Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Ngược dòng thời gian
Chủ đề: 30-T4-Đ
Tác giả: Dr Nguyễn Văn Thái, PhD
(Tiểu Thạch)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
ỦY BAN TRUY TỐ TỘI ÁC ĐẢNG
cộng sản VIỆT NAM
TRUNG TÂM ĐIỀU HỢP TRUNG ƯƠNG
P.O.BOX
6147
FULLERTON, CA 92834. USA
PHONE: 626-257-1057
EMAIL:
ubtttadcsvn68@gmai.com
WEBSITE:
http://www.uybantruyto.com
Orange County, California. USA
19/4/2018
Kinh gởi:
-Đồng bào Quốc Nội
-Đồng bào
Hải Ngoại
-Quý Chiến Hữu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
-Quý
Chiến Hữu Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.
XIN PHỔ BIẾN RỘNG RÃI
Người
Việt quốc gia đã chọn ngày 30 tháng 4 là ngày Quốc Hận. Từ “hận”
[恨] có nghĩa là “oán giận” (theo Hán-Việt Tự Điển của Đào Duy
Anh, 1963; Hán-Việt Tự Điển của Nguyễn Văn Khôn, 1960). Trong
nghĩa giận còn có ý “oán” [怨] nữa, nghĩa là trách móc như trong
câu oán thiên vưu nhân 怨天尤人, trách trời giận người(Hán-Việt Từ
Điển Trích Dẫn, Paris 2015). Giận vì Miền Nam đã thua Miền Bắc và
oán trách vì người bạn đồng minh của mình đã phản bội.
Nhưng thua thì chịu thua. Tại sao lại
phải giận? Và đồng minh đã phản bội như thế nào?
Đúng là thua, nhưng giận vì thua không
hợp lý: Tự Do Dân Chủ mà phải thua Độc Tài Cộng Sản; Chính Nghĩa
mà phải thua cái Ác; và nhất là đứng về mặt quân sự, sự thất bại
của vụ tổng tấn công tổng khởi nghĩa của cộng sản Miền Bắc năm
1968, của cuộc tổng tấn công của toàn bộ lực lượng chính quy của
cộng sản Miền Bắc trong vụ Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, cũng như sự kiên
trì anh dũng giữ nước của quân lực Việt Nam Cộng Hòa từ 1972 đến
1975 đã hùng hồn chứng minh sự vượt trội của quân lực Miền Nam.
Trong vụ tổng tấn công trong dịp Tết
Mậu Thân 1968, cộng sản Miền Bắc, bất chấp thỏa hiệp đình chiến
36 tiếng để dân chúng đón Tết, đã tấn công ồ ạt trên mọi tỉnh
thành Miền Nam. Nhưng quân lực Việt Nam Cộng Hòa, dù quân số chỉ
còn lại khoảng 1/6 [1] vì đa số đã được nghỉ phép về quê ăn Tết,
vẫn có thể anh dũng đẩy lui cuộc tấn công của toàn bộ quân đội
miền Bắc.
Về
quân sự, Tết Mậu Thân là một thất bại lớn cho diều hâu chiến
tranh Lê Duẫn. Trong vụ tấn công này của cộng sản Miền Bắc, người
ta tìm thấy nhiều trẻ em chết bên cạnh những ổ súng máy, chân bị
xiềng [2] vào ổ súng để chúng phải chiến đấu cho đến chết; có đứa
bị xiềng chân vào cỗ xe thiết giáp
[3] để khỏi đào thoát; những
tên bắn sẻ thì bị cột chặt vào thân cây
[4]. Những người này đã
bị chết một cách thảm thương.
Một vài bài viết của người cộng sản
Miền Bắc mô tả quân đội Miền Bắc đã tấn công tòa đại sứ Mỹ và đã
lên đến tầng thứ ba của tòa đại sứ với ý định sẽ giết đại sứ Mỹ.
Nhưng sự thực ở Sài Gòn, ai cũng chứng kiến cảnh mười mấy tên đặc
công cộng sản vừa xông vào sân tòa đại sứ thì đã hạ gục ngay.
Thua về quân sự trong vụ Tết Mậu Thân ở
Huế, cộng sản Miền Bắc khi tháo lui đã giết hại tổng cộng 5327
người dân Huế bằng cách bắn chết tại chỗ, chôn sống hằng ngàn
người trong những nấm mồ tập thể rải rác khắp ngoại ô thành phố
Huế, tại Khe Đá Mài, v.v. sau khi đã dùng cuốc đập vào đầu họ
trong khi họ đang bị trói cánh khuỷu lại thành chùm với nhau.
Trong số những người này có 4 giáo sư người Đức đang dạy y khoa
tại đại học Huế. Ngoài con số 5327 người đã bị sát hại, chúng còn
bắt đi biệt tích 1200 người dân Huế vô tội nữa.
Về tâm lý quần chúng tại Việt Nam, vụ
Mậu Thân 1968 cũng là một thất bại nặng nề cho Đảng cộng sản Miền
Bắc. Chiến dịch Mậu Thân được gọi là “Tổng Tiến Công Tổng Nổi
Dậy” vì Đảng cộng sản Miền Bắc có ảo tưởng là nhân dân Miền Nam
sẽ đứng lên chống lại, lật đổ chính quyền Miền Nam khi họ tiến
quân vào Miền Nam. Họ không ý hội được là nhân dân miền Nam ghê
tởm cộng sản, nghe cộng sản đến đâu là nhân dân né tránh, chạy về
phía quân lực Việt Nam Cộng Hòa để được che chở, bảo vệ. Ngay
người dân miền Bắc cũng ghê tởm họ. Năm 1954 đã có hơn một triệu
người Miền Bắc di cư vào Miền Nam để lánh nạn cộng sản. Nếu không
có những khó khăn vì di chuyển và những ngăn chặn bằng bạo lực do
đảng cộng sản ác độc chủ trương thì hẳn con số di cư còn cao hơn
gấp bội.
Trong
vụ Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, sau khi gần như toàn bộ quân đội Hoa Kỳ đã
rút ra khỏi Việt Nam chỉ còn lại yểm trợ của không lực của Hoa
Kỳ, thế mà quân lực Việt Nam đã đẩy lui trên 200,000 quân đội
chính quy của Miền Bắc đồng loạt tấn công vào tất cả mọi thị
thành ở Miền Nam.
Sau 1972, khi quân đội Hoa Kỳ đã hoàn
toàn rút khỏi Việt Nam; yểm trợ không lực của Hoa Kỳ cũng không
còn nữa trong lúc Miền Bắc vẫn được sự tiếp tế đầy đủ của Nga và
Tàu; Tàu đã đưa qua Miền Bắc trên 300,000 quân giữ hậu cần để cho
quân chính quy Bắc Việt tiến công vào Miền Nam. Thế mà quân lực
Việt Nam Cộng Hòa vẫn giữ được nước mãi cho đến tháng 4 năm 1975
với những trận đánh quyết tử Xuân Lộc và An Lộc, trong hoàn cảnh
hoàn toàn thiếu thốn đạn dược và xăng nhớt cho xe cộ và máy bay.
Giận vì sự ác độc của người cộng sản
còn được thể hiện rõ nét sau khi đã cưỡng chiếm được Miền Nam, họ
đã đày đọa hằng trăm ngàn cán bộ, công chức, quân nhân và cảnh
sát trong các trại tập trung từ vài ba năm cho đến hai chục năm,
ở những vùng xa xôi, hẻo lánh, trên rừng thiêng nước độc để những
tù nhân oan trái này phải chết dần, chết mòn vì lao động kiệt
lực, vì bệnh hoạn, và nhất là vì bị bỏ đói. Trong lúc đó thì của
cải của những người này bị tước đoạt, nhà cửa bị trưng dụng, và
trong một số không ít trường hợp, vợ của họ cũng bị cán bộ lấy.
Một lý do nữa để cho người Việt quốc
gia phải căm giận là cả hơn hai triệu người phải liều chết để
trốn thoát khỏi sự tàn bạo, cay nghiệt, độc ác của người cộng sản
Miền Bắc. Khi trốn thoát bằng đường biển — trên những chiếc ghe
nhỏ bé không thích hợp để vượt biển, có khi chỉ bằng những ruột
xe hơi buộc lại với nhau — hằng trăm ngàn người hoặc đã bị sóng
biển dập vùi xuống lòng đại dương, hoặc đã bị cướp biển Thái Lan
chặn bắt, cướp đoạt tài sản, giết đàn ông, hiếp dâm phụ nữ. Những
vụ cưỡng dâm con gái đã có lúc xảy ra trước mặt cha mẹ, vợ trước
mặt chồng con. Những cảnh đau lòng này cũng thường xảy ra đối với
những người vượt biên qua đường rừng núi Cao Mên, khi họ gặp phải
quân lính Khmer Đỏ. Những đau xót này đã in dấu ấn đậm nét trong
lòng người Việt quốc gia may mắn thoát được ngục tù cộng sản và
đến được bến bờ tự do của những nước dân chủ.
Ngoài sự căm giận, người Việt quốc gia
chúng ta còn oán trách Mỹ, người bạn đồng minh đã phản bội lại
chúng ta.
Đúng
ra, người Mỹ chỉ là bạn đồng minh bất đắc dĩ.
Trước tiên, chúng ta cần phải khẳng
định rằng Ông Ngô Đình Diệm không phải là do người Mỹ đưa lên mà
chính vua Bảo Đại đã bổ nhiệm ông làm thủ tướng lúc ông qua Pháp
sau khi vận động thất bại ở Mỹ. Trước năm 1953, nước Việt Nam
trên danh nghĩa đã độc lập, nhưng trên thực tế vẫn chịu sự quản
trị và khống chế của người Pháp. Do đó Ông Ngô Đình Diệm đã từ
chức thượng thư bộ lại của triều nhà Nguyễn và xuất dương tìm
đường cứu nước. Ông bắt đầu qua Nhật, tiếp xúc với Ông Cường Để
với hy vọng thành lập một chính phủ quân chủ lập hiến, nhưng
không thành công. Trong dịp này ông gặp được một giáo sư khoa
chính trị học người Mỹ tên là Wesley Fishel, đang làm việc cho
CIA. Ông này móc nối cho ông Diệm làm quen với một số chính khách
Mỹ như chánh án Tối Cao Pháp Viện William O. Douglas, đức Hồng Y
Francis Spellman, dân biểu Mike Mansfield thuộc tiểu bang
Montana, dân biểu John F. Kennedy thuộc tiểu bang Massachusetts.
Tuy nhiên, Ông Ngô Đình Diệm không tạo được sự hỗ trợ chính thức
của Hoa Kỳ. Lý do chính là vì ông là người công giáo, nên người
Mỹ nghĩ là ông không thể điều hành một quốc gia mà họ nghĩ đa số
là người Phật giáo.
Ông Ngô Dình Diệm trở về Việt Nam ngày
7 tháng 7 năm 1954 trong cương vị Thủ Tướng cho toàn cõi Nam
Trung Bắc Việt Nam, do quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm. Ngày 21
tháng 7 năm 1954, Hiệp Định Genève đã được ký, chia đôi đất nước
ở vĩ tuyến 17. Vùng đất thuộc bắc vĩ tuyến 17 do Hồ Chí Minh lãnh
đạo. Ông Ngô Đình Diệm trách người Pháp đã giao Miền Bắc cho cộng
sản. Tại Miền Nam Ông Ngô Đình Diệm được sự hỗ trợ của những đảng
phái quốc gia chống cộng, của giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo; ông
dẹp loạn Bình xuyên do Bảy Viễn cầm đầu, loại trừ được sự chống
đối của tướng Nguyễn Văn Hinh do Pháp xúi dục làm đảo chánh. Với
quân đội do người Pháp trao trả, với sự hỗ trợ của các đảng phái
quốc gia chống cộng và của Cao Đài và Hòa Hảo, ông Ngô Đình Diệm
đã phá tan gần hết hạ tầng cơ sở của cộng sản để lại Miền Nam sau
khi đã tập kết ra Bắc theo các điều khoản của Hiệp Định Genève.
Ông Ngô Đình Diệm đã thiết lập được một thế đứng chính trị vững
chắc cho nền Đệ Nhất Cộng Hòa.
Nhưng sự khai sinh của một Nền Cộng Hòa
non trẻ thay cho một nền hành chánh thủ cựu, quan liêu của triều
nhà Nguyễn cần sự hỗ trợ về tài lực, kinh tế, kỹ thuật, và quản
trị. Đây là thời điểm mà ông Diệm cần sự giúp đỡ của người Mỹ. Và
người Mỹ đã đến Việt Nam dưới hình thức cố vấn trong những năm 50
đến những năm đầu của thập kỷ 60. Số cố vấn Mỹ càng ngày càng
tăng theo thời gian. Nhưng điều quan trọng là cái nhìn của chính
phủ Ngô Đình Diệm không trùng hợp với cái nhìn của người Mỹ về
phương diện chính trị. Ông Ngô Đình Diệm chú trọng vào sự thịnh
vượng của đất nước và độc lập quốc gia, còn hình thái chính thể
thì chưa thể tự do hoàn toàn như các nước Tây phương được. Cái
nhìn của người Mỹ thì bao quát cả thế giới qua sự tranh chấp bá
quyền và ảnh hưởng giữa lý thuyết tự do và lý thuyết cộng sản.
Từ góc nhìn tranh chấp bá quyền và ảnh
hưởng, người Mỹ thấy cần phải ngăn chặn sự bành trướng của cộng
sản quốc tế xuống Việt Nam và sự lan tỏa của làn sóng này ra toàn
cõi Đông Nam Á, bao gồm cả Lào, Cao Mên, Thái Lan, Mã Lai,
Singapore, Indonesia, New Zealand và cả Australia. Để ngăn chặn
sự bành trướng này, người Mỹ nhận thấy khẩn thiết cần phải đưa
quân đội vào Việt Nam. Nhưng đây là điểm khác biệt chính yếu về
quan điểm giữa ông Ngô Đình Diệm và chính phủ Hoa Kỳ. Đối với ông
Ngô Đình Diệm, sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ
(1) làm mất đi chủ quyền quốc gia Việt Nam, và (2) sẽ làm mất
chính nghĩa quốc gia, đem lại cơ hội cho lãnh đạo miền Bắc kết án
là Mỹ xâm lược, là Miền Nam Việt Nam làm lính đánh thuê cho Mỹ;
và Miền Nam cần được “giải phóng” khỏi ách nô lệ của người Mỹ.
Đồng thời Miền Bắc có lý do để yêu cầu sự hỗ trợ của các nước
cộng sản anh em, Nga và Tàu. Nhưng trên quan điểm của người Mỹ
thì dĩ nhiên chủ quyền quốc gia của một nước nhỏ, chậm tiến như
Việt Nam không thể cân bằng hay nặng ký hơn quyền lợi của nước
Mỹ. Chính nghĩa quốc gia thì đã có “bảo hiểm” bằng sức mạnh của
Hoa Kỳ rồi!
Không chinh phục được ông Diệm, tình báo Mỹ đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho các tướng lãnh Việt Nam lật đổ chính phủ Ngô Đình
Diệm bằng cách khai thác yếu tố dân chủ và đào sâu sự hiềm khích
tiềm ẩn giữa Công giáo và Phật giáo mà trong đó một thành phần
lớn có ảnh hưởng đã bị cộng sản thâm nhập. Vụ đảo chánh đã kết
thúc bằng cái chết tàn bạo, dã man của hai anh em ông Ngô Đình
Diệm và Ngô Đình Nhu.
Tháng 3 năm 1965, quân đội Mỹ tiến vào
Đà Nẵng mà không cần hỏi ý kiến của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Đến năm 1967, có trên 500,000 quân nhân Hoa Kỳ và một số ít quân
đội Phi Luật Tân, Nam Hàn, Thái Lan, v.v. trên đất nước Việt Nam.
Trên thực tế, thực sự không ai biết rõ lý do tại sao quân đội Mỹ
có mặt ở Việt Nam. Trên mặt chính thức thì quân đội Mỹ được công
bố là được dùng để chặn làn sóng cộng sản quốc tế tỏa rộng xuống
toàn cõi Đông Nam Á và như một hệ luận, để bảo vệ nền tự do và
độc lập của Miền Nam Việt Nam. Nhưng cũng có người nghĩ rằng đó
chỉ là một chiêu bài của nhóm tư bản tài phiệt thông đồng với
giới kỹ nghệ để tiêu dụng các vũ khí của Đại chiến II còn sót lại
và dùng Việt Nam để thử nghiệm những khí giới mới được chế tạo.
Quân đội VNCH vẫn sử dụng súng M1-Garand – thứ súng mà quân đội
Mỹ dùng trong Đại chiến II – trong những năm 1967-1968. Đến khi
Việt cộng sử dụng AK-47 (kalashnikov) thì quân đội VNCH mới được
nhận M-16.
Cuộc chiến kéo dài gần như bất phân thắng bại mãi cho đến khi tổn
thất kinh phí cũng như tổn thất nhân mạng lên quá cao đối với sức
chịu đựng của nhân dân Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến bầu cử tổng thống
thì lãnh đạo Hoa Kỳ phải cố tìm lối thoát: Hiệp Định Paris 1973.
Theo Hiệp định này thì Miền Bắc không được dùng võ lực để xâm
chiếm Miền Nam. Nếu Miền Bắc vi phạm điều này thì Hoa Kỳ sẽ trả
đũa thích đáng bằng võ lực. Tổng thống Nixon đã gửi thư cho Tổng
thống Thiệu khẳng định điều này. Hoa Kỳ vẫn tiếp tục viện trợ
kinh tế và quân sự. Về quân sự nếu VNCH hư hao, phế thải một quân
cụ hay khí tài nào thì sẽ được thay thế ngay.
Như chúng ta đã thấy, Miền Bắc đã xâm
chiếm Miền Nam bằng võ lực. Hoa Kỳ không những không phản ứng mà
còn ngưng viện trợ kinh tế cho Miền Nam. Võ khí, đạn dược hoàn
toàn không được thay thế, chiến xa và máy bay tác chiến không có
xăng nhớt để hoạt động. Trong lúc đó, Miền Bắc được tiếp viện
300,000 quân lính Trung cộng để giữ hậu cần; súng ống, đạn dược,
xăng nhớt được Nga và Tàu cung cấp đầy đủ. Dĩ nhiên là người Việt
quốc gia mất Miền Nam không phải là vì hèn yếu, vì thiếu khả năng
giữ nước, mà vì người bạn đồng minh đã phản bội. Họ đến không cần
hỏi ý kiến và khi quyền lợi của họ đã được đáp ứng bằng cách kết
cấu với Tàu cộng thì họ bỏ rơi Miền Nam Việt Nam.
Ngoài việc mất Miền Nam một cách tức
tưởi, còn hằng trăm ngàn cán bộ, công chức, quân nhân, cảnh sát
bị đày ải bao nhiêu năm trời ở nơi thâm sơn cùng cốc, phải lao
động cật lực, bệnh hoạn liên miên, bị hành hạ thân xác, bị bỏ đói
quanh năm, chết dần, chết mòn; còn năm, bảy trăm ngàn người bị
chết trên biển cả vì thời tiết, vì ghe nhỏ không chịu nổi chuyến
vượt biển, vì cướp biển giết, vì cướp biển hãm hiếp, vì Khmer Đỏ
giết hay bị mìn nổ trong rừng núi Cao Mên. Tất cả những tang
thương này đã xảy ra chỉ vì dân quân Miền Nam bị người Mỹ, người
bạn đồng minh của mình “đem con bỏ chợ.” Làm sao không oán trách!
30 tháng Tư là ngày Quốc Hận, là ngày
người Việt quốc gia phải căm giận về cái thua phi lý của VNCH
cũng như về sự tàn ác tột cùng của đảng CSVN và oán trách người
bạn phản bội. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể căm thù người
bạn này được vì dù sao trên 3 triệu người Việt đã thoát được gông
cùm cộng sản và được tiếp đón nồng hậu bởi những quốc gia tự do
và con cái chúng ta có cơ hội giáo dục tốt, phát triển đời sống
chuyên môn và cá nhân của chúng trong một bầu không khí tự do cởi
mở. Khi chuyến máy bay đầu tiên chở các trẻ em mồ côi từ Việt Nam
sang Hoa Kỳ, chính Tổng thống Ford đã ra tận sân bay đón tiếp.
Tổng Thống Carter đã cho phép hàng trăm ngàn người Việt nhập cư.
Hơn nữa chúng ta cần phải phân biệt lãnh đạo Mỹ và nhân dân Mỹ.
Đa số người dân Mỹ rất tốt, đầy lòng nhân ái. Lãnh đạo Mỹ thì
cũng có người tốt đối với người Việt Nam như Tổng thống Ford,
Tổng thống Carter. Nhưng chính quyền Mỹ nói chung thì chỉ hành
động vì quyền lợi quốc gia của họ mà thôi, và quyền lợi này biến
đổi theo từng giai đoạn thời gian. Như cựu Thủ Tướng nước Anh
Henri John Temple, 3rd Viscount Palmerston đã từng tuyên bố trước
quốc hội Anh ngày 1 tháng 3 năm 1948 là: “Chúng ta không có đồng
minh vĩnh viễn, và chúng ta cũng không có kẻ thù trường cửu. Chỉ
có quyền lợi của chúng ta mới là vĩnh cửu và liên tục, và chúng
ta có bổn phận phải đeo đuổi những quyền lợi này” (“We have no
eternal allies, and we have not perpetual enemies. Our interests
are eternal and perpetual, and those interests it is our duty to
follow.”).
Ý
thức được điểm quan trọng này, một quốc gia nhỏ bé không thể tin
tưởng vào lòng tốt, vào sự hứa hẹn hay vào một phạm trù luân lý
hay một lý thuyết chính trị để phán đoán lập trường của một quốc
gia khác hùng mạnh hơn, cũng như không thể tin tưởng như thế để
hành động đưa đến những quyết định liên hệ tới sự sống còn của
đất nước mình. Một quốc gia nhỏ bé đang trên đà phát triển luôn
luôn cần đến sự hỗ trợ của các quốc gia giàu mạnh hơn. Nhưng
trước tiên, quốc gia nhỏ bé này phải có khả năng tự lực cánh sinh
qua sự hỗ trợ của đại đa số quần chúng nhân dân để thiết lập một
thể chế chính trị vững chắc. Sau đó mới có thể gầy dựng thế liên
lập thế giới trên căn bản trao đổi bình đẳng.
30 tháng Tư là ngày Quốc Hận, ngày nhắc
nhở một kinh nghiệm thương đau và xót xa cho toàn thể những người
Việt quốc gia, nhưng đồng thời cũng là một bài học quý giá cho
chúng ta trên con đường cứu nước và dựng nước.
Tiểu Thạch
THAM KHẢO:
[1] Theo ký
giả Dan Southerland, UPI trong cuộc phỏng vấn của Hòa Ái, phóng
viên RFA, ngày 12 tháng 3, 2018.
[2] Các bài
viết sau đây:
– 2/503d VIETNAM Newsletter
http://www.ibiblio.org/173abn/2bat/Issue5.pdf
Trích đoạn trong trang 5:”The Vietnamese kept coming even when it
was obvious they were losing – they didn’t have radios and
couldn’t call off the assault. Afterward, one dead VC soldier was
found chained to his machine-gun...”(Việt [cộng] cứ tiếp tục tiến
tới mặc dù rằng họ đang thua – họ không có máy truyền tin và
không thể ngưng cuộc tấn công được. Sau đó, một tên VC chết được
tìm thấy bị xiềng vào ổ súng máy). Tom Faley
-Interview Transcript: Daniel
Edward Burress: Veterans History...
http://lcweb2.loc.gov/diglib/vhp-sto...ript?ID=sr0001
Trích đoạn: “...the most gruesome sight I thought I would ever
see was a Vietnamese, Viet Cong soldier chained to a machine gun
and burnt up to a crisp, because they chained him to that gun so
he would sit there and just fire and fire and fire, and he’d
better not stop firing because when he stopped firing, he’s
dead,...” (“...Cái cảnh ghê rợn nhất mà tôi nghĩ là tôi đã từng
thấy là một người Việt, một tên Việt cộng bị xiềng vào ổ súng máy
và đã bị cháy queo, vì họ xích nó vào ổ súng để nó phải ngồi đó
và cứ bắn và bắn và bắn, và nó không nên ngưng bắn vì khi nó
ngưng bắn, thì nó phải chết...”)
-7th Armored Squadron 1st Air
Cavalry Blackhawks
http://www.blackhawk6.com/_home/about
Trích đoạn: “At the conclusion of the battle it was discovered
the crews serving the 50-caliber machine had been chained to the
weapon...” (“Sau trận đó, người ta tìm thấy cả đội quân sử dụng
súng máy 50ly trước đó đã bị xiềng vào ổ súng...”)
-Were there suicide bombers in
Vietnam
http://wiki.answers.com/Q/Were_there...ers_in_Vietnam
Trích đoạn: “There are accounts of VietCong soldiers being
chained with their machine guns to strategic positions. One hopes
the unfortunate soldier had a say in this...” (Có những câu
chuyện lính Việt cộng bị xiềng vào các ổ súng máy tại các vị trí
chiến lược. Hy vọng là những người lính bất hạnh này được có ý
kiến về vấn đề này...”)
-The Phantom Blooper: Travels
With Charlie
http://www.gustavhasford.com/blooper2.htm
Trích đoạn: “The Viet Cong schoolhouse is a spacious building of
handmade yellow bricks and... about Marines finding dead Viet
Cong children, chained to machine guns...” (“Trường học của việt
cộng là một ngôi nhà khoảng khoát xây bằng gạch vàng và... về
lính thủy quân lục chiến [Mỹ] tìm thấy những đứa bé Việt cộng
chết, bị xiềng vào các ổ súng máy...”)
-Vietnam War Bibliography: The
Communists
http://www.clemson.edu/caah/history/...oise/comm.html
Trích đoạn: Thomas Campbell, “Facing the Enemy.” Naval History,
February 1996, pp. 42-45. Campbell became an adviser to RVN
Marines late in 1965. “Interesting items include an incident of a
PAVN soldier who only appeared to be chained to his machine gun.”
(Những mục kỳ thú là cảnh một người lính quân đội nhân dân có vẻ
như là đã bị xiềng vào ổ súng máy.”)
-The girl in the picture: the
story of Kim Phuc, the photograph
http://books.google.com/books?id=Fn7... death&f=false
Trích đoạn: “...They found three Viet Cong dead: one in the
tunnel opening in the garden; two in the house, one of them in
his machine-gun nest, the leader having chained him at the ankle
there to ensure that he fought to his death.” (Họ tìm thấy ba
việt cộng chết: một trong hầm mở ra phía vườn; hai ở trong nhà,
một trong hai người này nằm trong tổ súng máy, tên đầu lãnh đã
xiềng mắt cá của hắn vào súng để cầm chắc là hắn sẽ chiến đấu cho
đến chết.”)
[3]
Tài liệu sau đây:
-U.S. Troops Find Viet Cong
Chained
http://news.google.com/newspapers?ni...g=2776, 4670842
Trích đoạn: SAIGON (UPI)- “American soldiers have reported seeing
Viet cong troops chained to their machineguns and communist
snipers lashed to trees on several occasions during the past few
months...” (Quân lính Mỹ báo cáo là đã thấy lính Việt cộng bị
xiềng vào súng máy và những tên bắn sẻ bị buộc chặt vào thân cây
trong nhiều trường hợp trong những tháng vừa qua...”)
[4] Tài liệu
sau đây:
-Red crew chaind in tank
http://news.google.com/newspapers?ni...pg=6983, 841923
Trích đoạn: AN LOC, south Vietnam(UPI)- “There was a body outside
the North Vietnamese tank, apparently of the tank commander. Down
inside were two more bodies, dead from a direct hit by an
antitank M72 rocket. I saw something glint in the darkness. I
felt the man’s ankle, It was chained to the inside of the tank
with quarter-in thick chain links.” (Có một xác người phía bên
ngoài xe thiết giáp của Miền Bắc, hẳn là xác của viên điều khiển
chiến xa. Trong xe, phía dưới là hai cái xác nữa, đã chết vì bị
một quả phóng lựu M72 chống thiết giáp bắn trúng. Tôi thấy có cái
gì lấp lánh trong khoảng tối. Tôi sờ phải mắt cá của một tên. Mắt
cá của tên này bị xiềng lại ở trong xe bằng những sợi giây xích
dày khoảng ¼ phân Anh.)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Mùa QH 30-T4-Đ/2018. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by LT chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, April 20, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang