Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Trang
Thi-Văn
Chủ đề: Sưu tầm
Tác giả: Văn Nguyên Dưỡng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Thơ
trong văn chương Pháp là tuyệt điểm của nghệ thuật. Nhà thơ
Sully Prudhomme của Pháp lãnh giải Nobel Văn chương đầu tiên
năm 1911. Từ mấy thế kỷ trước đó, thi sĩ Pháp, kể cả Sully
đều làm thơ theo thi pháp đúng với lý thuyết thi ca, cho mãi
đến giữa thế kỷ XX mới có nhiều nhà thơ phá thể làm thơ
Tự Do mà họ gọi là Vers Libre, trong số có Jacques Prevert
với quyển thơ Histoire là nổi bật hơn cả. Vậy, lý thuyết
thơ Pháp trải nhiều thế kỷ gồm những loại thơ nào? Quan
trọng hơn là cách gieo vần ra sao? Nếu thơ không vần thì chỉ
là văn xuôi -prose.
Cả thế giới, thi sĩ làm thơ nhất
định phải có vần. Đường Thi có rất nhiều bài thơ tuyệt
tác. Thơ Việt Nam từ nghìn xưa phỏng theo theo thơ Trung Hoa,
nhưng các nhà thơ VN, từ ngày có chữ nôm, đã chứng tỏ bản
sắc riêng với Song Thất Lục Bát như Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán
Ngâm Khúc, và thơ Lục Bát với Thiên Nam Ngữ Lục và Đọan
Trường Tân Thanh. Hai thể thơ này còn được trân trọng giữ gìn
đến ngày nay. Nhưng song song với thơ Đường Luật, Song Thất
Lục Bát, Lục Bát, đến các thập niên ba mươi, bốn mươi, năm
mươi thế kỷ XX, các nhà tân học từ Âu Châu, nhất là từ
Pháp về đã mang vào thi ca Việt Nam những dòng thơ phỏng
theo kiến trúc lý thuyết thi ca Pháp, gọi là "Thơ Mới". Bản
sắc của Thơ Mới là tư tưởng mới và hình thức mới, như ngũ
ngôn tứ tuyệt, thất ngôn tứ tuyết hay bát ngôn tứ tuyệt,
phần lớn là thơ lãng mạn, nhưng cách gieo vần đúng như các
loại thơ Pháp có thay đổi ít nhiều. Gọi tứ tuyệt vì một
đoạn gồm bốn câu, hay thường gọi là một khổ thơ có bốn
câu. Một bài Thơ Mới có bao nhiêu đoạn cũng được.
Trở lại các thể loại thơ và cách
gieo vần thơ Pháp, ta thấy họ có rất nhiều thể thơ như Anh
hùng ca -la poésie épique, Thơ Trữ tình -la poésie lyrique,
thơ Giáo huấn -la poésie didactique, và Kịch thơ -la poésie
dramatique. Các cước thơ -differentes sortes de pieds: trong mỗi
câu thơ có từ một đến mười hai âm tiết -gọi là pieds- thể
hiện trong các loai thơ Tám Câu Hai Vần -le Triolet; Mười Ba
Câu, ba đoạn, hai vần -le Rondeau; Thơ Ba Đoạn hai vần và thêm
một nửa đoạn -la Ballade; và Thơ Mười Bốn Câu -le Sonnet- thí
dụ như bài Sonet của Arvers "lòng ta chôn chặt mối tình, tình
trong giây phút mà thành thiên thu" -mon âme a son secret, ma vie
a son mystère, un amour éternel en un moment concu... mà ai học
Trung học chương trình Pháp đều biết. Thơ mười hai cước-12
pieds là l' Alexandrin hay Roman d' Alexandre. Nhưng cách gieo
vần trong bất cứ thể loại thơ nào cũng rất chặt chẽ, không
thề tùy tiện. Vần gieo trong từng một khổ bốn câu thơ, hay
một tứ tuyệt. Câu hỏi đặt ra là vần trong một tứ tuyệt
gieo như thế nào?
Gieo vần bắt buộc phải theo
quy tắc sau đây:
1) Gieo vần suông -Rimes Plates hay
Survies (les rimes se suivent deux a deux: là cách gieo vần trong
một khổ thơ -hay đoạn bốn câu, nếu đoạn thơ dài tám câu hay
mười hai câu thơ, cũng chỉ tính vần gieo ở mỗi khổ bốn câu:
Chữ cuối câu 1 và câu 2 cùng một
vần,
Chữ cuối câu 3 và câu 4 cùng một
vần với nhau.
Bài thơ có bao nhiêu đoạn bốn câu, cũng được. Nhưng suốt bài
thơ phải theo cách gieo vần suông, nghĩa là tất cả các đoạn
bốn câu đều gieo vần giống nhau. Cho dù nội dung của bài thơ
thật hay, nhưng chỉ một đoạn bốn câu nào đó trong toàn bài
thơ có nhiều khổ, gieo khác vần, thì các nhà bình luận
phái Formalisme - Hình thức luận, sẽ không cho là tuyệt mỹ.
Khi các thi sĩ tân học VN mang cách
gieo vần này vào thơ, gọi là Thơ Mới, ta thấy có một thay
đổi nhỏ chấp nhận được vì nó giúp cho dòng thơ mạnh thêm,
hay hơn. Xin đọc một vài đoạn thơ của Thế Lữ dưới đây:
HỔ
NHỚ RỪNG
Gặm một mối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm.
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để
làm trò lạ mắt thứ đồ chơi.
Chịu
ngang hàng cùng bọn thú dở hơi,
Với
cặp báo chuồng bên vô tư lự
Ta sống mãi trong tình thương nỗi
nhớ,
Thuở tung hoành hống hách những
ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây
già,
Với tiếng gió gào ngàn với
giọng nguồn hét núi.
Với khi thét
khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên
dõng dạc đường hoàng,
Lượn tấm thân
như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm
thầm lá gai cỏ sắc.
Trong hang tối
mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho
mọi vật thảy im hơi.
Ta biết ta là
chúa tể của muôn loài,
Giữa chốn
thảo nguyên không tên không tuổi.
Nào
những đêm trăng vàng bên bờ suối
...
Trên đây là biến thể của cách gieo
vần suông -rimes plates- của thơ Pháp do các thi sĩ tân học VN
đem từ thơ Pháp về Việt Nam, đến ngày nay nhiều thi nhân VN
đều theo. Nhìn kỹ suốt bài thơ: chữ chót của câu thứ nhất
đoạn dưới bắt vần với chữ chót của câu chót đoạn trên, dù
là đoạn thơ bốn câu, tám câu hay mười hai câu.
2) Gieo vần cách hàng -Rimes Croisées
̣(alternant une à une):
Câu 1 bắt vần với câu 3,
Câu 2 bắt vần với câu 4 trong một khổ tứ tuyệt.
Nghĩa là gieo vần cách một câu, gọi
là vần cách, câu lẻ ăn vần theo câu lẻ, câu chẵn ăn vần theo
câu chẵn, từ đầu cho đến cuối bài thơ dù có bao nhiêu đoạn
bốn câu, tám câu, hay xuyên suốt. Xin đọc bài thơ dưới đây
của nhà thơ Huy Văn:
MỘT
MÙA HỌC TRÒ
Mái tóc Em dài như bóng nắng
đổ mềm như suối, nhẹ như sương
Gần
trong tay với mà xa vắng
nên chi lặng
thầm, thương nhớ thương.
Tôi thường theo em vào lớp học
ngồi ngắm bờ vai xỏa tóc huyền
Những
chiều đếm bước về học xá
Em trước
tôi sau... thả dốc nghiêng
Từ lâu tôi chỉ là chiếc bóng
thầm lặng theo em bước chung đường
Em
là hoa thắm vườn xuân mộng
còn tôi con
bướm lạc chiều sương
Một mùa trọ học, mấy mùa hoa
Em vẫn vô tình mãi cách xa
Con nước
về xuôi cho suối nhớ
Tình như gió
thoảng chốn quan hà
Chia tay khi chiều buông nắng nhạt
Nói chi thêm thừa câu vấn vương
Em sẽ
là Em: ơi Đà Lạt!
Tôi mãi là tôi của
dặm trường!
HUY VĂN
(Nhớ mùa Tổng
Động Viên 1972)
Bài thơ này kết vần theo quy cách
rimes croisée; nội dung thì đẹp, mà hình thức thì hoàn
toàn... hỏng. Chỉ nội bốn câu áp chót gieo vần không thống
nhất là sẽ không được... coi là bài thơ hay hợp cách. Huống
chi toàn bài không bỏ dấu, thỉnh thoảng lại bỏ dấu; đến
đoạn bốn câu chót lại thêm vào dấu (:) và (!). Đây là lối
kiểu cách tự phá hỏng vẻ thẩm mỹ của thơ. Và kiểu cách
bỏ các dấu lung tung... cũng không hợp cách.
3. Gieo vần ôm -Rimes Embrassées. Trong
một đoạn hay khổ bốn câu thơ, câu 1 ăn vần với 4, câu 2 ăn
vần với câu 3. Tức là câu đầu và câu chót của khổ tứ
tuyệt ôm hai câu vần khác vào giữa. Xin xem bài thơ dưới đây
của Tế Hanh:
RÉT VÀO BÂN
Khi em đan áo cho anh
Gió thổi qua bàn tay lạnh
Những đôi
chim tìm nhau ủ cánh
Mây đầy trời rơi
rớt nắng mong manh
Em vội dệt thời gian sợi thẩm
Những giờ trưa không nghỉ những đêm thâu
Sợi len mịn so sợi lòng rối rắm
Áo
đan rồi, mùa lạnh hết còn đâu!
Em gởi áo lo anh giận dỗi
Nhận áo em anh lại ngại em phiền
Đời
cán bộ ít giờ nhàn rổi
Vì việc
chung đôi lúc nhẹ niềm riêng
Hoa bắt đầu rơi rớt giữa đường Xuân
Cành cây đã sum suê lá đậm
Tháng ba
đến với những ngày nắng ấm
Bỗng mùa
Đông trở lại! Rét nàng Bân
Nàng Bân xưa đan áo ấm cho chồng
Áo đan xong không còn mùa lạnh nữa
Nàng Bân khóc, đất trời thương lệ ứa
Cho rét về đáp lại nỗi chờ mong
Anh mặc áo của em và cảm thấy
Bàn tay yêu nhân ấm hai lần
Thời gian
hiểu lòng ta biết mấy!
Có tình người
nên có rét nàng Bân
Tế Hanh
1957
Nhà thơ Tế Hanh, theo phê bình chung
của nhiều người, không phải là nhà thơ lớn của VN, nhưng là
một nhà thơ nổi tiếng. Mặc dù ông có được bài thơ hay nhất
là Quê Hương, nhưng ông không thể là một Thế Lữ, một Xuân
Diệu hay một Hàn Mạc Tử. Xem bài thơ trên đây ta thấy rằng
nhận xét trên là đúng. Tế Hanh mắc phải sai lầm như Huy Văn,
mặc dù ông là tiền bối trong Thơ Mới. Bài thơ này ông làm hai
mươi năm sau bài thơ Quê Hương nổi tiếng là tuyệt tác của ông
năm 1937. Tôi không hiểu tại sao đã lão luyện trong Thơ Mới
trên hai thập niên mà ông còn phạm sai lầm như vậy? Hay là
ông sáng tác tùy hứng, bất cần thi pháp, hay ông muốn làm
một cải cách thơ?
Trước tiên phải ghi nhận về nội dung
bài thơ gói ghém tâm tình của chàng... đi bộ đội ở xa bỏ
người vợ, nàng Bân, ở lại quê nhà. Chàng nhớ thương nàng
và nàng gởi gấm nỗi thương yêu chồng, sợ mùa Đông rét mướt,
vào tấm áo len đan. Nhưng khi tấm áo đan xong... mùa Đông đã
qua rồi. Khi chàng nhận được chiếc áo trễ, mặc vào người
mới cảm thấy được cái... rét trong tấm lòng người vợ.
Tình cảm nhẹ nhàng nhưng lời thơ ray rức, từng chữ làm cho
lòng người đọc rung động, từng chữ của từng câu thơ mang
trong nó sự rung cảm nhẹ nhàng nhưng diệu vợi như câu này
chẳng hạn "Mây đầy trời rơi rớt nắng mong manh". Đẹp và
buồn. Nhưng khi những chữ và những dòng thơ này kết hợp lại
với nhau... thành một bài thơ thì chẳng khác nào chiếc áo
may bằng thứ vải quý bị rách vá chùm vá đụp.
Thử xét nghiệm lại: Khổ thơ bốn câu
đầu, câu dài câu ngắn, gieo một loại vần... lạ mà mãi đến
sáu bảy mươi năm sau mới có một nhà thơ khác chuyên dụng.
Tôi sẽ nói sau về nhà thơ này ở cuối bài viết. Khổ thơ thứ
hai, thứ ba và khổ thơ chót tác giả gieo vần song cách
-rimes croisées, số chữ cũng không thống nhất. Khổ thơ thứ
tư và thứ năm gieo vần ôm -rimes embrassées, là thứ vần mà
tôi đề cập ở mục này.
Tóm lại bài thơ có chất liệu cảm
xúc và từ ngữ vô cùng tuyệt vời, chẳng khác nào một kiến
trúc sư có vật liệu quý hiếm, nhưng ngôi nhà xây lên xoàng
xĩnh. Bài thơ này của Tế Hanh gọi là Thơ Mới là không
phải, gọi là thơ Tự Do cũng là cưỡng chế. Người làm thơ
không thể viện lý do "cảm hứng đến đâu thì viết tới đó".
Nếu nói như vậy và làm thơ như vậy là tự mình làm mất đi
vẻ tuyệt hảo của thi ca do mình sáng tạo. Cái đẹp của thi
ca là đẹp cả nội dung lẫn hình thức, dù là bài thơ ngắn
hay dài, nếu nói về Thơ Mới gieo vần theo lối thơ Pháp mà
các nhà thơ tân học mang về VN từ các thập niên ba mươi, bốn
mươi thế kỷ XX cho đến nay. Vì muốn thoát ra khỏi sư gò bó
của cách gieo vần theo Thơ Mới nên sau đó ít lâu nhiều thi sĩ
đã làm thơ Tự Do, phóng túng hơn về số chữ trong mỗi câu
thơ và cách gieo vần.
4. Gieo vần ôm biến thể -transformation
des rimes embrassées: Nhiều nhà thơ tân học thời điểm đó rất
nhiều vị uyên thâm chữ Nho, cũng nhận thấy rằng ba cách gieo
vần của thơ Pháp quá khắt khe nên họ cũng du nhập cách gieo
vần thơ Hán-Nho vào trong Thơ Mới. Cách gieo vần này giống
với cách gieo vần rimes embrassées của thơ Pháp, nhưng có
thể áp dụng phong phú hơn và đọc hay ngâm lên nghe êm tai hơn.
Cách gieo vần biến thể này là trong một khổ thơ bốn câu, câu
1, 2 và 4 hợp một vần với nhau, không để ý đến câu 3. Xin
xem bài thơ Hán-Nho dưới đây:
Thanh
Bình Điệu
Vân tưởng y thường hoa tưởng dung
Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng
Nhược
phi Quần Ngọc sơn đầu kiến
Hội hướng
Giao Đài nguyệt hạ phùng
Lý Bạch (701-762)
(Dịch: Xiêm
áo như mây, mặt như hoa. Gió xuân bên ngoài lất phất ngát
sương hoa. Người đẹp, nếu như không thấy ở đầu núi Quần
Ngọc. Thì ắt là đã gặp đâu đó dưới trăng ở Dao Đài.
PKT 02/12/2016).
Bây giờ xin xem bài thơ dưới đây của Hàn Mặc Tử, cũng gieo
vần như bài Thanh Bình Điệu:
Một
Nửa Trăng
Hôm nay còn một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn mất rồi!
Ta nhớ
mình ta thương đứt ruột!
Gió làm nên
tội buổi chia phôi!
Và một bài thơ Trăng khác
của Hàn Mặc Tử:
Trăng Vàng Trăng Ngọc
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, là Trăng!
Ai mua trăng ta bán trăng cho
Không bán
đoàn viên, ước hẹn hò...
Bao giờ đậu
trạng vinh qui đã
Anh lại đây tôi thối
chữ thơ.
Không,
không! Tôi chẳng bán hồn trăng
Tôi giả
đò chơi, anh tưởng rằng
Tôi nói thiệt,
là anh dại quá:
Trăng vàng trăng ngọc
bán sao đang.
Trăng! Trăng! Trăng! là Trăng, Trăng, Trăng!
Trăng sáng trăng sáng khắp mọi nơi
Tôi
đang cầu nguyện cho trăng tôi,
Tôi lần
cho trăng một tràng chuỗi
Trăng mới là
trăng của rạng ngời.
Trăng! Trăng!
Trăng! Là Trăng, là Trăng!...
Trên đây là hai bài thơ Trăng tuyệt
tác của Hàn Mặc Tử, gieo vần theo Hán-Nho, hay gieo vần theo
vần ôm -embrassées- biến thể của thơ Pháp do những nhà thơ
tân học của thế kỷ trước mang vào vào VN gọi là Thơ Mới
làm cho thi ca Việt Nam sáng chói một thời. Nhưng sau đó, từ
nửa hậu bán thế kỷ XX, nhiều thi sĩ tân học mới hơn cũng
học từ các trường Pháp trở về như Cung Trầm Tưởng, Nguyên
Sa hay những thi sĩ trong nước ở Miền Nam như Thanh Tâm Tuyền,
Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Tô Thùy Yên, hay ở Miền Bắc như
Hoàng Cầm, Quang Dũng đã đem thơ Tự Do vào thi ca, không còn
bị gò bó vào cách gieo vần và số chữ trong mỗi câu như
một bài thơ thuộc loại Thơ Mới trước đó. Tuy nhiên Thơ Mới
vẫn được không ít thi sĩ VN trong nước và nhất là ở hải
ngoại vẫn dùng để sáng tác. Nhưng đã chọn sáng tác bằng
Thơ Mới thì phải theo đúng cách gieo vần và số chữ thống
nhất trong các khổ tứ tuyệt cho cả toàn bài thơ. Thà dùng
vật liệu bình thường mà cất một căn nhà với kiến trúc
đẹp cân đối còn hơn dùng vật liệu tốt mà cất căn nhà
thiếu vẻ thẩm mỹ. Một nhà phê bình nghiêm túc hay một
người biết thưởng thức thơ không thể bỏ qua những xù xì,
nhám nhúa của một bài Thơ Mới không theo đúng quy cách sáng
tạo về lý thuyết.
Hiện nay tìm được một bài Thơ Mới
trác tuyệt về nội dung cả hình thức thât là... không phải
dễ. Xin nói thêm là mặc dù hiện nay thơ Tự Do phổ biến hơn,
được dùng để sáng tác rộng rãi hơn, nhưng các nhà thơ VN
vẫn tiếp tục sáng tác thơ Đường Luật, Lục Bát và Thơ Mới.
Thi sĩ ở hải ngoại vẫn giữ đúng quy cách của Thơ Mới. Đến
nay đã hơn bốn thập niên, loại thơ này vẫn còn mang giá trị
truyền cảm đậm đà. Đặc biệt có nhiều thi sĩ còn muốn
chuyển hóa cách gieo vần độc đáo thể loại Thơ Mới này. Lục
Bát thì có quá nhiều người sử dụng để sáng tác. Đường
Luật, nổi bật nhất là Nhất Hùng. Ông này là một nghiếp ảnh
gia ở Virginia và Washington, D.C. nhưng là một nhà thơ Đường
Luật xuất sắc. Ông sáng tác hơn cả trăm bài thơ Đường Luật
viết về mọi đề tài... rất điêu luyện. Nhưng Thơ Mới thì
quả thật không thể đếm hết những thi sĩ, quá nhiều, ở hải
ngoại. Đặc biệt, có một nhà thơ trí thức ở hải ngoại
hình như muốn hồi phục lại Thơ Mới với lối gieo vần gây ấn
tượng.
Thi sĩ
này là Tiến sĩ Lưu Nguyễn Đạt, người chủ trương website
Việt Thức, một mạng thông tin điện tử bình luận chính trị
và văn học nổi tiếng thế giới, cũng ở Virginia và
Washington, D.C. Ông này chuyên làm thơ Tự Do, nhất là Thơ Mới
với cách gieo vần đặc biệt là trong mỗi khổ thơ bốn câu
đều chỉ gieo có một vần, dù bài thơ dài bao nhiêu khổ cũng
vậy. Xin bỏ chút thì giờ quay lại đọc khổ thơ bốn câu đầu
của bài thơ "Rét vào Bân" của Tế Hanh và khổ thơ cuối bài
thơ "Trăng Vàng Trăng Ngọc" của Hàn Mặc Tử. Lối gieo vần này
các nhà thơ trên chỉ sử dụng có một lần, nhưng Lưu Nguyễn
Đạt sử dụng rất nhiều lần viết rất nhiều bài thơ trong
tập thơ ông mới xuất bản trong năm qua. Tôi không biết tựa
của tập thơ. Trước khi xuất bản TS LNĐ có gởi bản thảo tập
thơ hỏi ý kiến tôi. Tôi chỉ có thể nói rằng những bài thơ
tiếng Việt của ông, tuy có lối kiến trúc khá độc đáo về
lối gieo vần như đã nói, nhưng không đặc sắc như những bài
thơ dịch ra tiếng Pháp của ông.
Bài thơ dưới đây là bài duy nhất do
tôi làm gieo chỉ có một vần trong mỗi khổ tứ tuyệt...
Vĩnh Định -NVD
Tháng 7/2016
ĐƯỜNG CHIỀU
Nắng nhạt đường chiều buông lửng lơ,
Chẳng ai hò hẹn chẳng ai chờ...
Mây
không vương vấn buồn không gió,
Trời
vắng ngày hoang đến hững hờ!
Bước bước ngập ngừng theo bóng ai,
Đường sương lành lạnh ánh trăng dài...
Hỏi thôi mấy nẻo rừng quan ải...
Ai biết
ai chờ, ai đợi ai!
Hoang vắng tưởng chừng đêm đã qua
Bàng hoàng nghe nở một loài hoa...
Thoảng hương khuya lạnh thương thương quá,
Mộng đã không thành ta trách ta!
Bỏ lỡ một đời có biết không?
Mang chi cho nặng gánh tang bồng,
Trời xa đã mõn cánh chim hồng...
Bao giờ trả hết nợ non sông?
Hãy trả cho nhau một chút tình,
Em xinh em mộng vẫn còn xinh.
Chỉ riêng
ta mãi còn mê tỉnh,
Trời đất muôn trùng
thăm thẳm xanh...
Văn Nguyên Dưỡng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Trang Thi-Văn Văn Nguyên Dưỡng
Trung tâm lưu trữ những buổi lễ Mừng Thánh Tổ SĐND/QLVNCH
|
Hình nền: Rặng Alps. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by vnd chuyển
Đăng ngày Thứ Hai, April 3, 2017
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang