Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản
mạn Tù cải tạo
Chủ đề:
30–T4–Đ
Tác giả:
Đinh Văn Tiến Hùng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Học
giả Nguyễn văn Vĩnh phê bình trong tạp chí Đông Dương về thói
quen hay cười của người Việt như sau:
“An–Nam
ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười,
người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì, phải cũng hì,
quấy cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng mọi việc hết nghiêm trang.”
Lão Hồ tặc khen thơ của tên bồi bút Huy
Cận:
“Cám
ơn chú biếu bác quyển thơ,
Bác xem quyển
thơ suốt mấy giờ,
Muốn bác phê bình, khó
nói quá,
Bài hay chen lẫn với bài vừa.”
Ta nghĩ gì về hai lời khen chê trên
đây?
Lời chê
của Nguyễn văn Vĩnh có phần khắt khe chủ quan, tuy buồn nhưng ta
cũng mỉm một nụ cười.
Còn lời khen của lão Hồ thì thua câu ca
dao chú bé ê a trên mình trâu, như một bức tranh khôi hài khiến
ta Buồn cười.
Ở đời truyện Vui cười nhiều hơn truyện Buồn cười. Nhưng trong
trại tù Việt cộng lại có phần nghịch lý vì Buồn cười lại “áp đảo”
Vui cười.
Tôi
đã trải qua gần mười năm khổ nhục trong các trại tù từ Nam ra Bắc
nên nhập tâm biết bao câu truyện Buồn cười.
Tên thủ tướng Việt cộng cử nhân giấy
trường đảng đã sáng chế ra cách phát âm tiếng nước ngoài vượt xa
tên Bùi Hiền muốn đổi văn hóa nước ta sang văn hóa tàu cộng.
Ma–de–in (made in), Bờ–lờ–mờ (BLM)... vì theo tên Phúc cách Việt
hóa tiếng nước ngoài như thế “bình dân học vụ” hơn.
Đây chỉ là những câu truyện khôi hài
cán ngố coi mình là “Đỉnh cao trí tuệ” mua vui bạn đọc giải sầu,
còn bao nỗi đắng cay khổ cực mà người tù bị đày đọa trong ngục tù
việt cộng các bạn đồng tù đã nói đến nhiều rồi.
1. Trong tù có hai loại thực
phẩm đặc sản “chất lượng” là khoai mì và khoai lang dùng
quanh năm, thái mỏng đem phơi khô dự trữ trong kho. Để lâu lên
men xanh lè ăn đắng ngắt, nhưng cán ngố nói cũng còn nhiều chất
bổ dưỡng vì 5 củ khoai bổ bằng 1 quả trứng gà đấy.
Đang hì hục dàn trải phơi khô những lát
khoai mỏng, bỗng mây đen kéo đến phủ bầu trời báo hiệu sắp đổ
mưa. Tên lính già hồ la lớn chỉ vào anh bạn tù:
–Anh này chạy vào kho mau lên! Lấy loại
bao ma–de–in ra đây!
Người bạn vào kho loay hoay tìm kiếm
rồi chạy ra:
–Bá cáo cán bộ không thấy loại bao đó!
Tên cán ngố bực mình càu nhàu rồi vào
kho mang ra một đống bao ném xuống quát to:
–Các anh là những sĩ quan khoe khoang
có học mà không biết loại bao này cả thế giới đều dùng, nhất là
các nước anh em như Liên sô, Trung quốc.
Chúng tôi Buồn cười cùng ồ lên một
tiếng thì ra là bao “ma–de–in”.
Như vậy chúng tôi đã biết loại sáng chế
phát âm đặc sắc này trước tên thủ Phúc gần nửa thế kỷ rồi.
2. Những ngày đầu vào trại tù,
chúng tôi được phát mỗi người mấy trang giấy để làm bài “tự
kiểm”, kể lại tiểu tiết 3 đời dòng họ từ ông cố nội đến bố mẹ.
Rồi đến lý lịch và tội ác với nhân dân của chính mình gây ra.
Thật là nhiêu khê, không có tội cũng
phải kiếm ra tội, vì thế có vài anh con ông cháu cha thuộc loại
lính kiểng thành phố, cũng phịa ra vài trận đánh đông dẹp bắc cho
oai, nhưng vô tình chính mình lại ghép tội mình. Cùng chung trại
chúng tôi có một Linh Mục Tuyên úy tính rất cương trực, vui vẻ
hoạt bát, viết trong tờ tự kiểm: cấp bậc, số quân, đơn vị và kết
thúc là không có tội gì cả. Ngày hôm sau cha được gọi lên cán bộ
“chấp pháp” ta gọi là an ninh. Tên cán bộ trông già tuổi đảng,
mặt bủng xanh chắc chui trong rừng núi quá lâu, nhìn đối tượng uy
hiếp phủ đầu:
–Anh mang “quân hàm” đại úy, ở một quân chủng ác ôn lại nói là
không có tội ai mà tin.
Cha bình thản trả lời:
–Tôi chỉ giúp về tinh thần cho binh sĩ,
không cầm súng chiến đấu.
Tên cán bộ lên mặt dạy đời:
–Tội anh còn lớn gấp nhiều lần những
tên ngụy cầm súng giết người. Trước khi những tên này ra trận anh
còn làm phép chúc lành được thắng trận, giết nhiều nhân dân.
Thấy vị tuyên úy không trả lời hắn bồi
thêm:
–Tôi
thường thấy anh nhỏ to với từng người tù để ban phép tha tội,
thật hồ đồ! Tội anh đảng và nhà nước chưa tha mà anh lại tha tội
cho người khác. Anh về suy nghĩ “thành khẩn” khai báo lại đầy đủ
và “khẩn trương” nộp bài tự kiểm. Câu chuyện Buồn cười trên tôi
đã được cha chia sẻ trong tâm tình riêng tư.
Sau này khi ra tù, chúng tôi thường lui
tới thăm nhau và trong bữa cơm thân mật tại gia đình trước khi
tôi đi định cư Hoa Kỳ, cha cho biết đã từ chối đi tị nạn theo
diện HO. Cha muốn ở lại để giúp đỡ tín hữu và Giáo hội VN trong
hoàn cảnh còn cần nhiều chủ chăn.
3. Sau 1 tuần viết bản tự kiểm,
chúng tôi bắt đầu “lên lớp” học chính trị với những bài kể tội Mỹ
ngụy đã được soạn trước do trung ương đảng đưa xuống dạy cho tất
cả các trại tù. Tên chính trị viên nói thao thao sùi bọt mép,
chắc đã học thuộc lòng từ trước...
Nghỉ 15 phút trở vào, hết phần kể tội
Mỹ ngụy là phần dương cao thành tích đảng.
Vào ngày 23/7/1980, các loa phóng thanh
được mở hết cỡ, ca tụng thành tích “hoành tráng” của chiến sĩ lái
Phạm Tuân đã cùng 2 phi hành gia Liên xô được phóng vào vũ trụ
trên con tàu Soyur 37, để thí nghiệm các mẫu khoáng chất trong
tình trạng không trọng lực. Riêng Phạm Tuân đem bèo hoa dâu lên
gây giống và nếu “đáp án” thành công ta có thể trồng đại trà và
mang cả lợn lên nuôi. Rồi đây nhân dân ta ăn thịt không hết, có
thể xuất khẩu qua các nước anh em. Rộ lên tràng cười và tiếng vỗ
tay kéo dài. Buổi học tạm ngưng một lúc để theo dõi chuyến bay
“ké” lịch sử này.
Anh bạn ngồi bên tôi thì thầm: “cũng là
một loại làm lơ như lơ xe đò thôi có gì lạ đâu”.
Được cổ võ nhiệt tình, tên giảng viên
cao hứng tiếp tục:
–Các anh có nghe 2 vị nữ anh hùng nhân
dân ta là đồng chí Nguyễn thị Bình và Nguyễn thị Định đã xuất sắc
đóng góp to lớn vào việc “bình định” đất nước không?
Câu hỏi không cần trả lời vì tên này
cũng biết dùng 2 tên “lính cái” ghép lại 2 chữ “bình định” để
khoe khoang tuyên truyền bịp bợm.
Hết truyện trong nước, hắn còn mở rộng
tầm hiểu biết ra tận nước ngoài khi nhắc đến hai thằng 1– răng và
1– rắc (Iran, Iraq) không yêu chuộng hòa bình như ta, cứ hăm dọa
đánh nhau.
Truyện người, truyện ta, đến truyện mình, tên chính trị tự đắc
hỏi:
–Còn các
anh có gì cần “giải tỏa” cứ hỏi tôi sẽ giải “đáp án” cho.
Một anh bạn giơ tay hỏi:
–Cán bộ so sánh hai miền Nam Bắc thấy
thế nào?
–À
câu hỏi hay đấy nhé! Tôi đã có dịp vào Nam “giao lưu” học tập với
cán bộ MTGP. Miền Nam đúng là “phồn vinh giả tạo” toàn đồ phế
thải thằng Mỹ để lại. Này nhé, tôi thấy “Sữa Honda” đem ra bán lề
đường bụi bẩn thật không vệ sinh. Ngoài Bắc rửa rau có ao rộng
rãi nước trong xanh tha hồ tắm giặt. Miền Nam chật chội đưa rau
rửa trong một cái lỗ tròn, trước khi bỏ chạy còn mắc thêm sợi
giây để đánh bẫy, đụng vào đồ ăn chui đi đâu mất.
Tôi chợt nghĩ: Thật là cán ngố chữ tác
đánh ra chữ tạc, dấu hỏi đọc thành dẫu ngã, làm gì có “Sữa
Honda”, đấy là nơi Sửa xe Honda bố ạ!
Còn rửa rau sao lại bỏ vào bồn cầu, lại
ngu bỏ mẹ táy máy giật giây đồ biến mất còn gì.
Hắn còn phê bình nhà cửa Mỹ ngụy xây
mất trật tự, không ngay hàng thẳng lối như miền Bắc. Miền Bắc
rộng rãi thênh thang, nhà cửa xa nhau thoáng mát. Tài nguyên
“chất lượng” nhiều mỏ vàng, bạc, có cả kim cương nhưng chưa khai
thác. Còn dầu lửa thì ê hề, cứ cắm ống xuống đất là dầu phụt lên
khắp nơi...
4. Mấy năm sau các bác sĩ VNCH từ các trại tù Miền Bắc
được gọi về làm việc lại, vì các bác sĩ việt cộng trình
độ như y tá Nguyễn tấn Dũng không đọc được các hướng dẫn về thuốc
bằng tiếng nước ngoài và không biết sử dụng máy móc, y cụ tối
tân. Trại không còn bác sĩ săn sóc bệnh nhân, nên anh em đề nghị
với cán bộ để một Đại đức Tuyên úy Phật Giáo biết về Đông Y thay
thế. Đại đức còn rất trẻ chưa đến 30, nhỏ nhắn trắng trẻo, hòa ái
như chú tiểu Lan trên chùa Long Giáng trong truyện Hồn Bướm Mơ
Tiên của Khái Hưng và thầy cũng thường phụ với bác sĩ mới được
về, nên ban “khung” trại chấp thuận.
Tôi và thầy cùng đội nhà bếp. Tôi và
người bạn phụ trách giã gạo cho gia đình bộ đội, còn tù ăn khoai
không cần giã. Hai người giã gạo đứng cuối thân cây nằm dài, đầu
kia gắn chiếc vồ cũng bằng cây. Hai người giã đạp chân nhún nhảy
lên xuống để chiếc vồ đập xuống giã gạo trong lòng cối, tay phải
bám vào giây phía trên khỏi ngã (giải thích 1 chút cho các cháu
sinh tại Mỹ như thằng Tý cháu tôi biết về chiếc cối thời tiền sử
này vì chúng chưa được trông thấy bao giờ.)
Tôi không thề ngờ 20 năm sau còn nhìn
lại hình ảnh bà bác và chị họ giã gạo trong đêm hòa cùng tiếng
kinh cầu. Người tù ốm o kéo chiếc xe ba–gác chở gạch, gò người
quỵ gối kéo xe gạch vượt đồi về trại xây khu biệt giam cho chính
mình và anh em tù. Tôi đã thấy 2 phụ nữ và một cụ già kéo cầy
thay trâu... Những hình ảnh này vẫn còn nguyên sơ như thời đồ đá
mà nhiều người gọi là thời đồ đểu.
Những lúc giã gạo xong, tôi thường theo
Đại đức vào rừng kiếm những loại rau mà thầy biết là ăn được để
tăng thêm chút dinh dưỡng vào chảo canh xơ mít muối. Còn thầy tìm
kiếm những lá làm thuốc. Hai người đang lom khom tìm kiếm, bỗng
trời đổ mưa, chúng tôi vội quàng tấm nhựa chạy vào hốc cây trú
mưa.
“Tranh
thủ” lấy ra mấy củ khoai ăn trưa, tôi hỏi thầy:
–Thầy học thuốc Đông Y do ai truyền
dạy?
–Sư phụ
tôi dạy và cũng đọc thêm sách để tìm hiểu.
Anh cứ hỏi và đừng gọi tôi là thầy hay
Đại đức, mình là bạn tù mà.
–Nếu thầy cho phép tôi xin gọi là anh.
Vì mỗi sáng anh em tù xếp hàng trước khi đi lao động, tôi thấy
anh thường đem ra hai chảo thuốc, một chảo đặc và một chảo loãng,
tại sao phải phân biệt như thế? Anh mỉm cười trả lời:
–Chảo đặc cho người bệnh, chảo loãng
cho người chưa bệnh.
Đây là thuốc tâm lý có bệnh thì bớt
bệnh, chưa bệnh thì thấy khỏe thêm đôi chút. Anh thấy chiếc vườn
Đông Y tôi trồng nhiều loại rau thơm dùng nấu hai chảo thuốc bổ
đó đấy, nhưng bí quyết này chỉ hai anh em mình biết với nhau thôi
nhé, cấm bật mí cho người thứ ba.
Sau này chúng tôi phải chia tay nhau
chuyển qua trại khác, những tôi vẫn nghĩ đến vị Đại đức thật đôn
hậu dễ mến.
5. Người ta thường biện luận 2 câu nói trái chiều nhau
“Anh hùng tạo thời thế hay Thời thế tạo anh hùng?”. Tôi
không phải người ba phải nhưng chủ trương thuyết trung dung. Vì
hai nguyên lý thường hỗ trợ cho nhau mới dễ thành công.
Đọc trong sử Việt, cậu bé nghèo, nhưng
không buồn tủi Đinh Bộ Lĩnh cỡi trâu tập trận bông lau, mà sau
dẹp loạn 12 sứ quân hùng cứ, lập nên sự nghiệp vẻ vang.
–Hưng Đạo Đại Vương vang danh 4
bể, gác những mối buồn xích mích trong vương phủ, qui tụ
được nhiều danh tướng, 3 lần đánh tan đại quân Nguyên Mông, giữ
yên non sông bờ cõi.
–Quang Trung Nguyễn Huệ bỏ qua
chuyện bất hòa giữa 3 anh em, cùng chung sức nhất quyết
đánh tan quân Thanh, đạt chiến thắng vẻ vang, đem lại thanh bình
cho dân tộc trong Mùa Xuân Kỷ Hợi 1783.
–Nguyễn Trãi theo cha là Nguyễn
Phi Khanh bị bắt giải về Tàu, đến cửa Nam Quan cha ông
quay lại nói rằng: “Con hãy cười lên, gác nỗi buồn riêng tư quay
gót trở về Nam trả thù cho cha và rửa hận cho nước.” Vâng lời
cha. Nguyễn Trãi tìm đến giúp Lê Lợi khôi phục lại Giang Sơn và
lưu lại hậu thế quyết sách “Bình Ngô Đại Cáo” làm kim chỉ nam mưu
lược thắng quân thù.
–Ông Ngô Đình Diệm tài đức vẹn
toàn, buồn vì đất nước phân ly, dân tình cực khổ, từ bỏ
đời sống nhàn hạ nước ngoài, trở về nước giữa lúc dầu sôi lửa
bỏng, thù trong giặc ngoài, quấy phá tan hoang, can trường đứng
lên xây dựng nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa đem lại đời sống thanh
bình no ấm cho dân tộc...
Nhưng ta không thể kể hết được biết bao
tấm gương hy sinh cho Tổ quốc dân tộc mà khi nhắc đến họ dòng máu
con tim dân Việt dâng trào niềm hãnh diễn và cảm phục...
Xin trở lại đề tài cuộc sống khổ cực
trong chốn tù đày cộng sản, buồn mà vẫn vui sống.
6. Nổi bật nhất là Hồng Y
Nguyễn văn Thuận vẻ vang dân Việt, một tù nhân kiệt xuất
vẫn luôn tươi cười với cai tù. Ngài dùng thời gian miệt mài gọt
giũa những sợi kẽm gai tạo thành cây Thánh Giá và những tờ lịch
vứt bỏ viết thành tác phẩm tuyệt vời “Đường Hy vọng”. Người tù bị
biệt giam 13 năm, sau trở thành Hồng Y Tổng trưởng Công lý Hòa
bình trong Giáo triều Roma.
Rồi các nhạc sĩ sáng tác những bản tù
ca buồn thương – Nhiều ngục sĩ lưu lại những vần thơ đầy uất hận
như Nguyễn chí Thiện... Những bàn tay không chuyên nghiệp tạo ra
nhạc cụ như vĩ cầm, tây ban cầm, ống sáo, chiếc trống... phối hợp
thành một ban nhạc sống động quên buồn trong các đêm văn nghệ.
Những chiếc ống điếu hút thuốc lào giải sầu. Những mảnh bom vỡ
vụn biến thành chiếc lược chải đầu hay vòng đeo tay có chạm khắc
hoa văn và tên vợ con hay người yêu, làm quà kỷ niệm trong buổi
thăm nuôi chóng qua đầy xúc động.
Phải chăng bao nỗi buồn đã trở
thành những niềm vui san sẻ cho nhau?
Viết đến đây tôi lại nhớ đến một truyện
Buồn cười “liên hệ” đến 2 bạn tù. Một anh sĩ quan gốc người Miên,
khi đang theo học tại trường Mỹ nghệ Điêu khắc, anh đã chạy thoát
chế độ diệt chủng tàn bạo của Pol Pot. Sang Viêt Nam anh tình
nguyện gia nhập đơn vị Dân sự chiến đấu tại trại biên phòng do
người Mỹ hỗ trợ, vì có học anh được cử làm Đại đội trưởng. Khi
quân đội Mỹ rút về nước, các trại DSCĐ được chuyển sang Biệt Động
Quân biên phòng và anh được cải tuyển thành sĩ quan, nên bị việt
cộng bắt đi tù cùng với các sĩ quan QLVNCH. Anh không có thân
nhân thăm nuôi, nhưng có tài điêu khắc, khi đi lao động trong
rừng anh lượm những mảnh bom hay gỗ mun gẫy vụn đem về trại trạm
trổ các vị thần Khmer. Thán phục tài năng và giúp phần nào cho
anh, các bạn tù nhờ khắc tượng Phật, tượng Chúa hay Đức Mẹ... và
chia sẻ cho anh ít quà thăm nuôi.
Một hôm sau ngày lao động, cán bộ đưa
tù ra tắm ngoài suối trước khi về trại. chợt tên cán ngố thấy một
anh đeo trước ngực bức tượng nhỏ, tiến tới hỏi:
–Anh kia đeo ai trước ngực đó?
Anh ngập ngừng suy nghĩ rồi trả lời:
–Thưa cán bộ ông Mác đấy ạ!
–Sao anh biết là cụ Mác lại có râu ria
mà làm?
–Tôi
xem trong báo cán bộ chính trị mang xuống “lán” cho mượn đọc.
–Vậy anh tự làm hay anh nào làm cho
anh?
–Tôi tự
làm lấy.
–Giỏi
đấy! Tên coi tù khen rồi bước đi giục tù tắm “khẩn trương” để về.
Tôi với anh bạn tù khá thân, nên ngày
hôm sau tôi hỏi anh:
–Có thật là ông Mác không?
Anh mỉm cười, nhưng vẻ hơi buồn và hối
hận:
–Thú thật
với bạn lúc đó mình hơi run, lại sợ Chúa bị bắt nộp và còn liên
lụy đến anh bạn người Miên, nhưng mình thấy lương tâm thổn thức
như có ai gọi, nên thì thầm trong lòng “Xin Chúa hãy tha thứ cho
con, vì con không muốn bán Chúa như tên Giu–đa phản bội xưa đâu!”
Hơn 40 năm qua hiện tôi vẫn còn giữ lại
một kỷ vật quý từ trong tù mang về cũng do anh người Miên khắc
hộ, đó là tượng “Đức Mẹ Đen” nhỏ bé xinh đẹp đã được làm phép.
Tôi treo ảnh Đức Mẹ nơi bàn viết để nhớ lại những kỷ niệm vui
buồn trong tù và câu truyện Buồn cười của hai bạn tù xưa.
7. Tết là ngày Lễ truyền thống
của dân tộc, khắp nơi tràn đầy hình ảnh vui tươi “hồ hởi
và hoành tráng”. Nên trong tù cũng mang không khí tuy buồn cười
mà cũng vui, nào là quét dọn sạch sẽ, trang hoàng khẩu hiệu, gói
bánh chưng, làm báo liếp, thể thao, văn nghệ, chiếu phim.
Những ai ở trong các ban bệ nêu trên
được nghỉ lao động 3 ngày để chuẩn bị và tập dượt. Tôi nhờ có
chút tài mọn được anh em bầu làm trưởng báo liếp (làm gì có tường
xây gạch). Tôi chọn 1 anh viết chữ đẹp và 1 anh biết vẽ. Sau đó
xin cán bộ quản giáo cung cấp giấy, bút mực và hồ gián. Riêng hồ
tên cán bộ nói xuống nhà bếp lấy. Anh tù bếp trưởng mỉm cười nháy
mắt đổ đầy bột vào lon ghi–gô. Thế là 3 chúng tôi được một bữa
“bồi dưỡng” bột, chỉ cần để lại một ít gián báo.
Doanh trại được quét dọn sạch sẽ, trang
hoàng cờ và khẩu hiệu. Ngoài cổng chính hàng chữ màu đỏ giữa 2 lá
cờ máu: “Chúc Mừng năm Mới”. Trong hội trường dưới hình già hồ
“Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp chúng ta”. Trước các “lán
trại” những hàng chữ nhàm chán: “Không có gì quý hơn độc lập tự
do – Học tập tốt lao động tốt – Lao động là vinh quang, vui xuân
không quên học tập lao động tốt – Nam Bắc vui xuân không quên
‘phấn đấu tiến mau tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa...’”.
Trại tù giữa núi rừng biên giới, tiếp
tế khó khăn, thực phẩm khan hiếm, không có thịt heo, gạo nếp và
đường để gói bánh chưng, nên đội nhà bếp sáng chế ra một loại
bánh chưng không đâu có bằng “bột khoai mì, nhân khoai lang”.
Chương trình 3 ngày mừng xuân
cũng nổi đình đám như ai:
–Mùng 1 Tết: Sáng tập
trung tại hội trường nghe thư chúc Tết của chủ tịch nước gởi đồng
bào toàn quốc – Tiếp theo là trưởng trại ngỏ lời chúc xuân đến
cán bộ và gia đình cùng các trại viên (tù nhân) – Rồi đến đại
diện trại viên chúc lại các cán bộ.
Buổi chiều thi đua thể thao như kéo
giây, cờ tướng và đặc biệt là màn đấu bóng chuyền “giao lưu” giữa
cán bộ và trại viên, kết quả phần thắng 3–1 về phe ta tuy thiếu
dinh dưỡng nhưng chơi rất “nóng bỏng” và đoạt cúp 10 bao thuốc lá
Cửa Lò và 10 chiếc bánh chưng hảo hạng. (màn thi bóng chuyền này,
phe ta với tinh thần thượng võ cũng nhường cho địch thủ thắng 1
bàn để khỏi mất mặt.)
–Mùng 2 Tết: Buổi sáng
trình diễn văn nghệ “hoành tráng” tại hội trường với nhiều tiết
mục do toàn nam chuyển giới như đơn ca, song ca, đồng ca, hài
kịch... nhưng 2 mục được cổ võ nhiều nhất bằng những tràng pháo
tay náo động là Ca Vũ khúc “Tiếng chày trên sóc Băm–bo” và “Táo
cải tạo du xuân” gồm đủ 3Đ là (Đồng hồ – Đài phát thanh và xe
Đạp). Những “đặc sản” mà các cán ngố mơ ước khi mới vào Nam (các
vật quý này do cán bộ cho mượn, nhưng hứa phải “quản lý nghiêm
túc” khỏi phải “thu phí” khi trả lại cho chủ nhân.)
Buổi tối là xem chiếu phim gồm 3 bộ:
“Chiến thắng Điện Biên, Giải phóng Miền Nam và bác Hồ với thiếu
nhi” – Phim quá cũ hay đứt đoạn, giọng thuyết minh vẫn hăng say
tự hào. Nhưng đó là công lao đáng biểu dương của đội tù trực phải
lội bộ lên huyện xa 10 cây số gồng gánh đem về.
–Mùng 3 Tết với mỹ từ
giả tạo “trồng cây nhớ ơn bác”. Mỗi người được giao 100 gốc khoai
mì, hì hục đào hố trên đồi đá để trồng, mãi đến khi trời tắt nắng
mới xong. Về trại mệt nhoài, phần ăn thường ngày vẫn là hai củ
khoai. Còn chiếc bánh chưng đặc biệt cuối cùng ngày Tết phải dành
hôm sau cho 1 ngày lao động kiệt lực.
Đốt một điếu thuốc thả hồn thơ buồn
trong khói, tương lai mờ khuất trong màn đêm. Thương cho kiếp
sống mình và những bạn tù bị biệt giam nơi hốc đá trong đêm lạnh
buốt! Nụ cười buồn khép kín đến bao giờ!
Trong màn đêm, tôi chợt nhớ đến câu
“Buồn vào hồn không tên” trong bài “Nửa đêm ngoài phố” của nhạc
sĩ Trúc Phương và lời thơ “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”
trong bài thơ “Chiều” của Xuân Diệu được nhạc sĩ Phạm Duy phổ
nhạc mang tên “Mộ khúc”. Tôi không đồng ý với 2 thi nhạc sĩ nêu
trên, vì họ sống trong một không gian đầy mộng mơ trong lúc sáng
tác. Còn chúng tôi, những người tù đang sống khổ nhục nơi đây, có
cái buồn rất nghiệt ngã. Buồn vì đất nước mất đi cuộc sống thanh
bình no ấm. Buồn vì tuổi trẻ mất đi một thời tươi đẹp nhất đang
nở hoa, nhưng cũng mỉm cười để sống không chỉ cho mình và cho cả
thế hệ mai sau.
Phần đông, những anh em tù như chúng
tôi qua đất nước mới tuổi đã xế chiều, cần giúp đỡ gia đình làm
lại cuộc sống, không thể tiếp tục cắp sách đến trường để có 1 văn
bằng cho cuộc đời khả quan hơn. Nhưng phải chấp nhận vui sống, hỗ
trợ cho con cháu trưởng thành vươn lên đóng góp trả ơn cho quê
hương thứ hai với những tướng lãnh, khoa học gia và các chuyên
viên... xuất sắc trong mọi lãnh vực.
Chúng tôi tựa như những cây bon–sai,
cội gốc xù xì cũng cố chồi lên những nụ hoa góp đẹp cho đời.
Đến đây truyện lan man vui cười trong
ngục tù việt cộng đã dài, xin kết thúc bằng 1 truyện Buồn cười
bên lề nhà tù:
Xưa kia triết gia Hy Lạp Socrate rất
nổi tiếng, nhưng nhà nghèo, nên ngoài 50 tuổi ông mới kết hôn với
người đàn bà trẻ đẹp, nhưng dữ dằn như “Sư tử Hà đông”.
Ông dạy học không lấy tiền nên càng
nghèo túng. Một hôm đang ngồi đàm luận với môn sinh, bà vợ chửi
rủa ầm ĩ, ông vẫn thản nhiên như không có gì xảy ra. Bà vợ tức
điên lên cầm cả chậu nước tát vào mặt ông. Dù buồn nhà hiền triết
không hề phản ứng, một lúc sau ông mới điềm tĩnh mở nụ cười nói
với môn sinh: “Sau cơn sấm xét thì lại có mưa giông.”
Đọc câu truyện trên bạn nào đã cưới vợ
chằng tinh, tuy buồn nhưng vẫn phải cười mà sống. Còn những ai
không muốn đến trường hay phải mua bằng “Triết giả” như các cán
ngố cầm quyền, hãy học theo Socrate.
–Ngồi
buồn mà trách ông xanh,
Khi vui muốn
khóc, buồn tanh lại cười
[*]
Trong tù cay đắng một thời,
Biết bao
buồn khổ vẫn cười đấy thôi!
ĐINH VĂN TIẾN HÙNG
[*]
Ghi chú:
Trích 2 câu đầu trong bài thơ “Vịnh cây thông”
của Nguyễn công Trứ.
–Vì thời gian đã lâu soi mòn trí nhớ,
mong Quý vị và Huynh Đệ đồng tù bỏ qua những gì sai sót.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: phong cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by th chuyển
Đăng ngày Thứ Năm,
November 26, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang