm khó dễ người dân. Lúc này thì
hai ông cháu có vẻ bớt lo lắng và sau đó ông cụ kể lại những ngày
hai ông cháu vào tận nền nhà xưa để làm công việc mà cũng có nhiều
người dân khác làm như ông. Lúc ông đang nói về chuyện trẩy lá và
chăm sóc mấy cội mai thì có khinh binh của Đại Đội dẫn ba người tiến
đến chỗ chúng tôi đang đứng. Họ là đại diện của Hội Đồng Xã Chiêm
Sơn – nơi có làng lánh cư mà ông lão vừa cho biết – và một cô gái.
– Đây là thẻ căn cước và giấy chứng nhận
cư trú của ông nội em.
Cô gái vừa nói vừa đưa giấy tờ cho tôi.
– Có người về nói là ông nội và em Trung
bị giữ lại trong này nên em đã mời ông phó Chủ Tịch Hội Đồng Xã và
Thư Ký cùng vào đây để xin cho ông nội về.
Người phó chủ tịch Hội Đồng Xã cũng tiếp
lời cô gái:
– Đây
là ông Tư, cư dân của làng tỵ nạn do chúng tôi điều hành trong Chiêm
Sơn. Xin chuẩn úy cho ông về. Bà cụ ở nhà lo ghê lắm!
Tôi cười, kể lại sự việc và kèm theo một
câu nói đùa là ngoài cẩm chướng và pensée thì mai là loại hoa tôi ưa
thích nhứt. Vừa nghe xong câu nói thì ông Tư và các đại diện của
Chiêm Sơn bật cười, còn cô gái thì có vẻ e thẹn ra mặt.
– Cháu tôi đây tên Mai. Nó là cô giáo tiểu
học. Chắc là vừa từ Đà Nẵng về thăm chúng tôi dịp cuối tuần thì gặp
chuyện này.
– Mai
mốt nhớ vào thăm chúng tôi nghe cô Mai!
Một người lính của Trung sĩ Diệp buột
miệng trêu chọc càng làm cho cô giáo thêm mắc cỡ khi quay lưng bước
theo hai vị hương chức, còn ông Tư khi đẩy xe ngang qua tôi thì
cười:
– Có thật
cậu thích... mai không!?
Tôi không trả lời, chỉ mỉm cười và gật
đầu. Ngay lập tức, có ai đó la lên thật lớn:
– Ông nội yên chí. Thế nào mai mốt chuẩn
úy của tụi cháu cũng sẽ tìm ông nội để xin... Mai là cái chắc!
Tràng cười thay lời tiễn chân tưởng đâu
chỉ là một lối đùa dễ thương trong ngày sắp vào xuân nhưng lại trở
thành hiện thực khi chỉ hai ngày sau là có lệnh cho cả Tiểu Đoàn di
hành về Trà Kiệu, quận lỵ của Duy Xuyên, để đoàn xe Quân Vận vào
đón. Khoảng cách di chuyển không xa, Chiêm Sơn lại nằm ngay vòng đai
của Trà Kiệu nên tôi mới có dịp tìm đến thăm ông Tư trong khi chờ
đợi phương tiện đề về hậu cứ dưỡng quân...
– Không ngờ lại gặp chuẩn úy ở đây!
– Hôm ở trong Quế Sơn cháu nghe ông bác
nói là đang ở trong làng tỵ nạn này nên khi ra đến đây thì bọn cháu
ghé thăm.
– Ở
chơi lâu không?
–
Dạ, cả tiểu đoàn đang chờ xe vào bốc về Đà Nẵng. Chắc không chờ lâu
đâu.
– Vậy thì
uống chút trà, ăn miếng bánh cho vui. Của cháu Mai mang từ Đà Nẵng
về cho chúng tôi ăn Tết đó!
– Cám ơn ông bác. Cháu tưởng cô Mai về ở
đây với hai cụ từ hôm kia rồi.
– Phải đến hôm nay nó mới nghỉ dạy. Chắc
chắn nó sẽ về đây ngay để phụ với tôi và bà nội nó lựa mấy nhánh mai
đẹp nhứt mang ra chợ quận bán Tết.
– Năm sau ông bác đừng vào đó chặt mai
nữa! Nguy hiểm lắm! Trong đó là vùng oanh kích tự do. Mấy hôm trước
chút xíu nữa thì...
– Tôi quen rồi! Bao nhiêu năm nay tôi bị
lính cộng hòa và đám bộ đội chận bắt hoài nhưng rồi cũng đâu có sao!
– Không thể may mắn mãi như vậy đâu ông
bác ơi! Súng đạn vô tình. Lỡ như...
– Tôi biết! Nhưng là đất đai, nhà cửa của
cha ông. Cực chẳng đã mới phải lìa quê đó cậu! Có ai muốn xa nhà
đâu. Phải không!? Tôi ghét bọn cộng sản và muốn con cháu khỏi phải
bận tâm, lo lắng nên mới ra đây sinh sống. Làng tản cư này mới đầu
cũng đông dân lắm. Nhưng bà con không chịu được cảnh bí rị trong bốn
bức tường đất, lại không có ruộng rẫy canh tác nên đã bỏ đi gần hết.
Phần tôi thì nhất định không đi đâu cả!
– Ông bà bác già yếu rồi. Nên về Đà Nẵng
sống tốt hơn. Chứ còn nơi đây cũng không an ninh lắm đâu.
– Làng tỵ nạn Trà Kiệu này là nơi gần nhất
để chúng tôi có thể ở tạm và trở lại vùng Cẩm Sơn–Hòa Mỹ bất cứ lúc
nào.Tôi muốn sống càng gần nơi chôn nhau cắt rốn càng tốt! Mỗi năm
vài ba lần tìm về nơi mình được sinh ra và lớn lên là hạnh phúc của
tuổi già chúng tôi đó cậu. Vả lại, mấy cội lão mai là nguồn thu nhập
khá tốt mỗi khi Tết đến. Bỏ cho chúng khô héo hết cũng uổng lắm!
– Cháu biết ông bác quyến luyến với ruộng
vườn, nhà cửa trong đó, nhưng mọi thứ đã tan hoang cả rồi. Chưa kể
vào đó sẽ bị tình nghi là việt cộng, ngược lại bọn họ có thể nghĩ là
ông bác vào dọ thám giùm chúng cháu. Đường nào ông bác cũng lâm vào
cảnh thiệt thân cả!
– Tưởng gì! Chỉ có Biệt Động Quân hay lính
Bộ Binh lâu lâu mới tạt qua đây nên không biết tôi, chứ còn lính địa
phương và đám du kích nhảy núi trốn trong thung lũng Quế Sơn còn lạ
gì tôi chứ! Toàn là bọn nhóc trong làng không hà. Ông bà chúng nó,
cha, chú của tụi nó đều biết tôi là ai. Lúc đầu đám du kích còn kiếm
chuyện nhưng sau đó thì bọn họ để yên cho tôi làm gì thì làm. Mà đâu
phải năm nào cũng trở vào đó. Tùy theo thời tiết nữa. Có khi vài ba
năm mới có mưa thuận gió hòa, mà mai vàng thì rất cần nắng ấm, đất
mềm và không úng nước. Năm nào được Trời thương như vậy thì làm sao
bỏ qua cơ hội cho được!
– Cháu không dám nói hỗn, nhưng mạng người
quan trọng hơn còn cây cỏ thì...
– Cây cỏ cũng có cảm nhận của chúng nó
chứ! Cậu không biết đâu. Mỗi lần tôi đứng trên thềm nhà xưa, mỗi khi
tôi vun gốc, lặt lá cho mấy cội lão mai mà ông cụ tôi đã cố công
ghép giống từ mai động và mai chủy, là tôi cảm thấy như chúng nó
muốn reo vui để chào đón mình. Còn tôi thì khỏi nói! Cứ chạm vào
chúng là tôi có cảm giác như... đang nắm tay bà lão nhà này lúc mới
quen vậy đó!
–
Thật vậy sao ông bác?!
– Sao lại không thật! Cây mai có hồn lắm
đó cậu! Chắt chiu nó cẩn thận thì nó sẽ cho ra những nhánh và cành
trông như hình mẫu tử, phu thê hay những tư thế như trong võ thuật
vậy đó.
– Ô! Hóa
ra ông bác là nghệ sĩ thứ thiệt rồi!
– Không phải đâu! Muốn được như vậy thì
phải o bế thường xuyên, ngày này qua ngày khác trong suốt cả năm
trời thì họa may... Còn tôi thì khi xưa vốn chỉ mày mò theo kinh
nghiệm học được từ ông cố con Mai. Chưa bao lâu thì giặc giã triền
miên. Thì giờ đâu mà chăm với sóc. Nay còn tệ hơn! Phải bỏ bê mọi
thứ và phó thác cho đất trời. Một năm chỉ có vài lần vào trong đó
dòm ngó qua loa. Chỉ có gần Tết mới tỉa tắp đều đặn hơn một chút.
Thấy mấy cội mai đó đã bằng tuổi mình mà coi bộ còn sung mãn lắm cho
nên tôi thích ngắm nhìn chúng nó rồi theo dáng vẻ của cả thân, cành,
lẫn nhánh mai mà tưởng tượng rồi nói vậy mà thôi!
– Thật là tiếc quá! Tụi cháu phải đi rồi.
Nếu không, thế nào cũng ngồi đây học kinh nghiệm của ông bác.
– Thì cứ viết thư cho tôi. Gửi thẳng về
đây hay là nhờ em nó chuyển cũng được. Cháu Mai thường hay về thăm
hai ông bà già này lắm.
– Dạ, mai mốt thế nào cháu cũng viết thư
thăm ông bác và bà bác.
– Đây là nhánh mai mọc theo thế tam tài.
Thấy cậu cũng thích hoa mai nên tôi tặng cho cậu làm quà Tết. Nhánh
này đem chưng bày trên bàn làm việc thì đẹp mắt lắm.
– Dạ, cháu sẽ đem về chưng bày trong văn
phòng Đại Đội... Mà tam tài là sao vậy ông bác?!
– Là hình ảnh của Phúc, Lộc, Thọ hay biểu
tượng của Cha, Mẹ và đứa Con! Tùy theo cách diễn đạt của người chơi
mai...
Mai không
nói rõ lý do vì sao ông nội của nàng qua đời, nhưng tôi có thể hình
dung được câu chuyện đau buồn đó dựa vào những gì đã xảy ra hồi năm
ngoái. Những người dân như ông nội của Mai chỉ cảm nhận được mùa
xuân khi đứng trong mảnh đất của cha ông gầy dựng qua bao thời kỳ.
Những nhà trồng tỉa yêu nghề như ông sẵn sàng trả bất cứ giá nào để
tận hưởng hạnh phúc được hòa mình với cây cảnh mà họ bỏ công vun
trồng, tỉa tắp. Hòa Mỹ từ lâu đã là vùng xôi đậu. Chạm trán, giao
tranh thường xuyên xảy ra quanh năm. Súng đạn vô tình. Thương vong
là chuyện không thể tránh được. Ông nội của Mai đã nằm xuống ngay
trên mảnh đất mình được sinh ra và lớn lên. Chắc chắn là ông rất
hạnh phúc khi lìa đời. Điều đáng buồn là người dân ở nông thôn
thường bám đất, giữ làng. Họ không muốn xa lìa mảnh ruộng và khóm
vườn nên nhiều người chấp nhận sự áp đặt và cai trị của cộng sản. Họ
trở thành “cha mẹ chiến sĩ “, “vợ con anh hùng”, thậm chí là “gia
đình liệt sĩ”. Ông nội của Mai không ở trong số những người đó. Ông
hiểu cộng sản ngay trong thời kỳ kháng Pháp và càng hiểu họ thêm khi
càng ngày đám tay sai của đệ tam quốc tế càng bộc lộ bản chất khát
máu của cái gọi là “bạo lực cách mạng”. Khi cuộc chiến về đến thôn
làng, ông mới chịu bỏ lại sau lưng tất cả những gì sâu đậm nhứt của
đời người để đổi lấy tự do. Nhưng ông không đi đâu xa. Mặc cho gia
đình nài nỉ, ông quyết định nương náu ngay bên kia lằn ranh của quận
nhà, chỉ cách làng xưa, xóm cũ có một vùng đồi mà độ cao nhứt không
hơn 25 mét và một nghĩa địa rộng lớn được biết là đã có từ cả trăm
năm trước. Ông là hình ảnh của tình tự dân tộc và văn hóa thôn trang
mà chiến tranh do cộng sản gây ra không tài nào hủy diệt được. Cây
cảnh lúc vào xuân mà điển hình là những cội mai già, muôn đời là nét
chấm phá để điểm tô cho vẻ đẹp quê hương và nét ngà nhân bản, trong
đó nét chấm phá đậm màu nhứt chính là sự hiện diện của ông Tư và
những người nặng tình với nhà xưa, vườn cũ như ông mỗi khi đến độ
Xuân về.
Tôi thầm
cảm ơn người lão niên và thêm nhớ nhánh mai vàng trong văn phòng đại
đội. Xuân đến rồi đi nhưng duyên tao ngộ đủ để tạo thành tình thân
mặc dù nhịp cầu tri âm chỉ là những cánh thư không có hồi đáp. Dù
sao cũng là một kỷ niệm ấm lòng cho dù sự ra đi của vị lão niên có
thể đã là dấu chấm hết cho những liên hệ vốn rất mơ hồ trong lòng
tôi. Chỉ có điều... Phú Lộc và Phước Tường cách nhau không xa nhưng
sao không lần nào cô giáo trẻ ghé đến đưa thư trong cả năm qua?! Vài
chữ hỏi thăm hoặc đôi dòng chuyển lời nhắn tin có tốn quá nhiều thời
gian như vậy không? Câu hỏi cứ lảng vảng trong đầu khi tôi rời quán
Hương Xưa để đón xe Lam vào Đà Nẵng. Lại thêm một lần xuống phố với
những mơ hồ, trống vắng và tâm trạng đầy, vơi bất chợt. Nhưng dù sao
thì nhánh mai vàng mà người lão niên ấy có lòng ưu ái hứa tặng cho
tôi sẽ không chỉ là nhánh Tam Tài trong tâm tưởng mà còn là nhánh
“Thiên Nhân” (*)
của mùa Xuân hằng hữu giữa đời thường.
Huy Văn (Huỳnh Văn Của)
(*) Thuyết Thiên Nhân Hợp Nhất trong Nho Giáo
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by hv chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, February 10, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang