Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang Thi-Văn
Chủ đề: Chuyện tình buồn
Tác giả:
Ngô Minh Hằng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Từ
lâu tôi vẫn bảo với lòng tôi, nếu bây giờ may mắn gặp lại chàng
trong bất cứ hoàn cảnh nào, tôi sẽ nói với chàng những lời rất thật:
“Trong đời, người ta có những điều hối tiếc. Và em, điều hối tiếc
lớn nhất với em là đã không nhận lời anh.”
Nếu tôi nói được điều đó với chàng thì
lòng tôi nhẹ lắm và tôi cũng cảm thấy đã làm xong một việc quan
trọng phải làm, cho chính tôi và cho chàng.
Tôi chỉ có ý nghĩ này sau khi lấy chồng
được vài năm. Có nghĩa là, sau khi tôi khôn hơn một chút. Ý nghĩ này
càng thôi thúc trong tôi sau năm năm lặn lội thân cò nuôi chồng tù
cải tạo, để lúc chồng về, nói với người bạn tôi một câu mà đến chết
tôi vẫn khôngquên và không tha thứ được.
Ngày đó, tôi còn khờ khạo lắm. Là một cô
giáo nhỏ mới nhận lớp lần đầu, tôi dạy lớp Tư B và chàng dạy lớp
Nhứt A. Mỗi chiều thứ bảy đầu tháng, học sinh được nghỉ sớm một giờ
để thày cô đi họp. Sau khi đưa học sinh ra khỏi cổng trường, chàng
hay đi cùng thàygiáo lớp Nhất B đến dãy lớp của tôi, chờ tôi vào lớp
lấy xách tay và cùng lên phòng họp. Ý tứ và tế nhị, chàng để thày
giáo lớp Nhứt B đi giữa. Thày giáo lớp Nhứt B lúc đó khoảng gần 60.
Ông trọng tuổi nhất trong số giáo viên và chúng tôi rất quý ông. Như
thế cả nửa năm, chúng tôi tôn trọng và quý mến nhau trong tình đồng
nghiệp. Tôi thì quá khờ khạo, chàng thì quá khôn ngoan và kín đáo
nên tôi chẳng hiểu lòng chàng. Ít tháng sau, chàng đi Thủ Đức. Chúng
tôi làm bữa tiệc nhỏ tiễn chân và tôi vẫn vô tình.
Ngày còn trong quân trường, thỉnh thoảng,
chiều Thứ Bảy chàng về thăm chúng tôi. Gặp những ngày Thứ bảy đầu
tháng, chàng mặc quần áo Thủ Đức, đi với thày lớp Nhứt B đến dãy lớp
đón tôi và cùng đi lên phòng họp như ngày nào. Thày Hiệu trưởng mời
thày ở lại họp.Chàng chọn chiếc ghế ngồi đối diện tôi và tôi vẫn vô
tình.
Mẹ tôi mất
vào mùa Xuân năm sau khi những nhánh hoa mai còn vàng tươi màu xuân
thắm. Tôi đổi về gần nhà trong niên học kế. Chàng ra trường, trấn
giữ miền cao.
Gần
nửa năm sau tôi mới gặp lại chàng. Hôm ấy, một chiều chủ nhật, tôi
đi thăm một người bạn về thì thấy chàng và bé Thanh – cháu gọi chàng
bằng chú ruột và cũng là cô học trò nhỏ của tôi trong năm đầu tiên
tôi làm cô giáo – đang ngồi nói chuyện với bố tôi.Chúng tôi chào
nhau vui vẻ. Chàng cười chỉ cô cháu, nói với tôi:
– Học trò nhớ cô giáo quá, đòi chú dẫn đến
thăm cô.
Lúc ấy,
tôi dạy lớp nhì ở một ngôi trường gần nhà và học trò thương mến tôi,
cũng hay lại thăm như thế. Tôi nghe chàng nói và tưởng thật. Tôi vẫn
lại vô tình.
Thấy
trên bàn có một chục xoài chín vàng, tôi hỏi bố ai cho. Bố tôi bảo
của anh Viên mang biếu. Tôi không vui hỏi sao bố nhận. Bố tôi bảo,
anh ấy nói, anh ấy phải đi bay, không đem theo được và xin để lại.
Tôi không vui vì Viên theo đuổi tôi hơn hai năm qua,Viên không có gì
để tôi chê nhưng không hiểu sao lòng tôi vẫn không rung động, vì
thế, tôi không muốn nhận quà chàng biếu. Nhân có khách và bố đã nhận
xoài, tôi gọt mời học trò.
Từ đó, mỗi tuần tôi đều nhận thư chàng từ
Pleiku gởi về trường. Trong thư, chàng bày tỏ lòng chàng. Tôi đọc
nhưng không hồi âm.
Chàng về thăm, hỏi tôi có nhận thư chàng
không, tôi sợ phải trả lời những câu chàng viết trong thư nên nói
dối là không. Chàng lại viết thư về. Lần này, ngoài thư cho tôi, còn
một phần cho chị gái chàng. Chàng nhờ tôi chuyển. Bà chị ở cách tôi
độ nửa giờ và tôi vô tình vui vẻ chuyển thư. Tôi chuyển thư giúp
chàng mà không biết là chàng đang cười cười và nói với tôi: “ Này cô
bé, cô học nói dối từ bao giờ mà tài thế, nhưng cô bé đừng tưởng
rằng tôi không biết là cô bé nói dối tôi đâu nhé, tôi bắt đượcquả
tang cô đang nói dối đây này!” Sau lá thư đó, chàng không gởi nữa.
Chàng lại về thăm. Lần này, chàng không để
tôi trốn nữa mà chàng thẳng thắn mở đầu:
– Cô giáo, (chúng tôi vẫn gọi nhau bằng
cô, thày) tôi về lần này, muốn bày tỏ với cô giáo một chuyện. Chắc
cô biết chuyện gì tôi sắp nói. Chúng ta lớn rồi. Tôi rất quý mến cô
giáo và rất mong được cùng cô nên vợ nên chồng. Chúng ta sẽ thương
yêu nhau và sốngmột đời sống bình dị. Tôi muốn biết ý cô giáo trước
khi đưa hai cụ tôi lên thưa chuyện với bố, (chàng gọi bố tôi bằng
bố) cô giáo nghĩ sao?
Tôi biết sẽ một ngày tôi phải đối diện với
chàng về chuyện này. Nhưng tôi lại không biết rằng nó đến trong lúc
tôi chưa chuẩn bị. Bất ngờ quá, tôi không biết nói sao. Yêu chàng,
tôi chưa yêu. Ghét chàng, tôi không ghét. Nếu chỉ muốn có một người
chồng thôngminh, hiền hòa, kiên nhẫn, tế nhị, biết yêu thương gia
đình thì chàng có đủ những đức tính quý này. Chàng cũng có một nhân
dáng, một địa vị xã hội cho người vợ hãnh diện được sánh vai. Tôi,
lúc ấy, ước mơ về tương lai không dừng lại ở đó, mà hình như lòngcòn
mơ ước thêm một cõi trời xa. Hình như một tình yêu. Một tình yêu có
hình ảnh một chàng chiến sĩ kiêu hùng, yêu quê hương trong từng hạt
máu, cầm cờ vàng vượt dòng sông Bến Hải để giành lại quê hương và
trong đó có một chuyện tình đẹp như thần thoại. Tôivẫn mong chờ tình
yêu thần thoại ấy, ngay cả giờ phút viết những dòng này.
Trước mặt chàng, tôi không trốn được nữa.
Chàng hỏi tôi nghĩ sao? Tôi nghĩ đến bố tôi, đến hoàn cảnh hiện tại
của tôi. A, cái phao đây rồi và tôi bám lấy:
– Thưa thày, thày biết hoàn cảnh tôi. Mẹ
tôi mất rồi. Anh trai tôi đang trong quân đội, anh lại chưa có gia
đình. Chị gái tôi lấy chồng ở xa. Nếu tôi lập gia đình, không có ai
lo cho bố tôi giữa lúc này.
Chàng nhìn tôi với đôi mắt nồng nàn, thông
cảm. Nói rất chậm. Cho đến bây giờ, hơn ba mươi năm sau, tôi như vẫn
còn nghe rõ lời chàng. Và chính những điều chàng nói với tôi hôm đó
là điều làm tôi thao thức suốt mấy chục năm nay:
– Tôi biết. Chỉ cần cô giáo đồng ý, mọi
chuyện sẽ có lối giải quyết. Cô cứ xem quanh đây, căn nhà nào cô
thích, chúng ta sẽ mua và mời bố về ở chung. Như thế, chúng ta vừa
xây dựng hạnh phúc bên nhau, vừa chung lo cho bố. Còn căn nhà này,
phần của con trai,của anh Quốc. Chúng ta không động đến.
Nghe thế, tôi cảm động vì biết lòng chàng
tốt. Thương tôi, chàng đã nghĩ cả đến hoàn cảnh của tôi và có lối
giải quyết rất là độ lượng.
Nhưng tôi vẫn vô tình, miệt mài theo đuổi
một cõi trời huyễn mộng của riêng tôi.
Chờ mãi, không thấy tôi trả lời, chàng
viết cho tôi một lá thư, bảo, có lẽ tôi cần một thời gian yên tĩnh
mà suy nghĩ. Và chàng dành cho tôi thời gian cần thiết ấy. Chàng sẽ
tôn trọng mọi quyết định của tôi. Lúc nào chàng cũng ở bên tôi. Khi
nào tôi lên tiếnggọi, chàng sẽ sẵn sàng.
Hơn một năm sau bố tôi ngã bịnh. Một tháng
trời nằm trong bịnh viện, khi biết mình không còn sống được, bố tôi
bảo với tôi:
–
Trước khi mẹ chết, dặn bố phải lo cho con. Con là con gái, lớn rồi,
phải lấy chồng. Bây giờ bố xem mình không qua khỏi, bố muốn con lập
gia đình cho bố yên tâm.
Khi nghe bố tôi nói thế, thương bố quá,
tôi khóc nói với bố rằng:
– Bố, nếu điều đó làm bố yên tâm, con sẽ
vâng lời.
Lúc đó,
khung trời tình yêu trong lòng tôi vẫn không một bóng người hùng.
Một tay tôi cầm tay bố, một tay chùi lệ, ngập ngừng...
– Nhưng bây giờ, bố muốn con lấy ai?
Bố tôi suy nghĩ một lúc, rồi mệt nhọc:
– Thì thằng Văn đấy, nó theo đuổi con từ
khi con mới mười mấy tuổi. Nó lại là bạn của thằng Quốc nhà mình.
Lấy nó.
Thế là
tôi lấy Văn. Lễ hỏi và cưới chạy tang vội vàng, đơn giản. Tôi không
có xe hoa, không khăn áo cưới. Bố tôi đã mệt, cũng không ăn được
miếng bánh đám hỏi con gái khi tôi đem bánh vào nhà thương cho cụ.
Rồi bố tôi qua đời.
Sau đám tang bố tôi, tôi nói với Văn:
– Anh Quốc phải về đơn vị. Nhà không còn
ai lo nhang khói. Anh cho em ở lại nhà lo chuyện nhang đèn cho bố
trong 49 ngày.
Văn lạnh lùng:
–
Không được. Thuyền theo lái, gái theo chồng. Anh là con trai trưởng,
em phải về làm dâu thày mẹ.
Tôi khóc. Giọt nước mắt đầu tiên trong
cuộc đời chồng vợ sao mà cô đơn chua xót. Nhưng cũng vẫn phải về làm
dâu. Bàn thờ bố mẹ tôi nhang đèn lạnh lẽo. Văn trở về đơn vị và tôi
ở lại nhà chồng.
Làm dâu, tôi vụng về nội trợ, tôi khờ khạo mọi đàng. Chị chồng và
đám em chồng thấy thế dùng lời lẽ mỉa mai cay đắng. Tôi nhẫn nhịn,
âm thầm. Người anh rể thứ hai của Văn ở chung trong nhà, thấy tôi
thân cô thế độc, toan có hành vi bất chính. Tôi sợ hãi kể lại cho mẹ
chồng. Mẹ chồng nói lại cho con gái. Thế là người chị chồng nhìn tôi
với một đôi mắt không thiện cảm nhưng lại mong chờ thái độ cứng rắn
của em trai tỏ với chồng mình. Tôi lên đơn vị thăm chồng, kể lại cho
Văn nghe. Văn không có một phản ứng.Thấy thế, người chị một mặt phê
phán em trai mình nhu nhược một mặt chị rửa mặt cho chồng bằng cách
đổ lỗi tại tôi. Tại tôi lẳng lơ, tại tôi khêu gợi. Văn nghe thế,
cũng không một lời binh vực cho tôi. Từ đó, cuộc đời làm dâu của tôi
thêm cô đơn, khốn khổ. Có lần tôi giấu hai hộp Optalidon định kết
liễu đời sống mình, nhưng số tôi chưa chết, Văn bất ngờ từ đơn vị
về, thấy hai hộp thuốc, biết ý định của tôi, lấy vứt đi.
Tôi đem con gái đầu lòng về ăn giỗ bố tôi.
Nhìn bàn thờ nhang tàn khói lạnh, tôi chợt nhớ đến chàng. Đây là lần
đầu tiên tôi nhớ đến chàng từ sau ngày chàng gởi cho tôi phong thư
cuối. Nhớ chàng, tôi nhớ những lời chàng đề nghị với tôi là mua cái
nhà nào tôithích, cưới nhau rồi mời bố tôi về cùng phụng dưỡng.
Giọng nói ấm cúng ôn tồn của chàng vang lên trong tôi và theo tôi từ
đó, làm tôi thêm xót xa cho cảnh bàn thờ bố mẹ tôi nhang đèn hoang
lạnh, làm tôi nhớ đến nỗi thất vọng đau đớn trong tôi khi tôi nói
vớiVăn cho tôi ở lại nhà thắp nhang cho bố tôi 49 ngày và bị Văn từ
chối.
Đứa con thứ
hai của tôi là con trai nhưng sanh thiếu tháng. Nó chết. Mẹ chồng
tôi bảo là phúc đức tại mẫu. Con trai nhờ đức mẹ. Tôi là mẹ nhưng
tôithất đức nên con trai tôi chết. Mẹ chồng tôi nói tôi thất đức nên
con trai tôi chết nhưng lại không nói đến tối hôm trước cụ bảo tôi
và chú em chồng kéo bao gạo 100kg từ cửa vào trong bếp, ngay đêm hôm
đó tôi bị xuất huyết và một tuần sau thì tôi sanh. Thằng bé mới bảy
tháng rưỡi và kỹ thuật y khoa ở VN lúc đó còn thô sơ nên không cứu
được con tôi. Sautám tiếng đồng hồ trong lồng ấp, con trai tôi chết.
Ở viện bảo sanh về, tôi bị bỏ đói. Cả gia
đình chồng quây quần dùng bữa nhưng không gọi tôi xuống ăn và cũng
không cho người đem cơm lên phòng cho tôi như lần tôi sanh con đầu
lòng. Lần thứ hai tôi sanh đó, Văn nghỉ dưỡng thương nên có mặt ở
nhà. Nghe lời bố mẹ, Văn cũng bỏ đói tôi. Đêm, tôi đói quá, nhìn đứa
con đầu lòng say ngủ, tôi thấy phải sống vì tôi còn bổn phận và
trách nhiệm với con tôi. Tôi nói với Văn tôi đói quá. Lúc đó, Văn
mới xuống nhà lấy cho tôi lưng tô cơm nguội.
Khi có thai đứa con thứ ba, tôi nhất định
rời bỏ nhà chồng. Không có tiền mua nhà, tôi đem con về ở căn nhà
của bố mẹ tôi để trống từ ngày bố tôi mất và tôi lấy Văn. Trước khi
tôi đi, Văn về phép hai ngày và tôi nói với Văn:
– Em quan niệm mục đích của hôn nhân là để
hai người cùng xây đắp một tiểu gia đình, một hạnh phúc, một tổ ấm
riêng tư cho chính họ. Vì thế, em không thấy là người con gái lấy
chồng là phải nhận cả một đại gia đình chồng làm gia đình mình, có
bổn phận gánhvác và làm vừa lòng tất cả mọi người trong đại gia đình
đó. Nếu anh cưới vợ về chỉ để mong vợ xem đại gia đình đó là gia
đình của riêng hai người và gánh vác giang sơn nhà chồng như các cụ
ngày xưa gánh vác thì thú thật, em không đủ tài. Em lấy anh, embiết
là phải xây dựng một gia đình với anh. Với cha mẹ anh, em có bổn
phận tôn kính và hiếu thảo. Với anh chị em họ hàng của anh, em có
bổn phận giúp đỡ những khi họ cần và nếu em có thể. Ngoài ra, gia
đình của họ không phải là gia đình em. Bổn phận của họ càng không
phải bổn phận của em. Nay em sắp có thêm con. Em cần có một chỗ ở
riêng để lo cho con, cho gia đình của chúng ta. Nếu anh cùng quan
niệm, thì cùng em ra riêng. Nếu không, anh ở lại với gia đình của
anh.
Văn theo tôi
ra riêng nhưng không vui. Gọi là ra riêng nhưng thực sự tôi vẫn sống
đơn côi và nuôi con một mình một bóng. Là lính tác chiến nên vài
tháng Văn mới về thăm nhà một đôi ngày. Có một lần Văn về thăm tôi,
độ hơn nửa giờ sau, một người đàn bà còn rấttrẻ đến tìm Văn. Từ bếp
đi lên, tôi thấy hai người ngồi ngoài phòng khách. Người đàn bà gật
đầu chào tôi và Văn không giới thiệu là ai. Sau đó, hai người song
vai đi khỏi nhà. Văn bảo với tôi là Văn đi ra ngoài một chút. Vài
giờ sau Văn về, tôi hỏi Văn đi đâu thì Văn nói là đi đến nhà một
người bạn. Tôi hỏi người đàn bà đó là ai, Văn bảo là chị một người
lính trong đơn vị. Tôi thật thà và tin chồng nên không hỏi thêm. Sau
đó, qua tin tức từ những người vợ lính cùng đơn vị, tôi biết Văn
đang dan díu tìnhái với một cô gái bán bar, chị của một người lính
và người lính này đang mang máy truyền tin cho Văn. Cô gái này
thường lên đơn vị thăm em trai và Văn đã ăn nằm với cô ta. Sĩ quan
trong tiểu đoàn thì tuyệt đối không nói về chuyện này vớitôi nhưng
những bà vợ lính trong trại gia binh thì ai cũng xầm xì bóng gió và
cố tình để tin đến tai tôi.
Đến tháng 4 năm 1975 thì chúng tôi có 4
đứa con, con đầu chưa được năm tuổi và con út mới tròn 6 tháng,
không kể bé trai chết vì sanh thiếu tháng.
Tháng 6 năm 1975 Văn đi tù cải tạo. Ba mẹ
Văn gần như không còn biết có tôi, cũng không nhìn đến bầy cháu nội.
Duy chỉ có vợ chồng một người chị gái lớn, một người em bạn dâu và
vài ngườianh chị em con chú, con bác với Văn là thương tôi và thỉnh
thoảng ghé thăm, an ủi. Trong hoàn cảnh hết sức khó khăn đơn độc,
một mình tôi xoay trở nuôi bầy con và tiếp tế cho Văn.
Cũng may, tôi biết chút ít về tử vi, coi
chơi cho bạn. Họ khen hay. Rồi tiếng đồn sao đó đến tai những người
có ý định vượt biên. Họ tìm đến tôi, nhờ tôi xem hộ. Thấy họ năn nỉ
quá, tôi xem giúp và cũng nhân đó, có người nói chuyện cho bớt buồn.
Không biếtdo Trời thương tôi hay nhờ cái may mắn của riêng của họ,
một số người vượt biên tránh được bắt bớ, lừa đảo. Đi thoát, họ nhớ
đến tôi và gởi quà về. Tiền lương giáo viên của tôi ít ỏi, nhờ có
những thùng quà này tôi mới nuôi nổi bốn con thơ và cũngnhờ có những
thùng quà này mà trong bốn năm năm, tôi không bỏ sót một lần thăm
nuôi Văn trong tù cải tạo.
Năm năm sau tôi có cơ hội vượt biên. Tôi
quyết định đem con đi vì lý tưởng tự do và vì tương lai lũ trẻ. Trời
thương, tôi đi một lần là thoát trong khi ba người bạn và ngay cả
người cháu gọi tôi bằng dì đều mất tích. Định cư ở miền đất hứa, tôi
vẫn một mình, vừa học, vừa làm, vừa nuôi dạy bầy con. Thỉnh thoảng,
dành dụm được chút đỉnh, tôi mua chút trà, cà phê gởi về biếu cha mẹ
Văn.
Hai năm sau
khi tôi đi thì Văn được tha về. Không lâu, Văn có một người tình và
hai người chính thức sống với nhau. Chị bạn đồng nghiệp cũ của tôi
người thì nhắn tôi đừng gởi gì về cho Văn nữa. Một chị bạn đồng
nghiệp khác và cũng là hàng xómcũ, rất thân khi tôi còn ở nhà, trong
một thư viết cho tôi, chị kể: “Một lần mình gặp hắn chở người tình
đi chơi, mình giận, nói với hắn rằng:
– Anh biết không, hồi anh còn học tập cải
tạo, chị Tú đã từng xin chúng tôi từng viên thuốc cảm để thăm nuôi
anh.
Văn cười trả
lời:
– Lương giáo
viên của cô ấy có 60 đồng một tháng, làm sao cô ấy có thể nuôi nổi
bầy nhỏ và thăm nuôi cải tạo. Cô ấy phải làm CÁI GÌ chứ!
– Trời đất, anh Văn. Tôi không thể tưởng
tượng nổi là anh có thể nói câu nói đó. Tôi và chị Tú là bạn đồng
nghiệp, vừa dạy chung một trường, vừa là bạn hàng xóm. Chị Tú làm
gì, chúng tôi biết cả. Thôi Tú nhé, đừng buồn. Hãy quên con người
bạc bẽo ấy đi.”
“Hãy quên con người bạc bẽo ấy đi.” Nhưng tôi lại không quên được
những viên thuốc cảm mà tôi đã đi gom góp từ các bạn đồng nghiệp
ngày nào. Hồi đó, trong phần nhu yếu phẩm của giáo viên, hàng tháng
mỗi người còn được mua sáu viên thuốc cảm. Trong trường cả cấp một,
cấp hai và nhân viên có tất cả hai mươi tám người nhưng có đến gần
phân nửa số giáo viên có chồng tù cải tạo. Chị Hiệu trưởng nói, sáu
viên thuốc cảm xuyên tâm liên cho mỗi người không đủ chữa cảm, vậy,
hãy gom lại, chia đều cho các cô có phiếu thămnuôi chồng trong
tháng, gọi là chút tình tương thân, tương ái.
Tôi nhìn xuống lá thư từ quê hương của bạn
tôi viết trên giấy học trò, loại giấy xấu, có màu nước dưa vàng úa.
Lá thư còn dài nhưng tôi không đọc tiếp. Cũng như chị, tôi không ngờ
Văn có thể nói câu nói đó. Tôi đau và hận.
Cuộc đời tôi từ đấy, có thêm một câu để mà
nhớ, bên cạnh câu nói của chàng.
Nếu câu nói của chàng gợi cho tôi hình ảnh
một tình yêu với đầy đủ nghĩa hy sinh, biết nghĩ đến nhau, sống cho
nhau, vì nhau và tri ân nhau bao nhiêu thì câu nói của Văn, với tôi,
là một chứng tích của bội phản, của bất nghĩa, bất nhân và tàn nhẫn
không thể nào tha thứ được.
Trong những năm khốn khổ nhất của cuộc
đời, tôi đã làm CÁI GÌ để nuôi bầy con và nuôi Văn tù cải tạo ư?
Vâng, tôi đã làm tất cả những gì trong khả năng tôi miễn sao có
những đồng tiền trong sạch để có đủ cơm áo cho bầy con, để có đủ
năm, sáu chục ký lô quàcho mỗi lần thăm nuôi dài bốn năm trời đằng
đẵng. Tôi đã làm CÁI GÌ? Muốn biết tôi đã làm cái gì, xin hãy hỏi
bầy con tôi. Các con tôi, sống bên tôi từng ngày, chia sẻ với tôi
mọi điều cơ cực, sẽ cho người hỏi câu hỏi đó một trả lời sự thật.
Một trongnhững câu trả lời đó là tình trạng kiệt quệ về sức khoẻ và
dấu tích của nó là những vết sẹo còn lưu lại trong hai lá phổi của
tôi. Nếu như năm đó tôi không có cơ hội may mắn vượt biên thì chỉ
vài năm sau tôi sẽ chết vì bịnh lao phổinày vì thời ấy, dưới chế độ
CSVN chỉ có xuyên tâm liên. Bịnh gì cũng xuyên tâm liên. Những loại
thuốc chữa bịnh, nhất là bịnh phổi, chỉ có người nào có thân nhân từ
Pháp gởi về mới có, vì thế, rất đắt và rất hiếm. Với hoàn cảnh tôi
nuôi bốn con nhỏ và thăm nuôi chồng tù, tôi không thể có đủ tiền mà
chữa bịnh. Mà nếu tôi chết vào những năm đó thì các con tôi sẽ bơ vơ
và không hiểu sẽ khốn khổ đến thế nào.
Riêng tôi, dù trong những lúc khó khăn tăm
tối nhất của cuộc đời, tôi vẫn biết tôi phải làm gì, để cho tôi, khi
nhìn vào cuộc đời, tôi nhìn thật thẳng mà không hề hổ thẹn. Để khi
nhìn các con tôi,tôi hãnh diện đón nhận những tình cảm yêu thương
kính mến tròn đầy mà không hề mặc cảm. Và, cũng để cho một ngày nào,
nếu có được gặp lại chàng, tôi vẫn xứng đáng với tình yêu và lòng
qúy mến của chàng, vẫn đủ tư cách để nói với chàng những lời nuối
tiếcchân thật nhất của lòng tôi, dù những lời này có trễ.
Ngô Minh Hằng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Thắng cảnh thiên nhiên Bắc Mỹ châu. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by nkk chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, February 21, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang