Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Nhật Ký
chiến trường
Chủ đề: 30T4Đ
Tác giả: Lam Hà
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời giới thiệu:
Lam Hà là bút hiệu của cựu Đại úy, cựu Học Sinh trường Trung học
Phan Chu Trinh Đà Nẵng, Sĩ Quan Tùy viên cho Trung tướng Ngô
Quang Trưởng Tư lệnh QĐI/QK1-VNCH. Bài dưới đây trích từ Nhật Ký
của một Tùy viên Tướng Ngô Quang Truởng.
Bất Khuất
Ngày
23 tháng 10, năm 2010, tôi đi dự lễ tiễn đưa Đại tá Đặng văn
Phước về nơi an nghỉ cuối cùng. Ông là Không Đoàn Trưởng
Không Đoàn 51, và chính ông là người đã nhận tín hiệu
của tôi qua cái đèn bấm và cái samsonite, ông đã can đảm đáp
xuống cột cờ BTL/HQVI Duyên Hải để cứu Trung tướng Ngô Quang
Trưởng, Tư lệnh Quân Đoàn I và tôi, ra khỏi vùng nguy hiểm vào
khoảng 2 giờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975.
Sau đó chúng tôi ghé núi Sơn Trà bốc
Chuẩn tướng Khánh, Tư lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân, rồi trực chỉ phi
trường Non Nước để nhập cùng anh em Thủy Quân Lục chiến Việt Nam
[Cộng Hòa].
Tôi muốn giữ im lặng sau cuộc chiến,
như bao nhiêu chiến binh chuyên nghiệp khác. Nhưng tôi không thể
nào quên được bài báo của Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng đã đăng trong tuần
báo Viet Tide của ông Vũ quang Ninh (chủ nhiệm) và cô Mai Khanh
(chủ bút).
Là
người học sử, hay viết sử, phải tôn trọng “sử xanh”, và là những
người có phương tiện truyền thông để dẫn dắt dư luận quần chúng,
xin diễn đạt vô tư, chính xác, và nhất là để cho các thế hệ con
cháu biết sự thật là tại sao thế hệ cha ông phải chiến đấu và đã
chiến đấu như thế nào.
Bài báo đã đăng ở trang 71 (Viet Tide số 421)
Lá thư tôi hỏi và trang báo xin đăng đã
bị phớt lờ.
Chúng tôi, những người đã tận tình phục
vụ quê hương xứ sở, quên cả thân mình, cha mẹ, vợ con cùng thân
bằng quyến thuộc, đã làm hết khả năng và bổn phận của người quân
nhân trong cuộc chiến, rất buồn lòng khi bị đánh giá sai sự thật.
Hôm nay, giờ này, khi tôi đang viết
những dòng chữ này thì có nhiều người đã ra đi, có nhiều người ở
lại quê nhà, và cũng có nhiều người đang chịu trăm cay nghìn đắng
trong khắp bốn phương trời ở xứ người. Trong lúc đó những người
bạn cũ cũng như quân thù đã tìm cách bôi nhọ, hay đổ tội cho
QLVNCH, để nhằm mục đích tự tôn vinh hay che dấu mặc cảm phản bội
đồng minh.
Ba
câu hỏi của tôi không được trả lời thì bây giờ tôi cũng xin được
nói lên để mọi người cùng biết:
1. Khi Đà Nẵng đang cơn hấp
hối, tôi đã theo sát Tư lệnh Quân Đoàn I cho đến ngày ra khỏi
nước.
2. Tương quan lực lượng đôi bên.
2a. Lực lượng quân đội cộng sản:
Những lực lượng Tiền Phương cộng sản
đang bao vây Đà Nẵng gồm:
- Các Sư đoàn 324B, Sư Đoàn 325,
- Một Trung đoàn chiến xa,
- Hai Trung
Đoàn Pháo làm nỗ lực chính.
Tất cả theo Elephant Valley tấn công
phía Bắc Đà Nẵng.
- Một nỗ lực thứ hai là Sư Đoàn 711
cùng Mặt trận 44 tiến chiếm khu Kỹ Nghệ An Hòa (quận Đức Dục) và
quận Đại Lộc rồi tiến về phía Nam Đà Nẵng.
Thành phố coi như nằm giữa hai gọng kềm
của địch.
Tôi
nhớ một phái đoàn dân chính gồm có các đại diện dân cử, đảng phái
và thân hào nhân sĩ khoảng 10 người, trong số này tôi biết dân
biểu Phước (cựu học sinh Phan Chu Trinh và chúng tôi thường gọi
là Phước Lít), Giáo sư Trần ngọc Quế (giáo sư trường Phan chu
Trinh và là một người của một đoàn thể chính trị), họ đến để yêu
cầu Tư lệnh Quân Đoàn có biện pháp quân sự để Đà Nẵng không nằm
chịu trận địa pháo như lòng chảo Điện Biên Phủ.
Những đơn vị địch ở phía bắc đèo Hải
Vân như:
- Các
Sư Đoàn 304, SĐ 308, SĐ 320 B và SĐ 312 đang ở đâu? Có phải chúng
đang ở sau lưng những nổ lưc chính không?
Đó là chưa kể những đơn vị địch ở Quân
Khu II dồn lên vì QĐ II đã mất trước rồi.
2b. Lực lượng phía QLVNCH gồm có:
- Sư Đoàn 3 Bộ Binh (SĐ3BB), Sư Đoàn
TQLC (SĐTQLC) trừ (vì Lữ Đoàn 147 (LĐ147TQLC) xem như đã [bị] xóa
sổ ở phía bắc đèo Hải Vân)
- Không Quân thì tất cả máy bay phải
xuôi nam theo lệnh Bộ Tổng Tham Mưu
- Pháo binh còn vài khẩu
- Hải Quân chỉ có khả năng vận chuyển
hạn chế
- Sư
Đoàn Nhảy Dù thì đã hoàn toàn rút về Nam.
Quân thất trận đi tìm gia đình, dân
lánh nạn từ phía Bắc và phía Nam đổ về Đà Nẵng, khoảng 1.5 triệu
người. Bình thường Đà Nẵng chỉ có khoảng 300,000 dân. Người đi
đứng chật đường không thể chen chân được; dĩ nhiên trong số hỗn
loạn này có cả đặc công cùng tiền sát viên pháo binh cộng sản.
Đến đây thì Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng cùng
quý độc giả đã thấy được quân số tham chiến đôi bên.
3. Sơ lược những biến cố cuối
cùng tại Huế và Đà Nẵng (ĐN):
- Đêm 25 tháng 3, 1975 Trung tướng Ngô
Quang Trưởng ra lệnh các lực lượng ở Huế rút về ĐN.
- Ngày 26 tháng 3 Trung tướng Trưởng và
tôi bay trực thăng dọc theo bờ biển và tôi thấy tận mắt quân dân
bồng bế, gánh gồng dẫn dắt nhau di chuyển về phía Nam. Đi đầu là
ĐPQ/NQ tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Kế đến là SĐ1BB rồi đến
TQLC. Dân chúng thì chạy lẫn lộn trong đoàn quân và phía sau. Đa
số trong số họ là gia đình quân nhân. Trông thảm thương như cảnh
Lưu Bị dắt dân Tân Dã chạy về Diễn Châu trong chuyện Tam Quốc
Chí.
Trung
tướng Trưởng muốn tôi lên tần số [máy
vô tuyến truyền tin PRC-25]
để Trung tướng nói chuyện với Đại tá Lương, Lữ Đoàn Truởng
LĐ147TQLC. Về sau tôi được biết qua Trung Tâm hành Quân QĐI: là
đoàn người đến cửa Tư Hiền thì tan tác vì không qua được cửa Tư
Hiền. Hải Quân và Công Binh nhận lãnh công tác đánh đắm một chiếc
tàu Hải Quân làm cầu nổi như dự định trong buổi họp trước đó tại
BTL/QĐI, nhưng họ đã không thực hiện được.
Thêm nữa, đoàn người bị VC tác xạ và
mạnh ai nấy chạy. Bộ Binh và ĐPQ/NQ về đến Đà Nẵng được khoảng
1/3, nhưng số này tan hàng trong hỗn loạn để lo đi tìm gia đình
nên không còn kiểm soát được.
SĐ1BB coi như bị xóa sổ cùng với ĐPQ/NQ
ở phía Bắc đèo Hải Vân.
Trong ngày 26 tháng 3, 1975, LĐ147TQLC
không bốc được nên Lữ Đoàn đã chiến đấu đến khi hết đạn. Một số
tự tử và một số bị địch bắt.
Ngày 26 tháng 3, 1975 Huế xem như đã
mất.
Tình hình
phía Nam đèo Hải Vân cũng bi đát chẳng kém gì Huế:
Ngày 10 tháng 3 thì hai quận Hậu Đức và
Tiên Phước bị tràn ngập bởi Trung Đoàn 52 và Sư Đoàn 711 của Việt
cộng.
Ngày 24
tháng 3 Tiểu Khu Quảng Tín rút chạy về Đà Nẵng, và cũng ngày này
Tiểu khu Quảng Ngãi rút về Chu Lai.
Ngày 26 tháng 3 SĐ2BB rút ra Cù Lao Ré.
Thành phố Đà Nẵng lên cơn sốt hỗn loạn. Cướp bóc đã xảy ra tại
kho gạo gần thương cảng.
Sáng ngày 28 tháng 3 Tư lệnh Quân Đoàn
cho triệu tập các cấp chỉ huy để tìm biện pháp vãn hồi trật tự và
tái trang bị cho những đơn vị có mặt trong thành phố. Nhưng kế
hoạch không thi hành được vì không đủ quân số tác chiến, và hầu
như một số lớn sĩ quan đã bỏ phòng sở để đi lo chuyện gia đình
[riêng]. Tôi thấy chỉ có văn phòng Tư lệnh còn làm việc, còn tất
cả phòng ban trong bộ Tư lệnh hầu như ngừng lại hết.
Vào khoảng 2g chiều ngày ngày 28 tháng
3, Tiểu khu Quảng Nam xem như mất liên lạc. Trung tướng Trưởng và
Tôi chỉ bay đến chi khu Hòa Vang rồi phải trở lại BTL/QĐI. Chi
Khu Hòa Vang ở sát phi trường Đà Nẵng. Như vậy QĐI chỉ còn lại
Thành Phố Đà Nẵng và Phi Trường chưa bị Việt cộng chiếm mà thôi.
Lực lượng đáng kể để phòng thủ Đà Nẵng chỉ còn SĐ3BB và 3 Lữ Đoàn
TQLC mà thôi.
Trong suốt những tháng ngày ở Mỹ, Trung tướng Trưởng vẫn thường
gặp và đặt giả thuyết với các cấp chỉ huy thuộc quyền rằng nếu
khi ấy chúng ta tử thủ Đà Nẵng thì chúng ta có giữ được không? Và
việc gì sẽ xảy ra?
Bây giờ tôi xin chuyển câu hỏi
này lại cho quý độc giả.
Đến đây tôi cũng xin nhắc đến
Sư Đoàn 3 Bộ Binh (SĐ3BB):
Sư Đoàn được thành lập với chủ lực là
Trung Đoàn 2 của SĐ1BB cùng với quân nhân đủ mọi thành phần: quân
nhân văn phòng, quân phạm, hay bị trù dập và bị tống ra SĐ3BB, và
Sư Đoàn này ra trấn ải địa đầu giới tuyến. Sư Đoàn bị mang tiếng
“chạy làng” khi Việt cộng ồ ạt tràn qua vùng giới tuyến khu phi
quân sự, để tấn công quân ta. Ai giỏi hơn ai để không “chạy
làng”?
Khi lực
lượng Đồng Minh chưa rút đi, thì lực lượng của họ gồm:
- Sư Đoàn 3/TQLC/Hoa Kỳ
- Thêm Trung Đoàn 1/TQLC/Hoa Kỳ tăng phái
- Sư Đoàn 101 Nhảy Dù/HK
- Lữ Đoàn 5 Cơ
Giới.
Một tiểu
đoàn của họ vừa tăng phái lẫn cơ hữu vào khoảng 1,500 quân nhân –
bằng quân số một trung đoàn chiến đấu của ta.
Hỏa lực của một Sư Đoàn Hoa Kỳ chấp cả
Hỏa lực của QLVNCH không địch nổi. Họ có hỏa lực của Không, Hải,
Lục [quân] yểm trợ tối đa. Mất một sư đoàn là rung chuyển cả nước
Mỹ. Một sư đoàn chiến đấu nhưng cả 250 triệu người yểm trợ cả
phương tiện lẫn tinh thần. Ngày tôi theo Tiểu Đoàn 3/1 TQLC/Hoa
Kỳ hành quân ở vùng Quảng Nam thì một hồi chánh viên nói cho biết
rằng các đơn vị Việt cộng rất sợ đụng trận với Mỹ. Tôi hỏi lại
anh ta: vậy chúng tôi, QLVNCH, đánh giặc dở hơn Mỹ phải vậy
không? Anh ta trả lời rằng không phải vậy - Chúng tôi ít sợ các
anh vì các anh bắn ít hơn nhiều, còn Mỹ thì họ bắn như mưa. Anh
xem các cây trong làng, có cây nào không đầy vết đạn chằng chịt.
Thế nhưng ngày tôi theo Tiểu Đoàn 2/1 TQLC/Hoa Kỳ, tăng phái cho
Sư Đoàn 3/TQLC/Hoa Kỳ, tại phía nam Cồn Thiên vẫn phải chịu trận
pháo kích 61 và 82ly của quân chính qui Việt cộng mấy tháng trời.
Đám quân sinh Bắc tử Nam còn dám tấn
công các đơn vị Mỹ ở vùng phi quân sự như ở Cồn Thiên, Khe Sanh
huống gì một Sư Đoàn tân lập như Sư Đoàn 3 Bộ Binh-QLVNCH?
Những ngày cuối cùng của Đà Nẵng nếu
không có SĐ3BB, thì Sư Đoàn TQLC-QLVNCH không rút xuống tàu được.
SĐ3BB đã bị hy sinh ngăn chận địch và không có kế hoạch bốc
SĐ3BB.
Tổng
Thống Thiệu đã đặt câu hỏi cho Trung tướng Trưởng là nếu rút, thì
rút được bao nhiêu quân? Ưu tiên vẫn là rút SĐND, SĐTQLC để có
lực lượng làm hơi thở cuối cùng của VNCH.
Lữ Đoàn I Nhảy Dù (LĐIND) còn lại sau
cùng chỉ được dùng để ứng chiến nhằm nâng cao tinh thần quân dân
mà không được phép xử dụng tác chiến. SĐTQLC cũng vậy; phải làm
sao rút được về Sài Gòn.
Khi Tư lệnh SĐ3BB về họp lần cuối cùng
đêm 28 tháng 3 tại BTL Hải Quân/VIDH thì chỉ được biết bất ngờ là
phải rút về vùng Horse Shoe gần sông Thu Bồn mà không thấy nói di
tản SĐ3BB.
Phương tiện và tình thế chỉ có thể lo cho 2 Sư Đoàn tổng trừ bị
mà thôi. Đến đây tôi xin trả lời nghi vấn của Đại tá Phạm Bá Hoa
trong “Đôi Dòng Ghi Nhớ” rằng không có quan Xịa [CIA/Central
Intelligence Agency] nào
khuyên đừng đánh cả. Phía Việt cũng như Mỹ và kể cả Trung tướng
Trưởng chỉ muốn bảo toàn lực lượng để lo chuyện khác về sau, và
khả năng chỉ có thể lo cho hai Sư Đoàn Tổng Trừ Bị mà thôi. Sư
Đoàn 3 Bộ Binh-QLVNCH đã bị làm con chốt thí.
Trong quân sử chiến tranh Cao Ly: khi
chí nguyện quân cộng sản Trung Hoa ồ ạt tấn công thì quân Mỹ và
Nam Hàn phải rút về phía Nam. SĐ1TQLC/Hoa Kỳ phải làm nút chận
cho quân bạn rút lui. Sư Đoàn này đã chiến đấu oanh liệt; nhưng
họ phải trả một giá quá đắt: hơn 800 Sĩ Quan và nhiều ngàn binh
sĩ hy sinh sau khi họ tự giải cứu và rút sau cùng.
SĐ3BB-QLVNCH của chúng ta không làm
được như vậy, không có quân bạn gíúp đỡ để dựa lưng, trước mặt là
địch, sau lưng là bạn. Sư Đoàn đã phải tứ bề thọ địch.
Hơn nữa chính phủ và nhân dân của
SĐ1TQLC/Hoa Kỳ không bỏ rơi họ, trong khi các bạn (SĐ3BB-QLVNCH)
hoàn toàn bị bỏ rơi. Các bạn (SĐ3BB-QLVNCH) đã chiến đấu oanh
liệt trong một hoàn cảnh nghiệt ngã. Xin đứng nghiêm kính chào
các chiến hữu Sư Đoàn 3 Bộ Binh-QLVNCH đã nằm xuồng, hoặc đang
quằn quại đau thương tại quê hương Quảng Đà!
Giờ phút cuối cùng tại Đà Nẵng:
Sáng sớm ngày 29 tháng 3, năm 1975
chúng tôi tiến ra bờ biển để lội lên tàu. Ngoài TQLC ra, tôi đếm
BB có khoảng 13 người: Trung tướng Trưởng, Tôi, Đại tá Nguyễn Hữu
Duệ (Tỉnh trưởng Thừa Thiên), Đại tá Kỳ (Tỉnh trưởng Quảng Trị),
Trung tá Tuân (Phòng 3 QĐI) và mấy người nữa tôi không nhớ tên.
Tôi đi lòng vòng để tìm một cái phao
cho Trung tướng Trưởng nhưng không tìm được. Các phi cơ trực
thăng và Chinooks đang tiếp nhiên liệu bằng cái mũ sắt. Họ phá
hai chiềc để lấy nhiên liệu đổ vào một chiếc. Đi đến đâu thì
những người trên phi cơ cũng đều chĩa súng vào tôi.
Tôi gặp Thiếu tá Hiếu, người trước đây
từng lái trực thăng cho Trung tướng Trưởng, và ông la to:
“Đừng bắn nó, nó là bạn tao,”
Ông hỏi: “Mầy có đi thì lên đi với
tao.”
“Không,”
tôi trả lời”
Thiếu tá có cái phao nào cho tôi một cái cho Trung tướng Trưởng.”
“không, tao không có. Mầy có đi không?”
Ông lại hỏi
“Không, tôi còn phải lo cho Trung tướng Trưởng.” tôi trả lời.
Ông chúc tôi may mắn và tôi cũng chúc
lại ông may mắn.
Tôi trở lại tìm Trung tướng Trưởng thì
thấy Thiếu tá Phương (TQLC) đã nhường cái phao của ông cho Trung
tướng Trưởng mặc dù Thiếu tá Phương không biết bơi. Đại tá Trí
kẹp Trung tướng trưởng một bên, một bên thì Thiếu tá Phương kẹp.
Tôi vớ một khúc gỗ của một cái bunker cũ để làm cái phao. Một tay
tôi nắm thắt lưng Trung tướng Trưởng để đẩy ông, một tay ôm khúc
gỗ và cả ba chúng tôi dìu ông lội ra tàu.
Biển động, sóng lớn, không có cầu tàu.
Nhiều lúc sóng phủ tôi bị chìm lỉm. Chúng tôi lội đến vừa lút đầu
thì lên được tàu.
Sau khi lên đến nơi thì Trung tướng
Truởng mê sảng và tôi cũng ngất đi một khoảng thời gian dài vì
một phần đói, một phần uống nhiều nước mặn khi sóng phủ, một phần
vì quá mệt.
Theo Trung úy Bình, Hạm Phó LST-404, thì Trung tướng Trưởng đã
nói trong lúc mê sảng:
“Bây giờ Tổng Thống biểu tôi phải làm
gì?”
“Làm như vậy thì làm sao tôi nói
với các tướng dưới quyền tôi được.”
Khi tàu đang lênh đênh ngoài khơi Đà
Nẵng thì chúng tôi nhận được lệnh Tổng Thống Thiệu “phải tái
chiếm ĐN”.
“Bây giờ tôi đi với ai và lấy gì để tái chiếm.”
Trung tướng Trưởng nói một mình và ông
ra lệnh cho Hạm Trưởng đưa ông và TQLC xuôi Nam.
Trên đường xuôi Nam, tôi và Chuẩn tướng
Khánh, mỗi bữa hai người chia nhau nửa muỗng cơm và nửa muỗng
nước của anh em hải quân nhịn miệng để dành cho. Chúng tôi không
có thực phẩm và nước uống. Theo anh em HQ cho biết tàu vừa xong
công tác và trên đường về bến thì nhận được lệnh quay trở ra Đà
Nẵng vận chuyển QĐI nên không có tái tiếp tế.
Về đến Sài Gòn thì Trung tướng Trưởng
đã kiệt lực nên được đưa vào Tổng Y Viện Cộng Hòa. Vài ngày sau
ông tỉnh táo lại và đã khóc khi tôi đứng bên giường bệnh của ông,
và ông đã than thở rằng: “Nhờ
trời giúp tôi với Hòa mới vào được tới đây.”
Còn nhiều chi tiết nhưng bài báo giới
hạn. Một ngày nào thuận tiện tôi sẽ viết nhiều hơn. Trước khi tạm
chấm dứt bài này tôi xin thưa rằng trong sách “Tâm Tư Tổng Thống
Thiệu” của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng có đề cập đến “Sư Đoàn 1 tự
động tan hàng ở Huế” là không đúng. Đối với Trung tướng Trưởng
một đôi khi một đại đội BB do một Thiếu úy chỉ huy đang chạm địch
ông cũng đáp xuống xem xét và tôi đã toát mồ hôi hột vì sợ không
bảo vệ được ông. Chuyện một đại đơn vị cấp Sư Đoàn tự động giải
tán mà Trung tướng Trưởng không biết, thì không thể nào có thể
xảy ra được. Chuyện lệnh lạc tiền hậu bất nhất của Tổng Thống
Thiệu thì có và đúng “solid 100%”. Tôi còn vài tài liệu để chứng
minh điều này.
Ngày tháng qua đi, qua đi... Mọi sự rồi
cũng chẳng còn gì cả. TT Thiệu đã ra đi; Đại tướng Viên đã ra đi;
vị tướng tài ba và đức độ, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, ngày nào
của lòng tôi kính mến cũng đã ra người thiên cổ. Các niên trưởng
của tôi như Chuẩn tướng Khánh, Đại tá Duệ, Đại tá Phước... cũng
đã ra đi, và rồi chúng tôi cũng sẽ mờ dần theo năm tháng... Nếu
có còn chăng là đôi dòng lịch sử.
Vậy xin tôn trọng “sử xanh” và đừng bẻ cong
ngòi bút vì bất cứ lý do nào.
“Biết
thì nói rằng biết, không biết thì nói rằng không biết.” Nếu dẫn
chứng cho lập luận của mình thì xin nêu rõ xuất xứ (foot notes).
Xin đừng nói rằng nghe người này, người kia nói, là vô căn cứ.
Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng và Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã làm buồn lòng
những người đã ra đi và những kẻ còn ở lại. Chúng
tôi đã từ bỏ tất cả, kể cả gia đình thân yêu để làm hết sức mình
cho tổ quốc, cho quân đội và cho lý tưởng.
Quân đội nào cũng có một vài cấp chỉ
huy hèn mọn, khi địch chưa đến đã bỏ chạy. Quân Đoàn I cũng không
ra ngoài cái thông lệ tầm thường đó; nhưng không phải tất cả cấp
chỉ huy đều hèn nhát bỏ chạy về đến Sài Gòn trong lúc còn 100,000
quân còn ở lại chiến đấu tại Đà Nẵng.
Tôi là một cá nhân nhỏ bé tầm thường
nhưng may mắn còn sống sót sau biến cố 1975. Ở một góc độ nhỏ bé
nào đó tôi đã thấy, đã nghe và đã chịu đựng những điều đã xảy ra
vì vậy tôi phải nói cho những người không còn nói được nữa, hay
họ không bao giờ muốn nói.
Lam Hà
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by MĐ Trịnh Tường Vân, TĐ50CTCT/SĐND-QLVNCH chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, March 17, 2017
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang