Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự truyện
Chủ đề:
30T4Đ
Tác giả:
Nguyễn Ngọc Thạch/K20–VBQGĐL
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Sau thời gian phục vụ
tại Sư đoàn 5 Bộ Binh, tôi được thuyên chuyển về Trường
Bộ
Binh Thủ Đức, theo nhu cầu hoán chuyển các sĩ quan có kinh nghiệm
chiến trường về các quân trường. Chức vụ sau cùng là Trưởng phòng
Kế hoạch của Trường Bộ Binh.
Trường Bộ Binh là một quân trường
chuyên đào tạo các sĩ quan trừ bị cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Lúc trứớc trường tọa lạc ở Thủ Đức. Đến đầu năm 1974 thì dời ra
Long Thành, một cơ sở mới nằm bên cạnh quốc lộ 15, đường Sài Gòn
– Vũng Tàu và cách quận lỵ Long Thành 5 cây số. Tại đây Trường Bộ
Binh kết hợp với Trường Thiết Giáp và Trung tâm Huấn luyện Yên
Thế, lập thành Huấn khu Long Thành. Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi
là Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh kiêm Chỉ huy trưởng Huấn khu
Long Thành.
Đến đầu tháng 4, 1975, trong lúc đất nuớc đang lâm vào tình trạng
vô cùng nguy ngập, Quân đoàn I và Quân đoàn II đã di tản, cộng
quân vào đến Nha Trang, thì Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi được chỉ
định ra làm Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn III, trấn đóng ở phi
trường Thành Sơn, phía bắc thị xã Phan Rang, để ngăn chặn địch
đang ào ạt tiến vô nam. Ngày 16 tháng 4, quân CSBV chiếm thị xã
Phan Rang và phi trường Thành Sơn. Bộ chỉ huy Tiền phương QĐ III
phải rút về phía Đông Nam ra Cà Ná. Nhưng trong đêm đó phần lớn
đã bị bắt trong đó có Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi Tư lệnh Tiền
phương QĐ III, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang Tư lệnh Sư đoàn 6 Không
quân, Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn II Nhảy Dù,
v.v.
Sau khi
Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi ra làm tư lệnh Tiền phương QĐ III
thì Đại tá Trần Đức Minh đang là Chỉ huy phó Trường Bộ Binh được
Bộ Tổng Tham Muu chỉ định lên thay thế làm Chỉ huy trưởng Trường
Bộ Binh, kiêm Chỉ huy trưởng Huấn khu Long Thành.
Đầu tháng 4, 1975 Trường Võ Bị Quốc Gia
là trường sĩ quan hiện dịch, di tản từ Đà Lạt về Long Thành và
tạm trú chung với Trường Bộ Binh. Hai tuần sau Trường Võ Bị cho
làm lễ mãn khóa hai khóa 28 và 29 ra trường cùng một lúc, còn lại
hai khóa 30 và 31.
Cũng vào đầu tháng 4, 1975 cộng quân
bắt đầu gia tăng áp lực, mở các cuộc tấn công vào Huấn khu Long
Thành. Đặc công VC đã mấy lần định xâm nhập Trung tâm Huấn luyện
Yên Thế, nhưng đã bị Biệt kích Lôi Hổ tiêu diệt gọn. Trường Thiết
Giáp cũng bị tấn công liên tục, nhưng nhờ tài chỉ huy khéo léo
với nhiều kinh nghiệm chiến trường của Đại tá Tám, nên đã giữ
vững được căn cứ này cho đến cuối cùng.
Ngày 9 tháng 4, 1975 cộng quân tấn công
vào thị xã Xuân Lộc thuộc tỉnh Long Khánh chỉ cách Sài Gòn 80 cây
số về hướng Đông và cách Huấn khu Long Thành chừng 20 cây số.
Trong trận tấn công này lực lượng địch gồm có Sư đoàn 7 Bắc Việt
làm mũi chủ công từ hướng Đông Bắc đánh vào thị xã Xuân Lộc, Sư
đoàn 341 Bắc Việt từ hướng Tây Bắc đánh vào khu vực phòng thủ của
Sư đoàn 18 Bộ Binh/QLVNCH. Riêng Sư đoàn 6 Bắc Việt đánh Dầu
Giây.
Quân trú
phòng ở Xuân Lộc gồm toàn bộ Sư đoàn 18 Bộ Binh và Tiểu Đoàn 82
Biệt Động Quân/Biên Phòng của Thiếu tá Vương Mộng Long K20/VB vừa
di tản từ Quân Khu 2 về, cùng các lực lượng Địa Phương Quân và
Nghĩa Quân, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, Tư
lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh, đã chống trả vô cùng anh dũng. Tất cả
các mũi tấn công của quân Bắc Việt đều bị chận đứng. Riêng mũi
chủ công của Sư đoàn 7 Bắc Việt đã lọt vào được vài nơi trong thị
xã nhưng đã bị quân ta chận đánh quyết liệt và ngay ngày hôm sau
đã bị quân ta phản kích dữ dội, hai bên giành nhau từng căn nhà,
từng mảng tường.
Ngày 12 tháng 4, 1975 Quân đoàn III đã
cấp tốc trực thăng vận Lữ Đoàn I Nhảy Dù xuống tăng viện cho Xuân
Lộc. Tiếp đó là Trung đoàn 8 thuộc Sư đoàn 5 Bộ Binh, và một bộ
phận của Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ, theo hướng quốc lộ 1 từ Biên Hòa
cùng tiến lên để giải tỏa áp lực địch. Đặc biệt Không Quân Việt
Nam cũng đã huy động tối đa để yểm trợ, và sự yểm trợ lần này rất
là hữu hiệu, vì ngoài phi cơ chiến thuật, Không Quân Việt Nam đã
sử dụng cả phi cơ vận tải C130 cải biến để chở những khung vỉ sắt
chứa nhiều quả bom hạng nặng như bom Daisy Cutter 15,000 cân Anh,
bom CBU–55, mà phía Hoa Kỳ thường sử dụng để phát quang làm bãi
đáp trực thăng hay vị trí pháo binh, và nhiều phuy xăng JP4 dùng
làm bom napalm. Máy bay bay trên cao độ 15,000 đến 20,000 bộ để
tránh phòng không địch và được điều khiển bằng vô tuyến cho rơi
đúng vào các mục tiêu ấn định. Có hai quả bom CBU–55 đã rơi trúng
vào nơi đóng quân của Sư đoàn 341 CSBV, gây tổn thất nặng nề cho
địch và làm cho tinh thần cán binh CSBV bị dao động mạnh vì tưởng
là bom B52. Tướng cộng sản Trần Văn Trà đích thân xuống mặt trận
xem xét tình hình, thấy không chiếm được Xuân Lộc nên bèn quay
sang đánh vòng ngoài nhằm vào các đơn vị của Quân lực VNCH đang
tăng viện về hướng Biên Hòa.
Nếu như lúc đó Hoa Kỳ chịu giúp miền
Nam Việt Nam thêm một thời gian ngắn nữa, để yểm trợ cho Quân lực
VNCH, chỉ bằng không lực mà thôi, thì các sư đoàn CSBV sẽ bị tiêu
diệt một cách dễ dàng, vì họ đa công khai xuất đầu lộ diện, thật
là những mục tiêu rất tốt cho pháo đài bay B52 và như thế tình
hình có thể đảo ngược đuợc, như đã xảy ra ở trận chiến Triều Tiên
năm 1950.
Nhắc
lại trận chiến Triều Tiên, ngày 25 tháng 6 năm 1950 quân đội cộng
sản Bắc Hàn do Trung Cộng yểm trợ đánh đuổi quân đội Đồng Minh mà
chính yếu là Hoa Kỳ, chạy dài từ Bắc xuống Nam cho đến tận cùng
bán đảo Triều Tiên, chỉ còn giữ đuợc phần đất vùng Pusan, dự trù
để làm đầu cầu để phản công sau này. Ngày 15 tháng 9 năm 1950
dưới sự chỉ huy tài ba của Tướng Douglas MacArthur, đã điều quân
xuất thần cho đổ bộ ở Inchon, một bờ biển phía Tây ngang Hán
Thành và cách vĩ tuyến 38 về phía nam 100 dặm. Đây là một kế
hoạch vô cùng tinh vi và táo bạo, đã đánh thẳng vào hậu phương
địch, cắt đứt mọi đường tiếp tế lương thực đạn dược và đã làm cho
các sư đoàn của cộng quân đang tiến sâu về phía nam hoàn toàn bị
tê liệt, kiệt quệ, và tan rã và đưa đến kết quả là 125,000 quân
cộng sản Bắc Hàn phải ra đầu hàng.
Ngày 20 tháng 4, 1975 Sư đoàn 18 Bộ
Binh, Lữ Đoàn I Nhảy Dù, và lực lượng Tiểu khu Long Khánh rút
khỏi Xuân Lộc theo liên tỉnh lộ 2 về Bà Rịa. Từ đây Sư đoàn 18 Bộ
Binh lên xe về Long Bình, còn Lữ Đoàn I Nhảy Dù ra bảo vệ thị xã
Vũng Tàu. Cuộc rút lui đã diễn ra êm thắm, tổn thất không đáng
kể, riêng Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng
Tiểu khu Long Khánh trên đường rút lui đã bị thương và bị bắt.
Vào đầu tháng 4/75 khi tình hình đất
nước đang lâm vào tình trạng nguy ngập, Đại tá Minh có ra lệnh
cho phòng Kế hoạch phối hợp cùng với Trung tá Trần Văn Hạnh
Trưởng phòng TVM (Tác Xạ Vũ Khí Mìn), để nghiên cứu và soạn thảo
một kế hoạch phòng thủ cho thật vững chắc. Tận dụng tối đa hỏa
lực cơ hữu của trường, sử dụng mìn Claymore gài tự động, cho nuôi
thêm 100 con ngỗng để tăng cường hệ thống canh gác báo động.
Phòng Kế hoạch cũng đã đề ra hai phương án để rút lui khi cần.
Phương án thứ nhất là di tản chiến thuật ra Vũng Tàu. Phương án
thứ hai là di chuyển về trường cũ ở Thủ Đức.
Ngày 22 tháng 4, 1975, Trường Bộ Binh
và Truờng Võ Bị được lệnh di tản về Thủ Đức. Trường Bộ Binh chỉ
di tản một nửa quân số về Thủ Đức, còn một nửa quân số ở lại Long
Thành, và dưới quyền chỉ huy của Đại tá Lê Văn Phú, phòng thủ bảo
vệ trường để chờ ngày trở lại.
Khi về đến Thủ Đức, Truờng Bộ Binh nhận
lại trách nhiệm phòng thủ Huấn khu Thủ Đức và đồng thời sẵn sàng
các Tiểu đoàn SVSQ để về tăng cường bảo vệ Thủ đô. Trong lúc này
Trung tướng Nguyễn Bão Trị, Tổng cục trưởng Tổng cục Quân Huấn có
chỉ định Đại tá Lộ Công Danh hiện đang là Liên đoàn trưởng Liên
đoàn SVSQ của Trường Bộ Binh tạm thời thay thế Thiếu tướng Lâm
Quang Thơ làm Chỉ huy trưởng Truờng Võ Bị Quốc Gia.
Đêm 26 tháng 4, 1975, cộng quân mở cuộc
tấn công đại qui mô vào Huấn khu Long Thành, Trường Bộ Binh ở
Long Thành bị mất liên lạc. Tôi và người mang máy truyền tin phải
leo lên lầu nước thật cao ở trong Trường Bộ Binh ở Thủ Đức để tìm
cách liên lạc với Trường Bộ Binh ở Long Thành. Đại tá Lê Văn Phú,
vì ông ra ngoài giao thống hào ở địa thế thấp nên máy truyền tin
không liên lạc xa được, nhưng nhờ tôi leo lên cao nên bắt liên
lạc lại được với Trường Bộ Binh ở Long Thành. Đại tá Phú cho biết
hiện cộng quân đang mở các đợt tấn công rất ác liệt nhưng không
chọc thủng nỗi phòng tuyến quá kiên cố của ta. Ông cũng cho biết
là Trường Thiết Giáp vừa bị thất thủ, Đại tá Tám Chỉ huy trưởng
Trường Thiết Giáp vừa mới qua họp ở Trường Bộ Binh Long Thành,
trên đường trở về ông đã bị cộng quân phục kích và bị mất liên
lạc vào khoảng 6 giờ chiều. Riêng Trung tâm Huấn luyện Yên Thế
thì hoàn toàn bị mất liên lạc, im lặng vô tuyến kể từ chiều hôm
đó. Đại tá Minh liền liên lạc với Đại tá Phan Huy Lương, Tham mưu
phó Quân đoàn III, để báo cáo tình hình và xin yểm trợ. Nhưng Bộ
tư lệnh Quân đoàn III đã hoàn toàn không có phản ứng, vì đang
triệt thoái.
Sáng sớm hôm sau, tôi đi cùng với Đại tá Minh lên Biên Hòa để tìm
phương cách chống đỡ cho nửa truờng còn lại ở Long Thành. Đường
đi lúc đó thật vắng tanh, chúng tôi gặp Thiếu tá Hòa Quận trưởng
quận Thủ Đức đang lăng xăng điều động các lực lượng của chi khu.
Tôi có hỏi về tình hình trên lộ trình đi, thì ông ta khuyên không
nên đi trong lúc này rất là nguy hiểm, vì hiện đang có các trận
đụng độ gần khu vực Chợ Đồn. Nhưng vì nóng lòng nửa trường còn
lại ở Long Thành nên chúng tôi quyết phải đi.
Khi tới Biên Hòa, thành phố thật vắng
lặng như một thành phố chết. Chúng tôi chạy thẳng vô Bộ chỉ huy
của Tiểu khu Biên Hòa. Khi bước vào Trung tâm Hành quân Tiểu khu,
chúng tôi không thấy Tiểu khu trưởng hay Tiểu khu phó đâu cả, mà
chỉ thấy có Đại tá Thới, Tham mưu trưởng là còn đang làm việc.
Ông hiện đang bấn loạn, vì phải vừa lo điều động các lực lượng
của Tiểu khu đang chống trả kịch liệt với địch, đồng thời phải lo
phương tiện trực thăng để đi cấp cứu Trung tá Quận trưởng quận
Long Thành. Đêm qua lực lượng Địa Phương Quân và Nghiã Quân của
chi khu Long Thành đã anh dũng chiến đấu chống trả vô cùng quyết
liệt, bắn cháy một số chiến xa địch, cầm cự cho đến sáng mới bị
tràn ngập. Trung tá Quận trưởng đã chạy thoát được ra ngoài và
dùng máy vô tuyến liên lạc về Tiểu khu xin cứu viện.
Vì tình trạng quá căng thẳng của Tiểu
khu Biên Hòa và vì Đại tá Thới đang quá bận rộn, thấy không thuận
tiện để bàn thảo gì đuợc, nên chúng tôi phải rời bỏ Tiểu khu Biên
Hòa để đi thẳng vô căn cứ Long Bình nơi đặt Bộ chỉ huy của Lữ
đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Tại đây, tôi đuợc gặp lại các bạn bè
cùng các niên trưởng tay bắt mặt mừng, kể lể mọi chuyện, mà quên
đi chiến trận đang gần kề. Mặc dù trong tình thế cực kỳ sôi động
như vậy, nhưng Thủy Quân Lục Chiến vẫn giữ vững tinh thấn chiến
đấu, không hề nao núng, vẫn quyết tâm chận địch trên đầu dốc 47
của quốc lộ 15 và còn nhắn nhủ với Truờng Bộ Binh Long Thành là
phải đồng tâm hiệp lực quyết ngăn chặn không cho nón cối dép râu
bước vô Sài Gòn.
Đại tá Minh cứ lấy làm tiếc là đang ở
quân trường gồm toàn những SVSQ đang thụ huấn, nên không có khả
năng chiến đấu như các đon vị tác chiến trước đây. Nhớ lại thời
hành quân sang Kampuchia, năm 1970, ông là Chiến đoàn trưởng, và
tôi là Sĩ quan Hành quân. Chiến đoàn 9 đặc nhiệm của Sư đoàn 5 Bộ
Binh đã tấn công vào tận sào huyệt của VC nằm sâu bên kia biên
giới Việt–Miên, quét sạch các mật khu an toàn của VC trong vùng
Lưỡi Câu, tịch thu rất nhiều kho vũ khí, lương thực, đạn dược của
cộng quân, đem lại nhiều chiến thắng vẻ vang cho Quân lực Việt
Nam Cộng Hòa. Tôi xin nói thêm ở đây là các cuộc hành quân vượt
biên sang Kampuchia là hoàn toàn do Quân lực VNCH đảm nhiệm, các
cố vấn Mỹ lên máy bay trực thăng bay trở về, ngay khi đơn vị đi
đầu vượt qua biên giới.
Sau khi phối hợp cùng các đơn vị bạn,
và chỉ thị rõ ràng cho Đại tá Phú xong, chúng tôi liền quay trở
về Thủ Đức. Và trên đường trở về chúng tôi còn thấy rõ các rương
mìn chất nổ đã được đặt sẵn hai bên cầu sông Đồng Nai. Theo như
kế hoạch đã định thì sau khi rút quân xong thì cầu Đồng Nai phải
bị giật xập không cho thiết giáp và cơ giới của cộng quân vượt
qua sông. Mà nếu cộng quân có khả năng làm cầu nổi thì ta sẽ dùng
phi cơ oanh tạc.
Trường Thiết Giáp đã thất thủ, Trung
tâm Huấn luyện Yên Thế đã mất liên lạc, quận Long Thành đã bị
tràn ngập, giờ đây Trường Bộ Binh Long Thành đương nhiên trở
thành tiền đồn ngăn chặn địch mà cộng quân quyết phải thanh toán
cho bằng được để tiến thẳng về Sài Gòn.
Trong đêm đó, 27 tháng 4, 1975, cộng
quân tấn công dữ dội Trường Bộ Binh ở Long Thành, nhưng đã bị lực
lượng phòng thủ của trường do Thiếu tá Hồ Đắc Tùng K20 trực tiếp
chỉ huy chống trả quyết liệt. Lúc đó ở Thủ Đức toàn bộ Bộ Chỉ Huy
của Trường Bộ Binh đang vây quanh máy truyền tin để theo dõi. Một
số gia đinh hiện có thân nhân còn đang chiến đấu ở Long Thành
cũng ngồi quanh đó. Tất cả mọi người đều hồi hộp theo dõi, nhưng
với tâm trạng thật là bi quan, đành bó tay chịu trận. Tôi thấy bà
xã của Đại úy Trác ngồi khóc mếu máo. Tôi còn nhớ lời nói mỉa mai
đau khổ của Đại tá Minh: “Trung Hoa Dân Quốc còn có đảo Đài Loan
để mà chạy ra, chớ Việt Nam mình không biết đi đâu?”. Hồi thời Đệ
Nhứt Cộng Hòa, Tổng thống Ngô Đinh Diệm còn có chuẩn bị đảo Phú
Quốc để mà tử thủ. Nhung bây giờ thì không còn nghe nói gì đến
đảo này nữa.
Quân trú phòng Trường Bộ Binh Long Thành đã anh dũng chiến đấu,
cầm cự cho đến sáng. Nhưng vì quân địch quá đông, nên sau cùng
thì Đại tá Phú phải ra lệnh cho rút lui theo như kế hoạch đã
định. Sau này theo tài liệu của cộng sản Bắc Việt thì ngày 27
tháng 4, Sư đoàn 304/CSBV đã đụng độ dữ dội với các đơn vị Nam
Việt Nam ở khu vực Nước Trong (VC gọi Huấn khu Long Thành là khu
vực Nước Trong). Sau khi chiếm được khu vực Nước Trong rồi, nhưng
khi tiến quân về hướng cầu Đồng Nai trên xa lộ Sài Gòn–Biên Hòa,
Sư đoàn 304/CSBV vẫn bị chận đánh và phải đợi đến ngày 29 mới
chiếm được cầu này.
Sáng ngày 30 tháng 4, 1975 vào lúc 8
giờ 30, Đại úy Nguyễn Thành Hiếu, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn
5/SVSQ/TBB đang chỉ huy phòng tuyến chính mặt xa lộ báo cáo là
thấy đoàn xe thiết giáp và xe motolova của cộng quân đang di
chuyển trên xa lộ Biên Hòa tiến về Sài Gòn. Tôi hết sức ngạc
nhiên vì theo như kế hoạch đã định thì cầu Đồng Nai phải bị giật
xập, không cho thiết giáp và cơ giới của VC vượt qua sông. Tôi
liền liên lạc báo cáo về Biệt khu Thủ Đô. Trong lúc đó thì Trung
tâm Hành quân BKTĐ không ra lệnh dứt khoát mà chỉ nói là tùy nghi
đon vị. Không một chút do dự, Đại tá Minh liền xác quyết trách
nhiệm một cách rất rõ ràng là: “Bổn phận của chúng ta là quân đội
là phải bảo vệ đất nuớc, thấy địch là đánh”. Tôi liền truyền lệnh
của Đại tá Chỉ huy trưởng đến các đơn vị, đồng thời gọi cho Hiếu
chấm tọa độ và điều chỉnh cho các khẩu đội súng cối 81ly tác xạ.
Đồng thời tôi gọi cho các pháo đội pháo binh 105ly, 155ly và
175ly chuẩn bị sẵn sàng. Đây là các loại pháo binh để yểm trợ tầm
xa, mà Quân đoàn III gởi tạm ở đây. Nhưng trong giờ phút quyết
liệt này, tôi dự trù sẽ sử dụng để bắn trực xạ. Súng 175ly được
đặt trên thiết giáp nên dễ dàng di chuyển, điều động.
Bị sức kháng cự mạnh mẽ của Trường Bộ
Binh, nên cộng quân liền đổi hướng tấn công xông thẳng vào Trường
Bộ Binh. Một chiếc thiết giáp T54 ủi sập chướng ngại vật ở cổng
chính và chạy thẳng vào trong, vừa chạy vừa bắn phá loạn xạ.
Trong khi đó thì súng đại liên ở cầu Bến Nọc mà VC vừa chiếm được
đêm qua, bắn xối xả vào trường ở phía cổng số 9 tức cổng sau của
Trường Bộ Binh. Lúc đó súng nhỏ bên ta bắn trả dữ dội tóe lửa vào
chiếc chiến xa. Tôi thấy rõ chiếc chiến xa khi nó tới gần, súng
trên pháo tháp quay qua bắn sập Trung tâm Hành quân, vì trên nóc
TTHQ có nhiều cần ăng ten nên dễ thấy. Thiếu tá Lầu thuộc Trường
Tổng Quản Trị đang ở trong đó may mắn thoát nạn, trong khi đó thì
Đại tá Minh cùng Bộ chỉ huy nhẹ đang ở cách đó không xa.
Khi chiếc chiến xa này chạy xuống tới
cổng số 9 thì gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ của các SVSQ do Thiếu
tá Phạm Hưng Long K20 chỉ huy giữ mặt hậu của Trường Bộ Binh, nên
liền quay đầu chạy ngược lại. Chúng tôi đã tìm cách kêu gọi đối
phương ra đầu hàng nhưng không có kết quả. SVSQ có thấy người lái
chiến xa đứng lên dường như có ý định đầu hàng nhưng rồi lại ngồi
xuống và lại tiếp tục bắn phá làm chết và bị thương một số SVSQ
và quân nhân cơ hữu của Trường. Trong số đó có Thiếu tá Vương Bá
Thuận bị gẫy chân, Trung tá Ông Nguyên Tuyền bị tử thương, v.v.
Mặc dù chưa từng ra chiến trận nhưng
phải nói là tinh thần chiến đấu của các SVSQ rất là hào hùng anh
dũng. Nhưng với súng trường không thể nào hạ được chiến xa, cho
nên tôi gọi Đại úy Lê Văn Ngữ, Đại đội trưởng ĐĐ663/ĐPQ là đơn vị
bảo vệ trường dùng súng M72 để hạ chiếc chiến xa này. Khi nó chạy
tới khu Tiếp Tân gần miếu Tiên Sư thì bị ĐĐ663/ĐPQ bắn đứt xích
nằm tại chỗ, nhưng súng trên pháo tháp vẫn còn quay bắn phá lung
tung. Liền khi đó có một SVSQ thuộc Tiểu đoàn 1/SVSQ, đang ở
phòng tuyến gần đó, nhanh nhẹn bò ra leo lên pháo tháp và liệng
một quả lựu đạn vào bên trong xe tiêu diệt hẳn. Đại úy Ngữ lục
soát trong xe lấy được ba khẩu súng còn đang bốc khói mang lên
trình Đại tá Chỉ huy truởng và cho biết là họ đã bị khóa xích
trong xe nên không thể nào ra đầu hàng được.
Và liền sau đó không lâu vào khoảng 10
giờ 20 phút thì nghe lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố
ngưng bắn chờ lệnh bàn giao. Sau đó Đại tá Minh ra lệnh cho tôi
gọi cho các đơn vị ngưng chiến đấu. Tất cả mọi người đều rơi nước
mắt khi nghe tin này, Đại úy Trác òa lên khóc. Tôi vẫn còn nhớ
lời Đại tá Minh nói lúc đó: “Nhiệm vụ của chúng ta là quân đội là
phải tuân hành lệnh thượng cấp, kêu đánh là đánh, kêu đầu hàng là
đầu hàng”. Tôi bỏ về phòng thay đồ dân sự và lập tức lấy xe gắn
máy phóng nhanh ra cổng, Đại úy Bảo bên Liên đoàn Sinh viên đang
đứng đâu gần đó liền nhảy lên theo. Chúng tôi vừa thoát ra khỏi
cổng thì cộng quân cũng vừa vô tới.
Khi chúng tôi ra đến xa lộ thì thấy
đoàn xe thiết giáp và xe motolova của cộng quân đang từ từ tiến
vô Sài Gòn mà không còn một lực luợng nào ngăn chặn nữa. Và vào
lúc 11 giờ 30 phút chiếc chiến xa dẫn đầu cánh quân này đã tiến
vô Dinh Độc Lập trong lúc Tổng thống Dương Văn Minh cùng nội các
cuối cùng đang chờ đợi để bàn giao. Nhưng ngay vừa khi vô đến
Dinh Độc Lập thì quân CSBV liền hiện rõ nguyên hình là một đội
quân xâm lăng từ miền Bắc vào, chứ không có gì là Mặt trận Giải
Phóng Miền Nam, do nhân dân miền Nam nổi dậy, không có gì là hòa
giải hòa hợp dân tộc, và không có gì là để bàn giao. Họ liền bắt
nhốt tất cả từ Tổng thống Dương Văn Minh đến các Tổng Bộ trưởng
và bắt Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo dẫn đến Kho bạc để tịch thâu
16 tấn vàng của Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam và cũng kể từ đó miền
Nam Việt Nam đã thực sự mất vào tay cộng sản Bắc Việt.
Để biết thêm chi tiết về những giờ phút
cuối cùng của Trường Bộ Binh sau khi quân CSBV vào tiếp thu Huấn
khu Thủ Đức, tôi xin trích đoạn trả lời của Đại tá Trần Đức Minh,
vị Chỉ huy trưởng cuối cùng của Trường Bộ Binh, trong cuộc phỏng
vấn với tạp chí Văn nghệ Tiền Phong, nhân kỷ niệm 25 năm ngày
miền Nam Việt Nam lọt vào vòng thống trị của cộng sản. Ông đã kể
lại như sau:
... Khoảng hơn một giờ sau khi im tiếng súng, đại diện của một
đơn vị Bắc Việt đến, họ yêu cầu tôi thi hành lệnh của Tổng thống
Dương Văn Minh và Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh để bảo đảm không nổ
súng nữa. Tôi giao cho họ số vũ khí bắt được trên chiếc xe tăng
bị bắn cháy và nói với họ lo chôn cất những người bị chết trong
xe đó...
...
Trong khi nói chuyện, đại diện quân Bắc Việt yêu cầu tôi triệu
tập Chỉ huy trưởng của các Quân trường trong Huấn khu Thủ Đức đến
gặp họ. Tôi cho biết không thấy Huấn khu trưởng cũng như những
người có trách nhiệm khác đâu cả. Cuối cùng họ đành bảo tôi thay
mặt Huấn khu bàn giao tất cả các trường hiện có ở Thủ Đức. Tôi
cho lệnh tập họp ở Vũ đình trường, sau đó tuyên bố bàn giao Huấn
khu Thủ Đức theo đúng chỉ thị của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và
Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
... Sự việc diễn ra rất ngắn ngủi, chỉ
có khoảng vài trăm người mặt mày ngơ ngác, bần thần. Rồi loáng
một cái, chẳng còn ai mặc quân phục nữa. Sinh viên Sĩ quan mặc đồ
dân sự lủi thủi lê chân ra phía cổng chính. Tôi bùi ngùi nhìn
theo tủi hổ... Chiều hôm đó đến lượt tôi trút bỏ quân phục và
được yêu cầu “nghỉ riêng” ở trên lầu của tư dinh Chỉ huy trưởng.
Trong khi một Bộ chỉ huy quân Bắc Việt ở dưới lầu. Đêm đó tôi lên
cơn sốt, trong lúc chập chờn nửa tỉnh nửa mê tôi đã khóc thật
nhiều. Lúc này tôi mới thấm thía cảm nghiệm được cái lẽ vô thường
mà trước kia tôi chỉ hiểu được bằng lý trí...
... Định mệnh đã bắt tôi đóng vai tuồng
“hàng thần lơ láo”, và đây là điều tủi nhục nhất trong đời tôi.
Cho đến khi viết những dòng này niềm tủi nhục ấy vẫn hằn sâu
trong tâm khảm tôi, và hẳn rằng khôn khuây cho đến khi sang bên
kia thế giới.
Viết để nhớ lại ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Nguyễn Ngọc Thạch
K20–VBQGĐL
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Batkhuat Nguyen chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, February 21, 2021
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang