Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
LIÊN ĐOÀN NGƯỜI NHÁI
HẢI QUÂN-QLVNCH
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Vào năm 1950, khi tôi vừa được 10
tuổi, tôi thấy một hình vẽ trong tạp chí ngoại quốc: hình vẽ một tổ
Người Ếch (vì lúc đó chưa có Người Nhái ) lặn xuống biển và đang đặt
chất nổ để phá hủy trái Thủy Lôi. Hình ảnh trầm hùng đó đã in sâu
vào ký ức của tôi mãi mãi....
Hoàn cảnh gia đình của tôi từ
nhỏ lúc tôi vừa 8 tuổi đã mất cha. Vì thời buổi chiến tranh, người
anh của tôi cũng như bao nhiêu thanh niên cùng lứa tuổi đã vào bưng
biền kháng chiến chống Pháp từ năm 1945, cho đến năm 1948. Một đêm
bão bùng mưa gió đã phủ xuống gia đình tôi. Đêm đó có vài người mặc
đồ đen đến gõ cửa nhà tôi và bắt Ba của tôi đem đi. Và mãi mãi ba
tôi không còn trở về nữa. Má của tôi đi tìm kiếm thăm hỏi tin tức
của ba tôi. Sau mấy tháng trời, má của tôi mới biết được tin ba và
anh của tôi đã bị bọn Cộng Sản đem đi thủ tiêu với lý do ba và anh
tôi là tín đồ đạo Cao Đài.
Gia đình tôi còn lại 4 anh em.
Người Anh lớn đã có gia đình rồi nên ở riêng. Nhà của tôi ở tại làng
Xuân Hiệp chỉ cách quận lỵ Thủ Đức khoảng 3 cây số, nơi đây có dòng
suối Xuân Trường uốn mình chảy ngang qua ngôi đình làng và xuyên qua
quốc lộ 1 xuôi về hạ nguồn ngang qua trước nhà của đại văn hào
Nguyễn văn Vĩnh. Lúc đó vùng này đã trở thành vùng mất an ninh, má
của tôi đành phải rời xa đất đai, đem 3 anh em tôi ra chợ Thủ Đức để
lo buôn bán tảo tần kiếm sống nhưng vẫn không đủ ăn. Người anh kế
tôi mới có 12 tuổi, may mắn được người quen giới thiệu vào giúp việc
cho một quán cà phê. Ông chủ quán cà phê thấy anh tôi siêng năng
chịu khó làm việc nên tôi cũng được ông chủ cho vào làm luôn trong
tiệm của ông. Hai anh em tôi cố gắng đi làm để giúp cho đứa em nhỏ
có đủ phương tiện học hành (Sau này em tôi Lê Đình Thành, tốt nghiệp
kỹ sư trường Kỹ Thuật Phú Thọ và là giáo sư trường Kỹ Thuật Cao
Thắng), còn tôi và anh tôi thì chỉ đi học tư trong những giờ thích
hợp.
Lúc thơ ấu tôi rất ngưỡng mộ các vị danh tướng trong lịch sử Việt Nam như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Văn Duyệt, v.v. như kim chỉ nam cho cuộc đời. Do đó tôi rất mong muốn được học võ nghệ, và cũng mong sau này có dịp đóng góp được phần nào cho quê hương như câu Quốc Gia hưng vong, thất phu hữu trách.
Tôi nhập môn Võ LâmTân Khánh
Qua sự giới thiệu của ông Ngoại tôi
với vị võ sư Nguyễn Văn Đại là Cậu bà con bên ngoại nên tôi và người
anh kế của tôi được võ sư nhận làm đệ tử sau buổi lễ bái sư.
Vì hoàn cảnh khó khăn của thời điểm 1950 Quân đội Pháp bị kháng
chiến quân Việt Minh tấn công khắp nơi. Chúng ra lệnh cấm không cho
dân chúng tập võ. Võ sư phải lén dạy võ cho thanh niên trong làng
chia ra nhiều nơi nhiều nhóm. Vì vậy hai anh em chúng tôi chỉ học võ
trong những đêm có trăng còn những đêm trăng mọc trễ thì đốt đèn
dầu. Trung bình học được khoảng 15 ngày trong một tháng.
Anh
tôi Lê Đình Trị sanh năm 1937 lớn hơn tôi 3 tuổi, hai anh em tôi đều
rất say mê võ thuật, về sức khỏe mặc dầu là tôi nhỏ tuổi hơn nhưng
không chênh lệch bao nhiêu so với anh tôi.
Những đêm học võ,
chúng tôi cỡi xe đạp chở nhau từ nhà ở tại chợ Thủ Đức vào làng Bình
Phú nơi nhà Thầy khoảng 3 cây số đường làng và học võ từ 6 giờ chiều
cho đến 11 giờ đêm chúng tôi mới chở nhau về bằng xe đạp.
Phương pháp huấn luyện là 2 giờ đầu học tập đường thảo (Bài quyền)
giờ còn lại là tập song đấu, mỗi đầu giờ được nghỉ giải lao khoảng
10 phút. Với bản tánh say mê và háo thắng của tôi trong lúc tập song
đấu đã thường làm cho anh tôi bị trúng đòn hơi nặng, có lúc thầy tôi
phải cho ngưng đấu để anh tôi uống giấm pha đường cho đỡ đau.
Một cuộc khảo sát bất ngờ của thầy.
Sau hai tuần trăng (2
tháng) chúng tôi mới học vỡ lòng bài quyền Đồng Nhi. Hôm nay chúng
tôi vừa vào đến nhà thầy, ông gọi 2 anh em tôi đến gần và nói:
“Hôm nay 2 đứa bây theo Cậu đến chỗ này.”
Rồi ông dẫn anh
em tôi đi theo bờ ruộng mía quanh co khoảng 1 cây số thì đến một căn
nhà bỏ hoang giữa ruộng mía. Khi bước vào trong căn nhà, tôi nhìn
thấy tranh tối tranh sáng khoảng hai ba chục người ngồi xung quanh
một ngọn đèn dầu. Khi thấy ba thầy trò tôi vào tất cả đều đứng lên
cúi đầu chào vị võ sư, ông ra dấu cho tất cả ngồi xuống rồi ông chậm
rãi giới thiệu anh em tôi là học trò nhỏ nhất mới nhập môn với tất
cả mọi người và cũng giới thiệu tên của những sư huynh của chúng
tôi. Lúc đó tôi hồi hộp quá nên không còn nhớ rõ tên các người đó
chỉ nhớ có một tên người trưởng tràng là Nguyễn Văn Hương 18 tuổi,
vì tôi được nghe thầy thường khen anh Hương là giỏi nhất trong tất
cả các võ sinh của ông, trong thâm tâm anh em tôi đều ái mộ nên nhớ
rất rõ và cũng rất mong có ngày được gặp anh Hương.
Với dáng
điệu trầm hùng võ sư Đại ra lệnh:
“Hương bước ra!”
Anh
Hương lên tiếng “dạ” rồi bước ra giữa khoảng trống.
Võ sư Đại
ra lệnh tiếp:
“An bước ra!”
Tôi giật mình vì bất ngờ.
Hơi chần chờ, Võ sư Đại nhắc lại: “An bước ra!”.
Tôi “dạ” rồi
bước ra sân, Võ sư ra lệnh:
“Hai đứa song đấu!”
Tiếng
lệnh song đấu đó đã làm cho tôi chới với. Trời! Thật sự tôi học
Đường Thảo còn chưa nhuần nhã thì làm sao mà dám song đấu với một sư
huynh, trưởng tràng của môn phái? Tôi lo lắng vô cùng nhưng cũng
đành phải tuân lời thầy.
Tôi và anh Hương cùng bái tổ rồi bỏ
bộ thủ thế thì tôi đã bị lọt vào thế hạ phong rồi.
Ghi chú:
Môn võ thuật Tân Khánh khi học tập đều được huấn luyện quyền cước và
chiến thuật cùng lúc, thí dụ như khi bước ra sân đấu ta phải chiếm
vị trí thượng phong dồn địch thủ vào thế hạ phong. Có nghĩa là vào
sân đấu phải chiếm vị trí trên gió địch thủ ở vị trí dưới gió, khi
giao đấu địch sẽ bị bất lợi vì bụi bặm bay vào mắt mũi của mình. Ban
ngày có ánh sáng mặt trời thì Thượng phong ánh sáng mặt trời ở phía
sau lưng của ta còn địch thủ ở thế Hạ phong bị ánh sáng mặt trời
chói thẳng vào mắt không thấy đường. Ban đêm cũng giống như ban ngày
Thượng phong là ánh sáng ở phía sau lưng ta và địch Hạ phong sẽ bị
chói mắt.
Tôi hoang mang vì bị ánh sáng ngọn đèn dầu chói vào
mắt, những bóng người bao vây chung quanh ẩn hiện lẫn với bóng anh
Hương, sau khi đảo bộ anh Hương phóng thẳng quả đấm vào mặt tôi một
tiếng “bốp”. Cùng lúc với tiếng “bịch” vang lên, má bên phải của tôi
đã lãnh cú đấm như sấm sét, mắt tôi hoa lên như có nhiều đốm lửa
tung tóe. Tôi bị sức dội thối lui mấy bước. Và ngược lại bóng anh
Hương theo tiếng “bịch”, cũng văng ra xa khoảng 2 thước té ngồi
xuống đất.
Võ sư Đại ra lệnh tiếp tục đấu. Trong lúc đó tôi
chưa kịp hoàn hồn, anh Hương đã vào thế, tôi cũng đảo bộ theo.
Anh Hương chuyển đổi phương vị từ trái qua phải và bất thần như
cơn gió lốc tung một quả đấm vào má trái của tôi, tôi cũng không
tránh né kịp nên lại lãnh thêm một quả thôi sơn. Nhưng lạ lùng là
anh Hương lại cũng nhận một cú đá do phản ứng tự nhiên của tôi văng
ra té ngồi xuống đất một lần nữa.
Võ sư Đại mỉm cười gật đầu
mấy cái ra chiều thỏa thích, ông cho ngưng trận đấu và bảo tất cả võ
sinh thu dọn rồi giải tán. Võ sư dẫn anh em tôi về nhà nhưng ông
không nói lời nào cả, đêm đó anh em tôi được ông cho nghỉ tập để về
sớm.
Trên đường về nhà, tôi đưa tay xoa nhẹ trên hai gò má
nơi mà anh Hương đã tặng 2 quả đấm còn sưng vù. Anh em tôi hỏi nhau
và lấy làm lạ về những việc đã xảy ra vừa rồi, vì anh em tôi thật
tình chưa học được căn bản về võ thuật chút nào cả vì mới nhập môn
và còn quá nhỏ, tôi thì mới có 10 tuổi còn anh Trị anh của tôi cũng
mới có 13 tuổi. Câu hỏi tại sao cứ quanh quẩn trong đầu tôi.
Thứ 1: Tại sao đêm nay ông võ sư lại tập họp tất cả võ sinh khắp nơi
về mà không thấy các anh đó tập võ hoặc song đấu với nhau.
Thứ 2: Tại sao lại chỉ định anh Hương, trưởng tràng nổi tiếng giỏi
nhất trong hàng đệ tử song đấu với tôi là đệ tử nhỏ nhất và mới nhập
môn. Và chỉ đấu một trận duy nhất? Với tinh thần tôn sư trọng đạo
anh em tôi không dám hỏi gì cả nếu ông thầy không muốn nói ra. Suốt
năm đầu chúng tôi được học về quyền cước, anh em chúng tôi rất cố
gắng tập luyện bộ pháp di hành, nhanh, mạnh và phản ứng nhập tâm qua
cách luyện tập với tám trái bưởi treo chung quanh.
Hai năm
sau, chuyên tập về Côn (Roi) và Siêu Đao. Đến giai đoạn này anh em
tôi phải đi về quê tìm mua cây Tầm Vông (đực) đặc ruột vừa tầm tay
để đem về luyện tập khoảng 20 đến 30 mươi cây cho mỗi năm.
Phương pháp luyện tập để cho bàn tay chịu đựng được sức đàn hồi. Tập
chịu đựng sức dội ngược của ngọn roi giáng thẳng đầu roi cấn xuống
đất, lúc đầu mới tập bàn tay chịu không nổi bị bung sút ra, bàn tay
bị tê thốn đôi khi bị tét da chảy máu dầm dề. Tập chịu đựng với va
chạm mạnh của ngọn roi mà bàn tay vẫn giữ được ngọn roi, lần hồi
không còn bị sút văng ra như lúc mới tập nữa. Chúng tôi lần lần
nhuần nhuyễn hơn lanh lẹ hơn, và luyện tập chiêu thức Tám lượng
chống ngàn cân để đỡ ngọn roi của địch, v.v.
Rồi về sau những
ngọn roi bị đập cấn gãy càng lúc càng nhiều với những lúc tập luyện
song đấu roi, tiếp theo là tập ngọn roi đâm với những trái vú sữa
non hư rụng, anh em tôi gom lại và đem rải trên sân để thực tập ngọn
roi đâm cho chính xác, chúng tôi cố gắng mong sẽ tiến đến đỉnh cao
của võ thuật là tinh thần hợp nhất vì ý tưởng phát sinh ra hành
động.
Thời gian 3 năm lần lượt trôi qua, anh em tôi đã học
xong một bộ võ thuật gồm có Quyền, Cước, Đoản, Trường Côn và Siêu
Đao. Trong thời gian 3 năm, thỉnh thoảng anh Hương trưởng tràng cũng
có đến giúp thầy để chỉ dẫn thêm cho anh em tôi.
Nhưng có một
ngày anh Hương đi chợ Thủ Đức gặp tôi cũng đang đi chợ. Anh Hương và
tôi rất vui mừng anh Hương cùng tôi kéo nhau vào tiệm nước uống cà
phê, sau khi thăm hỏi vài câu, anh Hương nói:
“Có một việc mà
từ lâu tôi muốn hỏi chú nhưng không có dịp”
Tôi hỏi: “Anh
muốn hỏi việc gì vậy?”
Hương nghiêm mặt: “Xin chú cho tôi
biết cái đêm đầu tiên tôi và chú gặp nhau trong ngôi nhà hoang trong
ruộng mía đó, tôi và chú đã đấu với nhau”.
Hương ngưng lại
trầm ngâm như hồi tưởng hình dung lại trận đấu rồi tiếp: “Cho tới
bây giờ tôi vẫn chưa biết khi tôi tấn công chú lúc đó chú đã dùng
chiêu thế gì phản lại mà tôi không thể đỡ được vậy?”
Tôi nhìn
anh Hương trả lời: “Tôi xin nói thật với anh, lúc song đấu với anh
thì tôi mới nhập môn mới có 2 tuần trăng (2 tháng) tôi chưa biết
cũng như chưa hiểu gì về võ nghệ cả, thật sự là tôi chưa thuộc lòng
đường thảo nữa đó anh.”
Anh Hương ngạc nhiên trợn tròn đôi
mắt: “Chú nói sao? Chú nói thiệt chứ?”.
Tôi gật nhẹ đầu và
nói: “Đêm đó khi nghe thầy kêu tên tôi ra đấu với anh, tôi bấn loạn
vì tôi được biết anh là trưởng tràng, là người giỏi nhất trong hàng
đệ tử của thầy. Anh cũng đã thấy tôi không tránh né gì được hết nên
đã bị anh đánh trúng mặt hai lần...”.
Anh Hương ngắt lời tôi
với vẻ ẩn ức: “Nhưng tôi bị chú phản lại một cú đá, chẳng những là
một mà lại tới hai lần. Thật tôi không thể nào tưởng tượng nổi...”
Tôi nói: “Thật tôi cũng không hiểu lúc đó tôi phản ứng ra làm
sao đó anh. Tôi xin anh cũng đừng để tâm mà buồn tôi.”
Anh
Hương giật mình vì biết anh nóng nảy đã gay gắt với tôi, anh xin lỗi
tôi rồi yên lặng suy nghĩ. Bỗng anh mỉm cười như tỉnh ngộ anh ôm vai
tôi rồi nói: “Chú An à! Tụi mình thì không biết nhưng thầy mình biết
và có lẽ trận đấu đó là để thầy xác định nhận xét của thầy về khả
năng của chú đó!”
Anh Hương cười rồi tiếp: “Xin chúc mừng cho
chú!”
Lúc đó tôi mới chợt nghĩ ra lời nói của anh trưởng
tràng về việc làm của thầy trong đêm đấu võ!
Anh Hương đã vào
quân ngũ và kể từ đó chúng tôi không còn gặp lại nữa vì “Cổ lai
chinh chiến kỷ nhân hồi?”.
Trong suốt thời gian 3 năm học võ,
chúng tôi được võ sư Đại dạy phần lý thuyết trong những giờ nghỉ
giải lao về chiến thuật, chiến lược, địa hình và giải thích phân thế
các đòn trong Đường Thảo Quyền, Cước, Côn và Siêu Đao một cách khéo
léo tiềm ẩn qua các mẫu chuyện, qua các trận trao đổi võ thuật của
chính ông và thầy của ông với các bậc võ sư danh tiếng thời bấy giờ
ở khắp nơi từ các tỉnh miền Đông cho đến sáu tỉnh miền Tây Hậu
Giang. Nhưng vì lúc đó tôi còn nhỏ quá nên không thấu hiểu được ẩn ý
của ông Cậu tôi (mãi cho đến khi tôi được huấn luyện thêm về môn
Thái Cực Đạo của Đại Hàn Tae Kwon Do tại võ đường khối Cận Vệ phủ
Tổng Thống tôi mới hiểu được thâm ý của ông thầy.)
Những
điểm đặc biệt riêng của môn phái Tân Khánh Bà Trà như sau:
• Chỉ sử dụng duy nhất một thế “ĐINH” tấn. Khi sử dụng sẽ
biến đổi “Lặn, Mọc” tùy theo tiến hay thối.
• Môn Côn
(Roi) và Siêu đao đều dùng thế đỡ “Tám lượng chống ngàn
cân”.
• Thế tấn công “Cương mãnh” xuyên tâm mục tiêu
(không bị hạn chế trong thế tấn)
• Ngọn Côn là căn bản
chính của binh khí (18 môn binh khí). Có lẽ vì bị cấm học
võ và dùng binh khí bằng sắt cho nên các võ sư ngày xưa đã
tập trung vào ngọn roi và quyền cước để dễ qua mắt bọn
điềm chỉ?
• Tùy theo khả năng thiên phú, người học võ
Tân Khánh có thể biến tất cả những vật có trong tay đều
trở thành binh khí.
Mộng ước trở thành Người Nhái
Hoàn cảnh khó khăn mồ côi cha và nghèo khổ của gia đình, lúc đó
tôi thì còn quá nhỏ mà lại tứ cố vô thân chẳng có ai hướng dẫn và
giúp đỡ, tôi phải tự mình tìm cách để vươn lên. Sau khi đã học võ
thuật, mộng ước sau này được trở thành Người Nhái của tôi cứ lớn lần
theo năm tháng. Cho đến năm 1956. Tôi suy nghĩ nếu muốn hoàn thành
tâm nguyện thì phải tự tạo điều kiện cho mình, vì Người Nhái là phải
biết bơi lội thật giỏi, phải có sức khỏe dẻo dai và phải chiu đựng
nhiều thử thách gian khổ và nhất là phải kiên nhẫn trì chí, v.v. Tôi
quyết định theo đường hướng của mình vạch ra. Tôi xin vào hội đoàn
Bơi Lội Thanh Long tại Chi Thanh Niên Quận Thủ Đức. Nhưng tôi bị từ
chối vì tôi không có người giới thiệu, mặc dầu có người biết tôi!
Chỉ một bước đầu mà đã có khó khăn. Nhưng tôi đã tự nói với mình dầu
cho trở ngại cỡ nào tôi cũng phải tự tạo điều kiện để đạt cho được
mục đích. Tôi đến hồ bơi Cộng Hòa gặp ông chủ hồ bơi để đóng tiền
hàng tháng và xin ông vui lòng giúp đỡ cho tôi được vào hồ bơi lội
lúc 5 giờ sáng, vì hồ bơi đến 8 giờ sáng mới mở cửa. Ông chủ hồ bơi
thấy tôi ham thích bơi lội nên cũng đồng ý. Tôi bắt đầu tự đặt
chương trình tập luyện thử xem mình có thể vượt qua được hay không?
Bắt đầu:
Ngày Thứ Hai = Bơi 100 thước môn Ếch
Thứ Ba = Bơi
200
Thứ Tư = Bơi 400
Thứ Năm = Bơi 800
Thứ Sáu = Bơi 1600
Thứ Bảy = Bơi 3200
Tôi rất vui mừng vì mình đã cố gắng vượt qua
được, tôi tiếp tục giữ 3200 thước làm chuẩn như là phần khởi động
cho mỗi ngày tập và tập thêm phần tập bơi tay riêng, bơi chân riêng.
Cái khó khăn nhất là tôi không biết mình tập dượt nó có tiến triển
gì không, bởi vì tôi không có ai giúp bấm giờ. Thôi thì đành chịu
vậy! Tôi tập dượt được khoảng 6 tháng thì đến ngày lễ Song Thất năm
1957. Chi Thanh Niên Quận tổ chức tranh giải Vô Địch Bơi Lội Toàn
Quận. Tôi đến ghi tên Độc Lập vì tôi không phải là Hội viên của các
hội đoàn Bơi Lội. Đến ngày tranh giải gồm có các hội đoàn Bơi Lội
Thanh Long, Hội Bơi Lội trường La San, v.v. Các lực sĩ của các Hội
được săn sóc viên thoa dầu nóng cho ấm. Huấn luyện viên dặn dò. Thôi
thì đủ thứ. Còn tôi thì đứng gần đó để chờ một mình vì tôi chẳng có
ai ủng hộ hay cổ võ cho tôi cả. Bắt đầu tranh các môn như bơi Tự Do,
bơi Ngửa và đến phiên tôi bơi Ếch 100 thước. Tôi đã thắng các lực sĩ
của các hội đoàn qua vòng loại và vòng chung kết, khoảng cách gần
nửa mặt hồ giữa tiếng hoan hô cổ võ của các khán giả đi xem. Các
Trưởng Đoàn của các Hội Bơi Lội ngạc nhiên. Sau khi kêu tên tôi nhận
lãnh giải Vô Địch Toàn Quận, các anh Trưởng Đoàn có đến nói chuyện
và mời tôi gia nhập Hội, tôi từ chối vì thấy vào hội đoàn phải đi
họp hành theo điều lệ nội quy, mà tôi không có giờ để nghỉ ngơi vì
còn phải đi làm.
Đơn độc dự tranh giải Vô Địch Bơi Lội toàn
quốc Việt Nam
Tôi tiếp tục thao dượt dự tính sẽ tranh giải
cao hơn cấp Quận là cấp Tỉnh vì đã có thông cáo trên các báo chí, Bộ
Thanh Niên Thể Thao sẽ tổ chức Giải Vô Địch Bơi Lội toàn quốc vào
dịp lễ Quốc Khánh 26-10-1957. Các lực sĩ phải có thành tích là phải
thắng liên tục từ cấp Tỉnh hay cấp đô thành Sài Gòn, rồi tranh giải
cấp Khu (gồm 5 tỉnh) và sau cùng là cấp toàn quốc. Tôi hơi lo lắng
vì biết các lực sĩ của các Hội Bơi Lội của đô thành và Gia Định là
giỏi nhất trong toàn quốc. Nhưng vì muốn thực hiện mộng ước của mình
để sau này có đủ khả năng theo học Người Nhái nên tôi đi ghi tên tại
Ty Thanh Niên đô thành. Lúc ghi tên không phải hội viên của các Hội
Bơi Lội, ông thư ký đã gạn hỏi tôi mấy lần vì ông ta lấy làm lạ có
lẽ ông nghĩ: Ở đâu lại có thằng nhỏ lạ này không biết khả năng tới
đâu mà dám ra tranh giải với các lực sĩ nổi tiếng của đô thành?
Nhưng ông cũng cho tôi ghi tên độc lập. Đáng lẽ tôi phải ghi tên ở
Ty Thanh Niên Gia Định nhưng vì tôi không biết Ty Thanh Niên Gia
Định ở đâu, mà chỉ biết có Ty Thanh Niên đô thành ở đường Hiền Vương
(vì tôi là một chú nhỏ nhà quê mà!).
Tôi càng cố sức tập dượt
nhiều hơn vì biết mình sẽ gặp nhiều khó khăn hơn với các lực sĩ có
kỹ thuật và thành tích cao, có huấn luyện viên nhiều kinh nghiệm chỉ
dẫn. Nhưng với lòng hăng say quyết thắng tôi muốn được trực diện
tranh tài.
Đến ngày tranh, tôi phải thức dậy lúc 5 giờ sáng,
điểm tâm một chén cơm nguội sơ sài rồi ra chợ Thủ Đức đón xe đò đi
xuống bến xe An Đông Chợ Lớn, gần Hồ Bơi đô thành, tôi thay đồ bơi
lội xong đi lên thành hồ bơi. Xung quanh hồ đã đông khán giả và quan
khách. Tôi nhìn mặt hồ bơi mà lo lắng vì là lần đầu tiên tôi mới tới
đây. Hồ bơi này khác với hồ bơi mà tôi thường tập dượt, vách thành
chỗ trở đầu rất cao, tôi chưa biết khi trở đầu phải làm thế nào? Loa
phóng thanh của ban giám khảo lần lượt kêu tên các lực sĩ tranh tài
từng bộ môn và ban giám khảo tuyên bố sẽ áp dụng luật thi của Quốc
Tế. Riêng về môn tranh bơi Ếch, các lực sĩ khi lội đến bờ hồ, 2 tay
phải chạm thành hồ, nếu người nào chỉ chạm thành hồ 1 tay sẽ bị loại
vì không đúng luật. Khi chạm thành hồ rồi thì phải xoay người lại
đầu phải thẳng hướng đàng trước rồi mới lội đi, và cấm không được
nhào ngửa lại khi tay chạm thành hồ. Chỉ được bơi một đạp chân và
một quạt tay dưới mặt nước mà thôi, nếu lực sĩ nào vi phạm sẽ bị
loại.
Ngày hôm nay chỉ tranh vòng loại vì lực sĩ quá đông.
Mỗi lần lội là 8 người, ban giám khảo chỉ chọn 2 người về nhất và
nhì được vào tranh chung kết trong tuần lễ sau. Tôi suy tính, vì
chưa biết hết luật lệ và hồ bơi lạ nên tôi quyết định sẽ cố gắng lội
về hạng nhì trong vòng loại này để được tuyển vào tranh chung kết
mới quan trọng. Ban giám khảo cũng là các huấn luyện viên của các
Hội Bơi lội, nên khi đến môn Ếch, ban giám khảo thấy chỉ có tên tôi
là độc lập nên họ sắp lực sĩ giỏi lội vòng đầu với tôi để họ xem khả
năng của tôi. Vì tôi đã có chủ ý nên chỉ lội thật đúng luật và về
nhì, thua lực sĩ về nhất tới nửa mặt hồ. Tôi xem toán lực sĩ lội
vòng sau và tôi đã biết cách trở mình. Tôi được tuyển vào vòng chung
kết của giải Vô Địch đô thành trong cuối tuần lễ tới. Tôi trở về hồ
bơi lo tập lại cách trở mình cho nhuần nhã để chuẩn bị tranh vòng
chung kết. Ngày tranh vòng chung kết, các đấu thủ của tôi họ không
còn để ý đến tôi nữa, vì họ thấy tôi thua đến nửa mặt hồ quá xa
trong vòng loại, nên nói năng rất vui vẻ. Tiếng còi hiệu của trọng
tài vừa ré lên, tôi phóng mình xuống nước bơi thật nhanh vì tôi đã
tập nhuần nhã cách trở mình khi đến bờ hồ. Đấu thủ đã thắng tôi
trong vòng loại bất ngờ khi tôi bơi vượt qua mặt, anh ta cố hết sức
theo tôi đến mặt hồ thứ 3 thì anh đã đuối sức. Tôi đã về nhất ở mặt
hồ thứ 4, bỏ anh về nhì khoảng cách gần nửa mặt hồ.... Với niềm vui
cảm xúc khi đoạt giải Vô Địch cấp đô thành, nhưng đường đi vẫn còn
nhiều chông gai vất vả với 2 chặng tranh tài càng lúc càng khó khăn.
Tôi còn phải tiến lên, còn phải cố gắng thật nhiều mới mong đạt
thành.
Cái trở ngại mà tôi gặp phải là đơn độc một mình,
không ai chỉ bảo, hoặc bấm giờ khi tập luyện. Tôi không biết được kỷ
lục của mình hàng ngày có tiến triển gì không? Ngoài giờ tập dượt
ra, tôi còn phải lo nghỉ ngơi để đủ sức làm việc suốt đêm nơi quán
cà phê (vì tôi muốn có giờ để tập dượt nên xin đổi việc làm về đêm.)
Nhiều khi tôi tự mỉm cười một mình, vì các lực sĩ khác họ có đủ
phương tiện cơm áo bạc tiền nên mọi thứ cần thiết họ đều có, họ
tranh giải Vô Địch để hãnh diện với bạn bè v.v. Còn tôi nghèo nàn,
mọi thứ đều không. Tôi chỉ có một ý chí kiên cường và sự chịu đựng
gian khổ. Các lực sĩ khác, họ tập luyện có một thì tôi phải tập
luyện cực khổ mấy lần hơn. Nhưng đó lại là ý muốn của tôi tự tìm
cách để thắng mình. Lúc nào tôi cũng tự an ủi lấy mình “nếu ta chịu
đựng được thì mới mong có ngày hoàn thành lý tưởng của mình mà đã
nhiều tháng nhiều năm mong đợi...”
Cách hai tuần lễ sau là
ngày tranh Vô Địch cấp Khu tại hồ bơi Chi Lăng Gia Định gồm có 5
tỉnh miền Đông. Các tay vô địch của các Tỉnh sẽ về đây tranh tài.
Các lực sĩ của đô thành cho tôi biết tôi sẽ tranh với lực sĩ Nguyễn
Phú Đức, vô địch tỉnh Gia Định, thành tích rất cao, kỷ lục vô địch
100 thước Ếch là 1 phút 27 giây. Còn tôi thành tích vô địch đô thành
là 1 phút 32 giây. Tôi biết sẽ gặp những địch thủ rất khó thắng nổi,
nên tôi phải tập luyện nhiều giờ hơn. Và qua 2 tuần lễ khổ công
luyện tập, tôi cảm thấy có tiến bộ nhưng cũng không dám chắc.
Đến ngày đi tranh, tôi đến hồ bơi Chi Lăng cũng là lần đầu tiên
tôi biết hồ bơi này. Thấy hồ bơi này lại khác với các hồ bơi đô
thành, hai đầu hồ bơi để trở mình lại có một khoảng trống, vách hồ
bơi sát với mặt nước, tôi không biết phải chạm tay bằng cách nào cho
đúng? Tôi nghĩ là phải áp dụng lại chiến thuật cũ, là phải chịu thua
vòng loại trước, chỉ cần được chọn vào vòng chung kết, để tôi xem
lại cách trở mình của các lực sĩ khác và rút kinh nghiệm. Tôi nghi
ngờ ở nơi đây ban giám khảo cũng sẽ cho tôi bơi tranh với anh Nguyễn
Phú Đức vì tôi là lực sĩ độc lập, và ban giám khảo sẽ sắp đặt cho
tôi và anh Nguyễn Phú Đức tranh vòng loại đầu để họ có dịp xác định
khả năng của tôi. Nếu tôi có thể thắng Nguyễn Phú Đức trong vòng
loại thì họ sẽ chỉ bảo cho Nguyễn Phú Đức biết những ưu và khuyết
điểm của tôi để Nguyễn Phú Đức có thể khai thác mà thắng tôi.... Đến
giờ tranh, quả thật như tôi đoán, anh Nguyễn Phú Đức và tôi được sắp
xếp gần nhau để tranh vòng loại đầu. Kết quả là Nguyễn Phú Đức thắng
tôi khoảng nửa mặt hồ trong vòng loại, tôi xem vòng loại kế các đấu
thủ bơi tranh, và tôi đã nắm vững cách chạm tay vào mặt hồ rồi! Ban
giám khảo tuyên bố kết quả cuộc thi vòng loại xong, các lực sĩ ra về
tuần sau sẽ tranh chung kết giải Vô Địch cấp Khu. Trên đường về, tôi
nghĩ cách phải tập như thế nào để có thể đoạt giải. Nguyễn Phú Đức
anh được sự huấn luyện theo phương pháp và kỹ thuật bơi lội mới
nhanh hơn và ít mất sức hơn, còn lối bơi của tôi đã quá lỗi thời
rồi, vì tôi không có khả năng và phương tiện để học hỏi, chỉ bắt
chước theo cách lội của các phim ảnh đã quá xưa. Nhưng bây giờ không
có thời giờ để mình sửa đổi kịp nữa! Thôi thì đành cố đem hết sức
mình để tranh lần này vậy.
Đến ngày tranh vô địch vòng chung
kết cấp Khu, tôi đến hồ Chi Lăng với chiếc khăn tắm, đã thấy ban tổ
chức trưng bày trên bàn các chiếc Cúp Vô địch cấp Khu, chiếu sáng
chói lấp lánh dưới ánh sáng của mặt trời. Anh Nguyễn Phú Đức đang
khoe với các bạn của anh: Chiếc cúp này một chút nữa tao sẽ lãnh!
Khi anh quay đầu lại thấy tôi đang đứng chấp tay sau lưng. Anh hơi
ngượng cúi đầu chào tôi, tôi cũng cúi đầu chào lại, tôi thầm nghĩ
anh Nguyễn Phú Đức nói như vậy cũng đúng, vì anh đã thắng tôi trong
vòng loại gần nửa mặt hồ rồi nên không còn e dè gì nữa!
Lần
lượt các môn bơi đã tranh, bây giờ đến môn 100 thước Ếch giữa tôi và
anh Đức là gay cấn, vì là hai tay vô địch của 2 vùng nổi tiếng trong
toàn quốc là Sài Gòn và Gia Định. Tất cả các ông trong ban giám khảo
đều đứng dậy để cổ võ cho anh Nguyễn Phú Đức. Lượt tranh này có 4 vô
địch của vòng loại, tôi và Đức được sắp sát đường dây để dễ dàng
theo dõi. Sau tiếng còi hiệu, tôi và Đức phóng mình xuống nước, Đức
bơi theo lối mới một đạp chân dưới nước, một quạt tay khi nổi lên
như Kình Ngư vượt sóng ào ạt, còn tôi thì bơi theo kiểu xưa, chân và
tay cùng quạt một lúc phải chờ cho bớt trớn lướt mới ngóc đầu lên
thở nên nhìn giống như chiếc tàu lặn, không động sóng... anh Đức và
tôi đều đem hết sức ra tranh, vì Đức ỷ y nên khi tôi bơi vượt qua
Đức, Đức vội vã rượt theo tôi thì đã muộn rồi. Khi về đến điểm cuối,
tôi cũng chỉ hơn anh Đức một cái vói tay mà thôi. Đức và tôi đều lả
người, ngâm mình dưới nước để lấy lại sức. Nhưng khi ban giám khảo
tuyên bố kết quả lại là Nguyễn Phú Đức về nhất còn Lê Đình An về
nhì? Bỗng có tiếng phản đối Ban Trọng Tài và Giám Khảo là thiên vị,
tiếng la ó của khán giả vang lên: “Anh bên này thắng! Anh bên này
thắng!” khán giả chỉ tay vào tôi. Lúc đó có mấy anh mặc quân phục đi
đến bàn của ban giám khảo phân trần và yêu cầu ban giám khảo phải
chấm điểm cho công bằng. Sau vài phút bàn thảo, ban giám khảo tuyên
bố xin lỗi khán giả vì có sự lầm lẫn của đồng hồ bấm giờ, và xin
tuyên bố lại Lê Đình An về nhất với số giờ 1 phút 21 giây 5/10 sao.
Nguyễn Phú Đức về nhì với số giờ 1 phút 22 giây....
Sau khi
lãnh giải Vô Địch bơi lội với chiếc cúp danh dự, tôi nhìn về phía
khán giả cúi đầu chào với ánh mắt biết ơn các anh quân nhân đã giúp
tôi có được danh dự này, khi tôi đi ra ngoài các anh quân nhân bước
đến vỗ vai tôi và khen ngợi. Tôi ngỏ lời cám ơn các anh. Khi ra về
lòng tôi cảm thấy hơi buồn. Các ông giám khảo đã vì tình riêng mà
làm mất lẽ công bằng. Có lẽ các ông biết tôi đi dự tranh mà không có
Trưởng Đoàn đại diện và cũng không có bạn bè hay người thân nào theo
giúp đỡ nên mới xử thiên vị ép tôi như vậy!
Chỉ còn một bước
nữa là đến tột đỉnh danh dự của ngành bơi lội là vô địch toàn quốc
mà tất cả các lực sĩ đấu thủ đều ao ước. Với một tháng tập dượt thêm
mới đến ngày tranh, tôi cảm thấy phấn chấn mặc dầu rất khổ cực.
Hôm nay là buổi tranh tài của các vô địch khắp nước từ Bến Hải
đến Cà Mau về đây để dự thi. Bắt đầu ban trọng tài và giám khảo giới
thiệu thành phần quan khách và các mạnh thường quân bảo trợ giải
thưởng cho cuộc tranh Vô Địch Bơi Lội toàn quốc đến tham dự. Lần này
ban tổ chức tuyên bố lực sĩ các môn bơi phải tranh vòng loại và vòng
chung kết cùng một ngày, vì lý do lực sĩ ở các nơi về quá đông, cho
nên Ban Tổ chức không thể cung ứng nơi ăn chốn ở đầy đủ, nên phải tổ
chức rút ngắn thời gian lại! Tôi suy tính khi tranh vòng loại tôi
phải về nhì như 2 lần trước để dưỡng sức cho vòng chung kết. Sự việc
đã xảy ra đúng như dự tính của tôi, sau khi qua vòng loại và thắng
vòng chung kết bộ môn lội Ếch 100 thước, với thành tích là 1 phút 16
giây.
Buổi lễ phát giải thưởng Vô Địch Bơi Lội toàn quốc
1957,
do Ông Bộ Trưởng Thanh Niên Thể Thao Trần Chánh Thành chủ
tọa
tại sân Vận Động Phan Đình Phùng.
Các Lực sĩ Vô Địch gồm
có các anh
Phan Hữu Dõng, Nguyễn Văn Phân, Trương Kế Nhơn, Dương
Văn An và tôi Lê Đình An
Tham gia Phong Trào Lực sĩ Thẩm Mỹ và Cử Tạ Việt Nam
Sau khi tôi đã chiếm giải vô địch bơi lội toàn quốc Việt Nam, tôi thực hành dự tính kế tiếp là phải tập cho có sức mạnh bằng cách tham gia Phong Trào Thể Dục Thẩm Mỹ và Cử Tạ Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Thành Nhơn sáng lập. Giáo sư Nguyễn Thành Nhơn là anh ruột và cũng là huấn luyện viên của lực sĩ Nguyễn Công Án khi còn du học tai Pháp. Lực sĩ Nguyễn Công Án đã từng chiếm giải Lực sĩ Đẹp Nhất Thế Giới vào năm 1955 và 1957. Tôi bắt đầu tập tạ năm 1958. Mỗi ngày tôi phải đạp xe đường dài khoảng 14 cây số từ Thủ Đức xuống phòng tập Trung Ương tại số 203 đường Võ Tánh Phú Nhuận, để được Giáo sư Nguyễn Thành Nhơn huấn luyện phương pháp tập tạ. Sau 2 năm tập tạ, tôi tốt nghiệp khóa huấn luyện viên Thể Dục Thẩm Mỹ, phụ trách Huấn Luyện phòng tập tại Trung Ương Phong Trào Thể Dục Thẫm Mỹ, buổi sáng từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa....
Buổi Thi Lực sĩ Đẹp (Thẩm Mỹ) 1961 tại Ty Thanh Niên Đô Thành.
Góc đường Hai Bà Trưng và Hồng Thập Tự, Sài Gòn. Là lần cuối cùng.
Vì sau đó Bà Cố vấn Ngô Đình Nhu đã cấm vì cho là “Công xúc tu
sĩ”.
Tôi tham dự khóa Huấn Luyện Săn Bắn Cá Dưới Biển Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Thành Nhơn huấn luyện và tham gia tranh giải Săn Bắn cá năm 1960 (sau này khi vào Hải Quân, tôi tranh giải săn bắn cá cho Đoàn Hải Quân, đã chiếm ba giải vô địch 1961, 62 và 1965).
Giáo Sư Nguyễn Thành Nhơn Chủ Tịch Tổng Cuộc
Săn Bắn Dưới Biển VN và
Đội Hải Quân đoạt giải Vô
Địch.196-1962 và 1965.
Nhìn lại đoạn đường mà tôi đã cố
gắng, kiên nhẫn vượt qua không biết bao nhiêu là trở ngại, tôi nghĩ
đã có nhiều hy vọng để đạt được điều mơ ước của mình!
Năm
1961, lại xảy ra một việc rất khó lựa chọn là vì tôi đã đến tuổi
động viên. Tôi rất mong muốn tình nguyện vào binh chủng Hải Quân,
nhưng vào Khóa Sĩ Quan thì tôi không đủ điều kiện về bằng cấp. Vì
hoàn cảnh của gia đình, nên việc học của tôi không liên tục, tôi chỉ
học được tới Đệ Tứ Trung Học mà thôi.
Hai người bạn thân là
Nguyễn Văn Định, thư ký của phòng tập Trung Ương và Đỗ Cao Luận em
ruột của Đại Tướng Đỗ Cao Trí, hai anh rủ tôi cùng ghi tên nhập khóa
14 Sĩ Quan Bảo An, vì điều kiện chỉ cần Chứng Chỉ Đệ Tứ Trung Học.
Tôi suy tính mãi hơn một tháng đã qua, hai bạn tôi đã nộp đơn rồi mà
tôi vẫn chưa quyết định. Vì giấc mộng trở thành Người Nhái tôi đã ôm
ấp, và tôi đã cố công tạo dựng cho mình những thành tích như đã nêu
phần trên, bây giờ mà đổi hướng đi vào binh chủng khác. Thì tôi
không đành lòng. Cuối cùng tôi quyết định đi theo con đường mà mình
đã chọn từ hồi còn thơ ấu là tình nguyện đầu quân vào binh chủng Hải
Quân khóa Tân Binh Thủy Thủ để sau này hy vọng được tuyển chọn về
học khóa Người Nhái.
Tôi ghi tên tình nguyện đầu quân nơi
phòng Tuyển Mộ tại đường Thi Sách ngày 4-10-1961 khóa 26 Thủy Thủ
Chuyên Nghiệp. BTL/HQ/Phòng Quân Huấn (PQH) gởi khóa sinh Tân Binh
lên TTHL/Quang Trung để học căn bản quân sự. Sau khi mãn khóa căn
bản quân sự, BTL/HQ/PQH gởi chúng tôi xuống các chiến hạm để thực
tập về hải nghiệp.
Thực tập hải nghiệp trên chiến hạm HQ 225 “Nõ Thần”
Sau đó chúng tôi được đưa ra TTHL/HQ/Nha Trang
nhập khóa chuyên nghiệp. Sau 4 tháng huấn luyện, tôi mãn khóa với
bằng chuyên nghiệp Vận Chuyển. Khóa 26 được tàu đưa về tạm trú tại
Trại Bạch Đằng 2 để chờ lệnh thuyên chuyển ra đơn vị. Vài ngày sau
tôi nhận lệnh thuyên chuyển về Bộ Chỉ Huy Hải Trấn, Liên Đội Người
Nhái.
Tôi rất vui mừng vì đó là kết quả của bao nhiêu năm
trải qua biết bao là khó khăn vất vả, để tự tạo cho mình có được một
quá trình đạt thành ước mơ từ khi tôi còn nhỏ mà BTL/HQ/Phòng Nhân
Viên đã nhìn thấy qua hồ sơ cá nhân của tôi, và mặc dầu đây chỉ là
bước đầu.
Nhưng có một việc mà tôi không biết và cũng
không ngờ là từ hồi nhỏ, khi tôi thấy được tấm hình một
tổ Người Nhái trên tờ báo Pháp vào năm 1950, đã làm cho tôi
say mê... mãi cho đến bây giờ Binh Chủng Hải Quân vẫn chưa có
Quyết Định thành lập đơn vị Người Nhái.
Vì theo tài
liệu thành lập Hải Quân VNCH. Nếu tính thời gian năm 1950
lúc đó thì còn Hải Quân của Pháp, mãi cho đến ngày 20 tháng
8 năm 1955 Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm mới ban hành Nghị Định thành
lập Hải Quân VNCH.
Tôi trình diện Trung Úy Lâm Nhật Ninh,
Liên Đội Trưởng LĐNN. Trung Úy Ninh cho biết hiện đang huấn luyện 2
khóa Biệt Hải tại Đà Nẵng, còn LĐNN thì còn đang chờ Bộ Tổng Tham
Mưu QLVNCH chấp thuận cho thành lập. Trung Úy Ninh giao việc bí thư
LĐNN cho tôi tạm giữ. Vài ngày sau Trung Úy Ninh đem một số trợ huấn
cụ ra Đà Nẵng để tiếp tục huấn luyện khóa 2 Biệt Hải.
Năm
1963, sau khi huấn luyện khóa 2 Biệt Hải xong, toàn ban huấn luyện
trở về Sài Gòn.
Trong thời gian này tôi đã nhận được văn thư
của BTTM/QLVNCH, chấp thuận cho Bộ Tư Lệnh Hải Quân thành lập LĐNN,
tôi trình cho Trung Úy tất cả các văn thư tôi đã nhận. Trung Úy LĐT
duyệt lại hết văn thư và giao lại cho tôi và bảo tôi xem lại Bản
Điều Lệ và Nội Quy thành lập LĐNN để biết và lưu vào hồ sơ.
Sau khi tôi xem xong tôi cảm thấy có một vài điểm không được công
bằng cho Người Nhái.
(Trong điều lệ ghi:...
- Sau khi
đậu Khóa Người Nhái, hàng năm, mỗi 6 tháng định kỳ đều phải khám sức
khỏe và trắc nghiệm lại thể năng. Nếu nhân viên không còn đủ tiêu
chuẩn NN thì sẽ trả về Hải Quân....
- Nhân viên NN thi hành
công tác nếu chẳng may hy sinh, mất tích hay bị thương tật thì hồ sơ
sẽ đưa trả về Ban Xã Hội Hải Quân giải quyết như các quân nhân
HQ mà không được hưởng đặc ân chi cả....
Tôi nghĩ những
điểm này không công bằng vì NN đã hy sinh mạng sống trong những công
tác hiểm nghèo mà khi bị thương tật hay mất tích v.v. gia đình của
NN không được hưởng sự đền bù xứng đáng, không khác gì vắt chanh bỏ
vỏ.)
Hôm sau tôi đem những điểm trong Bản Điều Lệ và Nội Quy
ra bàn thảo với Trung Úy Lâm Nhật Ninh. Trung Úy nói những điểm này
là do Bộ TTM đã sửa lại. Tôi đề nghị Trung Úy làm văn thư trình lên
BTL/ HQ can thiệp với Bộ TTM để giúp cho quân nhân Người Nhái khỏi
bị thiệt thòi, vì những điểm đó bạc đãi nhân viên Người Nhái....
Trung Úy Liên Đội Trưởng lắc đầu và cho tôi biết rất khó khăn lâu
nay bây giờ mới được Bộ TTM chấp thuận cho thành lập đơn vị Người
Nhái, bây giờ mình không thể xin gì được nữa. Tôi đành làm thinh mà
lòng buồn vời vợi....
Sau khi được chấp thuận cho thành lập
LĐNN, Bộ TLHQ chỉ thị Trung Úy LĐT mở khóa 1 huấn luyện Người Nhái
tại TTHL/HQ Nha Trang. Tất cả Ban HLNN lo chuẩn bị trợ huấn cụ. Còn
tôi thì quyết định không xin ghi tên nhập học, lại làm đơn xin trở
về Hải Quân, vì tôi thất vọng bởi các điều khoản ghi trong Nội Quy.
Trung Úy LĐT không chịu ký cho tôi về Hải Quân mà khuyên tôi, nếu
tôi không muốn học thì cứ ở lại đây để giúp cho Ban HL, vì Trung Úy
LĐT biết tôi hiểu biết nhiều về kỹ thuật Người Nhái. Sau khi suy
nghĩ tôi đồng ý làm bí thư cho đơn vị phụ giúp cho ban huấn luyện
khóa 1 NN tại Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang.
Sau
khi mãn khóa huấn luyện, tất cả di chuyển về Sài Gòn. Vài tháng sau,
Bộ Tư Lệnh Hải Quân thi hành chỉ thị của Bộ TTM. Trung Úy Liên Đội
Trưởng và đa số NN khóa 1 tình nguyện tăng phái cho Sở Phòng vệ
Duyên Hải, và di chuyển ra Đà Nẵng.
Trung úy Lâm Nhật Ninh
bàn giao chức vụ Liên Đội Trưởng lại cho HQ Trung Úy Phan Tấn Hưng.
Vài tuần sau BTL/HQ phổ biến văn thư đến tất cả các đơn vị Hải Quân
để tuyển mộ quân nhân Hải Quân tình nguyện theo học khóa 2 Người
Nhái. Ban huấn luyện NN lo sắp đặt chương trình và lãnh trợ huấn cụ.
Trung úy Phan Tấn Hưng sau khi nhận bàn giao chức vụ Liên Đội
Trưởng, xem lại hồ sơ nhân viên phục vụ tại Đơn vị NN, Tr/Úy Hưng
gọi tôi vào văn phòng và hỏi lý do tại sao tôi đủ điều kiện học khóa
NN mà lại không học? Tôi trình bày vì có vài điều khoản trong Nội
Quy và Điều Lệ không công bằng cho NN nên tôi không muốn học. Sau
khi tôi chỉ các điều khoản đó, Tr/Úy Hưng nói để Tr/Úy xem lại. Vài
ngày sau gọi tôi vào văn phòng Tr/Úy Hưng cho tôi biết là đồng ý với
tôi vì các điều khoản đó thiệt thòi và bất công cho NN. Tr/Úy Hưng
khuyên tôi nên học khóa 2 NN và hứa sẽ làm văn thư xin điều chỉnh
lại cho đơn vị sau khi mãn khóa. Sau khi suy nghĩ tôi ghi tên theo
học khóa 2 NN.
Khóa sinh tình nguyện theo học NN từ các đơn
vị HQ lần lượt về trình diện và được đưa đi khám sức khỏe, và phải
qua phần trắc nghiệm thể năng rất gay go mệt nhọc trong vòng 1 tuần
lễ để thử sức chịu đựng của khóa sinh.
Trắc nghiệm bơi lội:
Thứ hai, bơi 200 thước tính giờ; đến ngày thứ bảy, phải bơi được
1,000 thước, tính giờ.
Trắc nghiệm chạy bộ: Thứ hai, chạy 1
giờ; đến ngày thứ bảy, khóa sinh phải chạy được 4 giờ liên tục, vượt
qua các chướng ngại vật, vượt đường cát, chạy nhanh, đường quanh co
v.v.
Tất cả khóa sinh về trình diện hơn 400 người, sau 2 tuần
lễ trắc nghiệm chỉ còn lại là 120 người. Tất cả khóa sinh và Ban HL
di chuyển ra TTHL/HQ Nha Trang vào mùa Đông năm 1964, để nhập khóa.
Tất cả khóa sinh chúng tôi đều hồi hộp lẫn lo âu. Chương trình HL
rất nặng nhọc cực khổ, đòi hỏi khóa sinh phải dẻo dai chịu đựng,
không được bỏ bất cứ 1 giờ học nào, nếu khóa sinh nào bỏ học vì lý
do bệnh thì sẽ bị trừ điểm, và cũng là lý do duy nhất dành cho khóa
sinh. Ngoài lý do bệnh khóa sinh nghỉ sẽ bị loại khỏi khóa và được
đưa trả về đơn vị gốc.
KHÓA HUẤN LUYỆN NN BẮT ĐẦU.
Ngày đầu tiên sau phần thể dục, Thượng sĩ 1 Đào Ngọc Kỳ, Trưởng ban
HL giới thiệu chương trình khóa học. Và bắt đầu vào chương trình qua
các môn, thực tập bơi bằng chân nhái với ống thở băng ngang qua
biển, chèo xuồng cao su Zodiac, chạy bộ đường trường, đường cát,
đường sỏi đá và đường núi. Thực tập đột kích, phục kích và phản phục
kích, thực tập xử dụng chất nổ phá hoại v.v. Khóa sinh được HL trong
4 tuần lễ đầu cho đủ sức để bước vào tuần lễ Địa Ngục. “Tuần lễ
Địa Ngục”.. Chỉ nghe qua chúng tôi cũng đã hình dung được sự kham
khổ khó nhọc vô cùng. Nhưng chúng tôi vừa được trang bị với câu
Những gì người khác không làm được, Người Nhái phải làm được.
Thể dục “Người Nhái”
Tuần lễ Địa Ngục của Người Nhái.
Tất
cả các nơi trong khu vực trại của khóa sinh đều được căng những tấm
biểu ngữ màu đen tang tóc với những dòng chữ rất “ân cần” như Mời
các bạn khóa sinh vào thăm tuần lễ Địa Ngục. Nào là Quỷ Môn Quan
đang chờ các bạn. Và Các bạn hãy tranh đấu với bản thân để vượt qua
khổ ải này thì mới lột xác trở thành Người Nhái. Tấm thực đơn nơi
phòng ăn cũng được đổi món hàng ngày với các món ăn toàn là họ hàng
của Người Nhái như: Ếch chiên bơ, Nhái xào lăn, Cóc Tía nấu canh
chua, Nòng nọc lăn bột chiên v.v. Khóa sinh thầm bảo nhau phải hết
sức cố gắng nếu vấp ngã thì coi như mộng ước tan thành mây khói.
Khai mạc: 5 giờ sáng còi tập họp. Trưởng Ban Huấn Luyện giới
thiệu chương trình trong tuần lễ này tất cả khóa sinh đều phải thi
đua tranh thắng với tình đồng đội, mỗi xuồng cao su là một đội. Điều
lệ tranh đua, nếu xuồng nào về áp chót và chót thì phải tự động vào
thế nhận phạt. Và các bạn được ngủ 7 giờ trong một tuần bắt đầu từ
12 giờ đêm sau buổi ăn khuya, các bạn sẽ được huấn luyện viên hướng
dẫn.
Thể dục NN là căn bản cho sức khỏe hàng ngày đều phải
tập luyện, tiếp theo là khóa sinh tranh môn Trò Chơi Thuyền Trên Bãi
Cát. Nghe thì hấp dẫn nhưng không phải vậy. Tất cả các Đội đều đội
trên đầu chiếc xuồng cao su đã sẵn sàng trên lằn mức. Sau tiếng còi
của HLV các đội tranh nhau vượt chướng ngại vật trên đường đua để về
trước nên đã đụng nhau té lăn trên bãi cát nóng. Cố gắng giành nhau
về trước, nhưng vẫn có 2 xuồng về sau, và được HLV cho vào thế 20
cái hít đất với chiếc xuồng cao su trên lưng nặng khoảng 200 ký. Và
cứ tiếp tục hết tranh đua môn này thì lại tiếp theo môn khác. Quần
quật cho đến giờ ăn trưa, khóa sinh có 15 phút để ăn và nghỉ. Chúng
tôi phải ăn thật nhanh để còn lo vệ sinh cá nhân và nằm dưỡng sức
không dám nói chuyện với nhau vì sợ hết giờ. Sau đó lại tiếp tục
tranh đua các môn khác do HLV chỉ dẫn.
Tuần lễ này lại gặp
phải thời tiết mưa bão liên miên (bão Lucy kéo dài suốt tuần lễ Địa
Ngục.) Khi bóng đêm chìm xuống, người dân xóm Chutt thỉnh thoảng lại
thấy qua những lằn sét chớp lên trong cơn mưa, ẩn hiện một đoàn
người như bóng ma, âm thầm lặng lẽ miệt mài trong bóng đêm chịu đựng
gian khổ. Có đêm phải chèo xuồng vượt sóng dưới cơn thịnh nộ của
biển cả. Ngọn sóng cao từ 3 dến 4 thước sầm sập ập vào những chiếc
xuồng đầy nước. Có chiếc lạc tay chèo lái bị sóng đánh bay lên bãi
cát. Các khóa sinh cố đẩy xuồng vượt sóng ra khơi thật không phải là
chuyện dễ dàng. Có chiếc đang vượt ra lại bị sóng đánh lật ngược
chiếc xuồng, một khóa sinh không may bị xuồng đè lên bị trật cả khớp
xương sống, HLV chở vào nhà thương nên đành bỏ cuộc.
Cũng
tuần lễ Địa Ngục này tôi bị trợt chân trong khi vượt đường núi, té
xuống gành đá, tôi chống tay trên san hô ngón tay cái bị tét một
đường dài, đau nhức vô cùng vì trong san hô có chất nhớt tiết ra rất
độc, tôi phải cố chịu đựng ôm ngón tay càng lúc càng sưng lên, tôi
chịu đựng trong 3 giờ vượt núi mới được nghỉ và tự lo săn sóc cho
mình vì đây là tuần lễ Địa ngục mà (cho đến bây giờ ngón tay cái của
tôi vẫn còn vết thẹo xẻ đôi vòng tròn hoa thị, sau khi lành lại đã
biến thành 2 vòng hoa thị.)
Ban đêm thì cũng tranh đua tìm
phương hướng, phục kích, đột kích, phản phục kích. Đến 12 đêm, khóa
sinh được ăn cháo và bắt đầu ngủ, khoảng 15 phút sau HLV thổi còi ra
lệnh: khóa sinh tập họp, quân phục quần đùi áo trận, giày bên phải
boot, bên trái là dép, 2 phút sau tập họp. HLV chờ sẵn ngoài sân đón
các khóa sinh ra trễ và 20 hít đất vào thế. Đoàn người khập khễnh
chạy ra bãi biển trong mưa gió và ngâm mình dưới nước biển lạnh căm
căm. Vài phút sau, chạy lên bờ hú gió kêu mưa vang trong bầu trời
mùa đông lạnh lẽo. Nhận thấy khóa sinh đã đuối sức, HLV dẫn chạy về
trại cho ngủ tiếp. Và cứ như vậy khóa sinh ngủ được 15 phút lại được
đánh thức với lệnh của HLV mà thi hành. Suốt đêm cộng lại ngủ được 1
giờ mà thôi. Vì quá sức chịu đựng nên có một số khóa sinh đã tự động
xin bỏ cuộc.
Các môn huấn luyện trong tuần lễ Địa Ngục như
sau đây:
• Thực tập chất nổ trên bờ, chất nổ dưới nước.
• Phá
hoại trên bờ, phá hoại dưới nước.
• Đột kích, phục kích, phản
phục kích.
• Phòng thủ trên bờ, phòng thủ dưới nước.
• Giết
lính gác, bắt tù binh, giải thoát tù binh.
• Thu thập tin tức
tình báo tác chiến.
• Bơi trên mặt nước, lặn dưới mặt nước ban
ngày và ban đêm.
• Đội xuồng vượt chướng ngại vật.
• Chèo
xuồng vượt sóng, ban ngày và ban đêm.
• Chạy bộ vượt đèo, vượt
núi, chạy bộ đường cát, sình lầy ngày và đêm.
• Thả và vớt bằng
xuồng cao su.
• Thám sát trên bờ, thám sát dưới nước.
• Lặn
sâu, lặn xa, lặn có bình hơi và không có bình hơi.
Mỗi ngày đều
bắt đầu bằng một giờ thể dục Người Nhái và tiếp theo là chạy bộ 30
cây số đường trường, rồi lội 4 hải lý (1 hải lý là 1,852 thước)
1,852 th x 4 hl =7,408 thước. Tất cả vệ sinh thường thức đều hủy bỏ
hết, vừa ăn xong là tiếp theo giờ cận chiến trên bãi cát nóng, gồm
các thế võ Việt Nam, Judo, Jiu Jitsu, Karate, Aikido và
Teakwondo.... Tập luyện những thế võ giết địch không gây tiếng động.
Liên tục như vậy cho đến ngày thứ sáu, chúng tôi đã trải qua khổ
nhục:
• 2 lần bơi từ bãi TTHL/HQ qua Hòn Lớn và trở về điểm Cầu
Đá (khoảng cách 7,450 thước một lần).
• 2 lần đi dây Tử Thần bên
TTHL/Biệt Động Quân.
• 2 lần chèo xuồng cao su quanh Hòn Lớn v.v.
Tất cả khóa sinh chúng tôi đều mệt mỏi dật dờ. Có anh đã ngủ gục
trong lúc chèo xuồng vì đuối sức. Nhưng mọi sự việc rồi cũng trôi
qua.
Hôm nay là ngày cuối cùng của tuần lễ Địa Ngục, khóa
sinh chúng tôi lên tinh thần vì chỉ còn buổi hành xác 4 giờ chạy bộ
là chúng tôi được “mở ngục”. Đúng 5 giờ sáng, tập thể dục xong, khóa
sinh ăn điểm tâm và bắt đầu chạy từ TTHL/HQ dọc theo bãi biển vòng
qua thành phố Nha Trang rồi chạy về Cầu Đá, vòng qua núi Lớn xuống
Đồng Bò và trở về TTHL/HQ đúng 12 giờ trưa là chấm dứt.
Một
khóa sinh gặp rủi ro khi đang chạy, anh bị sụp lỗ trên đường làm anh
bị trật gân chân, đau quá nhưng cũng cố lê lết về đến trại thì đã
quá giờ ấn định nên bị loại, anh ôm đầu tuôn rơi nước mắt.
Chấm dứt tuần lễ Địa Ngục, tất cả khóa sinh đều vui mừng nhưng không
còn sức để reo hò mà tất cả đều nằm lăn ra ngủ vùi. Sau tuần lễ này
cân đo lại mỗi khóa sinh đều sụt mất từ 4 cho đến 5 ký lô. Và nhân
số khóa sinh đã rơi rụng từ đầu khóa là 120 người, đến sau tuần lễ
Địa Ngục chỉ còn lại khoảng 40 người....
Bắt đầu khóa sinh
học qua phần chuyên môn cao cấp tiếp theo như:
• Lặn sâu với bình
hơi thở
• Thực tập đo nước lập Thủy Đạo
• Cập nhật hải
đồ qua các phương pháp Bình Hành và Tác Chiến
• Thực tập chất
nổ TNT, C4, v.v. các phương pháp và công thức khác nhau và các cách
phá hoại để chận đường tiến quân, tạo chướng ngại vật để cản trở
đường di quân của địch bao nhiêu phần trăm v.v.
• Thực tập
Hải bàn và địa bàn của Bộ binh.
• Huấn luyện cận chiến võ
thuật chiến đấu dưới nước v.v.
Thực tập Đột Kích. Ngày và đêm
zzzzzNhảy Trực Thăng không dù.
Hôm nay là ngày đầu tiên thực tập
nhảy không có dù từ trực thăng xuống biển từ ngoài khơi bơi vào bờ
để phá hoại.
Thời tiết biển động cấp 3, cấp 4, sóng cao và
gió thổi mạnh. 8 giờ sáng, 2 chiếc trực thăng của TTHL/KQ đáp xuống
bãi biển trước TTHL/HQ. Chúng tôi đã sẵn sàng, một chiếc chở 6 khóa
sinh bay lên trước để thử tốc độ gió. Khóa sinh Hồ Văn Khếnh được
chỉ định nhảy trước vì anh đã được huấn luyện trong khóa Biệt Hải
tại Đà Nẵng rồi. Trực thăng bay lượn một vòng rồi hạ thấp xuống lần
còn cách mặt nước khoảng 20 thước, anh Khếnh đã đứng trước cửa hông
của trực thăng sẵn sàng chờ khi hạ thấp còn chừng 10 thước thì đúng
độ nhảy. Theo quy luật 30-30 nghĩa là trực thăng bay cách mặt nước
30 feet với tốc độ 30 Knots (30 Miles/giờ hay là 30 dặm/giờ), bỗng
chiếc trực thăng bị hụt gió nên giật mạnh về một bên, anh Khếnh bất
ngờ bị văng ra khỏi trực thăng vì mất thăng bằng chới với rớt xuống
biển chìm luôn, khóa sinh chúng tôi vội nhào xuống biển tìm vớt,
nhưng vì biển động mạnh đã cuốn xác anh ra xa.
Tạm ngưng
chương trình huấn luyện, chúng tôi lo tìm kiếm xác anh Khếnh. Qua
đến ngày thứ ba, toán ca nô đã vớt được xác của anh trôi qua gần tới
Hòn Bãi Miếu. Khi khám nghiệm thi thể, bên hông anh bị gãy hết mấy
xương sườn vì bị đập xuống mặt nước. Tang lễ tiễn đưa anh Khếnh ra
nghĩa trang Khánh Hòa.
Ngày hôm sau chúng tôi bắt đầu thực
tập nhảy trực thăng trở lại. Tiếng trực thăng bay vòng qua xóm Chutt
làm kinh động người dân họ chạy ra xem chúng tôi đang thực tập. Họ
lo sợ xôn xao bàn tán vì thấy tai nạn vừa xảy ra mà sao chúng tôi
còn dám tập? Nhưng cuộc thực tập của chúng tôi ngày hôm đó đã thành
công.
Lần lượt các môn học và thi mãn khóa. Tôi đậu Thủ khoa
của khóa 2NN. Khóa sinh chúng tôi thở phào nhẹ nhỏm. Điểm lại khóa
sinh đậu bằng chỉ còn lại 33 người (gồm 2 SQ và 31 HSQ/ĐV.) Thật là
gian nan!
Ngày lễ mãn khóa được ấn định vào tháng 1/65. Khóa
sinh được nghỉ ngơi một tuần trước khi làm lễ mãn khóa. Trung úy
Hưng giao cho tôi trách nhiệm vẽ Phù Hiệu cho đơn vị.
Tôi
nghĩ tới bức hình vẽ một tổ Người Nhái và trái Thủy lôi, đã làm cho
tôi say mê và đã giúp tôi đạt được ước vọng trở thành Người Nhái như
ngày hôm nay. Tôi vẽ hình trái Thủy Lôi đó vào giữa phù hiệu và màu
đen của trái Thủy Lôi tượng trưng cho sự nguy hiểm, và cũng có ý
nghĩa để tang cho tất cả Người Nhái anh dũng hy sinh vì Tổ Quốc.
BUỔI LỄ MÃN KHÓA 2 NGƯỜI NHÁI tại TTHL/HQ/NT
Hôm
nay16-1-1965, là ngày trọng đại của khóa sinh chúng tôi. 5 giờ sáng
anh em đã có mặt nơi diễn trường, cùng lo xếp đặt vật liệu, dụng cụ
biểu diễn. Nơi khán đài các toán Sinh viên sĩ quan Hải Quân lo chuẩn
bị dàn chào danh dự, và kiểm soát các hàng ghế của quan khách. Đúng
giờ khai mạc, Đại Tướng Nguyễn Khánh Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa đến, Tư Lệnh Hải Quân Đề Đốc Chung Tấn Cang cùng với Hải
Quân Trung Tá Nguyễn Đức Vân Chỉ Huy Trưởng TTHL/HQ, ra tiếp đón
quan khách.
Bắt đầu làm lễ, khóa sinh Thủ khoa bước ra khỏi
hàng quân tiến lên giữa hàng quay mặt về hướng khóa sinh, dõng dạc
hô to: Khóa sinh! Quỳ! Dưới hàng quân Khóa sinh hô to đáp lại:
Xuống! Và tất cả khóa sinh đồng quỳ xuống, Thủ khoa xoay người lại,
hướng về phía quan khách rồi quỳ xuống, đưa tay thẳng về trước, đọc
lời tuyên thệ Trung thành với Tổ Quốc, từng câu một, và khóa sinh
cùng lập lại. Khi dứt lời tuyên thệ, Thủ khoa đứng lên và bước tới 3
bước, đứng nghiêm chào.
Đại Tướng Nguyễn Khánh bước đến trước
Thủ khoa trao bằng Danh Dự rồi trở về khán đài. Thủ khoa xoay trở
lại trước hàng quân, dõng dạc hô to Người Nhái... Đứng. Khóa sinh hô
to đáp lại: Lên! Và kể từ giờ phút đó Khóa sinh đã trở thành Người
Nhái.
Chứng chỉ của HQNN, QLVNCH
Cuộc biểu diễn những kỹ
thuật đặc biệt của Người Nhái
Bắt đầu các cuộc biểu diễn các
môn như: Cận chiến, đột kích, phục kích, đổ quân từ ngoài khơi lội
vào bờ phá các chướng ngại vật, phá hủy các công sự phòng thủ. Rồi
bơi ra khơi so hàng dưới nước rồi tàu chạy đến kéo vớt lên với kỹ
thuật đặc biệt của NN.
Phương pháp thả vớt của NN...
Ảnh của US. Navy Seals.
Tổ NN đổ quân bằng trực thăng để Người Nhái lặn đến mục tiêu phá hủy tàu ngoài khơi, do tôi và NN Nguyễn Đức Nguyên biểu diễn. Sau khi lặn đến đặt chất nổ dưới lườn ghe (tượng trương cho chiếc tàu), tổ của tôi lặn thẳng vào bờ biển và chạy đến trước khán đài. Đứng nghiêm chào thì là đúng giờ khai hỏa, chất nổ C4 đặt dưới lườn ghe phát nổ và chiếc ghe tan tành theo cột nước khổng lồ tung lên không trung.
Ảnh từ trái qua:
Đại Tướng Nguyễn Khánh, Tổng Tư Lệnh QL/VNCH.
Ảnh giữa: Quan
Khách chụp ảnh lưu niệm. Khóa 2 NN
Ảnh Phải: Phó Đề Đốc Chung
Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân.
Sau buổi biểu diễn mãn khóa, Người Nhái chúng tôi được lệnh phải biểu diễn thêm một lần nữa tại Vũng Tàu theo chỉ thị của Đại Tướng để cho Hội Đồng Quân Lực và Nội Các Chánh Phủ xem, vì Đại Tướng cho biết rất thích cuộc biểu diễn của Người Nhái vừa rồi!
Riêng về phần tôi, những mơ ước ngày
còn thơ ấu, nay đã trở thành sự thật. Sự thành công mà tôi đã phải
trả một giá thật đắt, thật gian nan nếu tôi không đủ nghị lực, kiên
nhẫn thì chắc không có được như ngày hôm nay. Và sự thành công này
cũng đầy hiểm nguy trùng trùng điệp điệp cho đời tôi đang mở ra
trước mắt vì nhiệm vụ Người Nhái là phải thi hành công tác đặc biệt
trong nhiều lãnh vực, v.v. Với lòng tự tin Người Nhái chúng tôi qua
câu “Những gì người khác không làm được, Người Nhái phải làm được”
để tự khuyên mình cố gắng nhiều hơn để hoàn thành mọi công tác do
cấp trên giao phó.
HUẤN LUYỆN VIÊN NGƯỜI NHÁI
Năm
1965, Sau khi mãn khóa 2 NN, Liên Đội Người Nhái di chuyển ra căn cứ
Hải Quân Cát Lở Vũng Tàu. Vào cuối năm BTL/HQ gởi văn thư cho LĐNN
mở khóa huấn luyện cho một toán LLĐB gồm 5 người gốc Miên ở Hậu
Giang để thi hành công tác bí mật ở Nam Vang.
Huấn luyện viên
gồm có: Nguyễn Đức Nguyên (Trâu cổ) Nguyễn Văn Cang (Cang Mão) Huỳnh
Ngọc Sâm (Sâm khùng), Nguyễn Văn Đạt (Đạt gồ) và tôi (An trâu nước).
Các khóa sinh ưu tú của LLĐB đã được tuyển chọn gởi đến. Nhưng
sau hơn một tuần huấn luyện các khóa sinh LLĐB đã gởi thư xin đơn vị
cho bỏ khóa học vì không theo nổi. Nhưng vì nhu cầu cần thiết của
công tác nên BTL/LLĐB gởi công điện cho BTL/HQ yêu cầu giảm bớt phần
huấn luyện chỉ cần học 1/3 chương trình huấn luyện mà thôi.
Sau khi mãn khóa, toán LLĐB trở về đơn vị. Và khoảng một năm sau báo
chí loan tin chánh phủ Nam Vang kiện VNCH lên tới Liên Hiệp Quốc lý
do là đã huấn luyện Biệt Kích đưa qua phá hoại Cam Bốt.
Nhân
đây tôi xin lược qua nhiệm vụ huấn luyện viên NN là phải tập luyện
cho các khóa sinh nếm mùi khổ nhọc, nhẫn nại để đi đến thành công.
Vì Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu để sau này tung ra
công tác tại các toán trên 4 Vùng Chiến Thuật, khắp 5 vùng Duyên
Hải.
Nhưng khi nói đến huấn luyện viên Người Nhái thì phải
biết các anh có sức chịu đựng hơn người vì các anh này là thành phần
ưu tú trong các khóa học cũng như công tác và cũng từng trải qua các
trận chiến. Ngoài chương trình huấn luyện chính, các anh còn đem
kinh nghiệm của bản thân để giúp cho các khóa sinh hiểu biết thêm.
Khi huấn luyện nếu các khóa sinh thi hành không đúng lệnh thì
huấn luyện viên cũng tự động VÀO THẾ 20 đến 50 cái hít đất với khóa
sinh, nhiều khi cùng lúc phạt hết khóa sinh này lại đến khóa sinh
khác, khi cộng lại người huấn luyện viên hít đất đến cả ngàn cái
trong buổi huấn luyện. Các môn huấn luyện khác HLV luôn luôn hướng
dẫn và cùng thi hành với khóa sinh chớ không phải chỉ tay năm ngón,
vì thế nên các khóa sinh trong khi thụ huấn đều gọi các huấn luyện
viên là HUNG THẦN. Còn các HLV khi vào khóa thì cũng giống như đang
học thêm một khóa NN.
Mục đích sử dụng hình phạt trong lúc
huấn luyện chính yếu là:
1. Phải TỰ GIÁC khi mình lầm lỗi,
phải tự động phạt mình để tự mình sửa chữa lỗi lầm, phải cẩn trọng
trong mọi công việc, vì khi đi công tác mà lầm lỗi chỉ một lần thôi
thì đã về bên kia thế giới rồi (không có lần thứ hai) như ngành Phá
hoại dưới nước UDT, tháo gỡ chất nổ EOD, v.v.)
2. Phạt hít
đất hay những hình phạt khác đều có tính cách là tạo thêm sức khỏe,
sự chịu đựng dẻo dai và nhẫn nhục cho khóa sinh, nhưng huấn luyện
viên vẫn phải đi đầu! Nếu đem so sánh với các quân trường khác thì
chúng ta sẽ thấy khác biệt, vì các quân trường đều áp dụng hình phạt
kỷ luật, huấn luyện viên hoặc huynh trưởng chỉ ra lệnh cho khóa sinh
hay sinh viên thi hành mà thôi, mục đích chính là tạo cho khóa sinh,
sinh viên sĩ quan sợ kỷ luật mà tuân hành (vì người viết bài đã tốt
nghiệp khóa 5/70 SQĐB Quân Trường Bộ Binh Thủ Đức).
Được trui
rèn trong lò “Luyện thép” của Người Nhái (Vietnam Navy SEALS) nên
khi đi công tác hành quân, Người Nhái cảm thấy những khó khăn gặp
phải đều không bằng trong lúc thụ huấn cho nên họ rất tự tin, và dĩ
nhiên nếu NN có can trường xông pha oanh liệt nơi chiến trường thì
chúng ta phải hiểu rằng huấn luyện viên của Người Nhái còn cao hơn
họ một bậc!
Thủy Lôi (TL Internet)
NN Lê Đình An
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bài-01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13
|
Hình nền: Biển Thái Bình/VN. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by NN Lê Đình An chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, October 29, 2016
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang