Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản
mạn giầu–nghèo
Chủ đề:
30T4Đ
Tác giả:
Lâm Văn Bé
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Nhưng trong cái rực rỡ “hoành
tráng” ở các khu phố sang trọng ấy, VN hôm nay vẫn còn có người
cụt chân lê lết trên đường đưa nón xin tiền, có đứa trẻ lem luốc
chạy theo khách mời mua vé số, có bà già dựng chiếc xe đạp bên lề
đường với cái giỏ đựng những đồ chơi trẻ con bằng nhựa. Đâu đó,
trước cửa hàng Vuiton, một nhóm người tay cầm Iphone nhi nhô
tiếng Việt tiếng Anh lơ lớ, nhưng ngập ngừng không dám vào “tham
quan” vì thấy... mình không giống ai từ túi tiền đến y phục. Đó
là mặt thật của giầu nghèo ở VN hôm nay và cái phũ phàng đổi đời
của “áo rách về làng”.
“... Không, Việt Nam hôm nay không
giầu mà chỉ có đảng giầu. Đảng viên và bọn “ăn theo” đảng càng
giầu thì người dân càng nghèo. Thành phố càng mọc lên nhiều cao
ốc, ngoại ô càng xây thêm nhiều hãng xưởng thì người dân càng mất
đất mất nhà, và người dân nhiều thế hệ sẽ không bao giờ trả hết
nợ ngoại bang...”
Sau 46 năm cộng sản
cưỡng chiếm miền Nam để thống nhứt thành một nước Việt Nam cộng
sản, nhiều người đặt câu hỏi là “Việt Nam hôm nay giầu hay
nghèo”.
Câu trả lời tùy vị trí và tri thức của người trả
lời. Đối với người Việt trong nước, câu trả lời tương đối dễ dàng
qua cảm nhận và quan sát từ cuộc sống của họ và đồng bào của họ.
Đối với người Việt xa xứ từ lâu và người ngoại quốc chưa đến Việt
Nam, câu trả lời có thể khó hơn và phiến diện bởi lẽ tùy thuộc
vào quan điểm chính trị và kiến thức sàng lọc qua truyền thông,
sách báo. Đó cũng là trường hợp của tác giả bài viết này.
Rời Việt Nam khi cộng quân tiến vào Sài Gòn và chưa bao giờ trở
về thăm đất tổ vì cộng sản vẫn còn đó, tác giả cũng như một số
đồng hương cùng cảnh ngộ chỉ biết Việt Nam qua truyện kể và
truyện đọc. Bởi lẽ truyện đọc là nghề nghiệp và cũng là thú tiêu
khiển, tác giả xin trình bày với độc giả một số tài liệu gọi là
chọn lọc, cập nhật để giúp độc giả khả dĩ có một câu trả lời. Nói
gọi là vì trong thời đại bùng nổ truyền thông và các xảo thuật
biến hóa bởi con người và máy móc, sự trung thực hoàn toàn phải
hiểu là rất hiếm, đặc biệt tài liệu xuất phát từ cộng sản Việt
Nam. Trong nhận định ấy, những con số thống kê có khi chỉ nên coi
như độ lớn, và bài viết như một tổng quan hay toàn cảnh
(panorama).
Vài ý niệm và định nghĩa về danh từ nghèo
Trước tiên phải có ý niệm sao gọi là nghèo. Từ những công
trình nghiên cứu của nhà kinh tế Benjamin S. Rowntree vào đầu thế
kỷ XX đến kinh tế gia người Ấn đoạt giải Nobel năm 1998 là
Amartya Sen, rất nhiều nghiên cứu của các kinh tế gia đã đưa ra
những lý thuyết, định nghĩa về hiện tượng nghèo, nhưng không một
lý thuyết nào được sự đồng thuận.
Một cách tổng quát, Sen
chủ trương đời sống của người dân không đo lường bằng tài sản mà
bằng bất bình đẳng (inégalité) và khả năng hành động
(capabilité). Một quốc gia, dù cho giầu có, phong phú tài nguyên
mà người dân vẫn cảm nhận nghèo khổ, thiếu thốn, nếu sống trong
một môi trường bất bình đẳng, bất an. Trái lại người dân một quốc
gia kém tài nguyên mà vẫn có thể hưởng được một cuộc sống khả
quan nếu chính phủ biết sử dụng khéo léo tài nguyên và nhân lực.
Quan điểm nghèo đói theo thuyết bình đẳng như trên của Sen đối
nghịch với lý thuyết của John Rawls trong Théories de la justice
theo đó tự do con người gắn liền với lợi tức, và phát triển kinh
tế gắn liền với sự giầu có của người dân (Dictionnaire des
notions. Éditions Universalis, 2006, p. 595).
Tuy nhiên,
nền kinh tế quốc gia và quốc tế cần có một căn bản đo lường để từ
đó các chính sách quốc gia và trao đổi kinh tế thế giới được qui
định, do đó các cơ quan quốc tế như Ngân Hàng Thế giới (World
Bank/WB), Chương Trình Phát Triển Liên Hiệp Quốc (United Nations
Development Programme/UNDP) thường dựa vào các tài liệu nghiên
cứu riêng và chuẩn hóa các thống kê của các quốc gia để qui định
tiêu chuẩn giầu nghèo.
Mặt trái của giầu có Việt Nam – GDP
và lạm chi của chánh phủ
GDP viết tắt từ Gross
Domestic Product (tiếng Pháp là PIB/Produit intérieur brut) là
tổng sản lượng quốc gia gồm trị giá sản xuất hàng hóa và dịch vụ
của toàn dân trong nước. GDP dùng để đo lường cơ cấu kinh tế, mức
độ phát triển và mức sống của người dân. Thông thường có 3 cách
tính GDP, Viện Thống Kê VN sử dụng một trong 3 cách ấy, nhưng áp
dụng không đúng các nguyên tắc quốc tế cốt để thổi phồng trị giá
thực sự. GDP Việt Nam bị nghi ngờ thiếu trung thực, bị các chuyên
gia thế giới và ngay cả trong nước chỉ trích. Sau đây là công
thức tính GDP của VN và một số chỉ trích.
C = Tiêu dùng
của toàn dân,
I = Đầu tư kỹ nghệ,
G = Chi tiêu của chính
phủ,
X–M = Thặng dư (hay thâm hụt) Xuất Nhập Cảng.
– Từ
hàng chục năm nay, các đảng viên quyền lực, các đại gia làm ăn
với đảng đã tẩu tán tài sản tham nhũng ra nước ngoài để mua bất
động sản, đầu tư, chi tiêu xa xỉ... tất cả đều được tính vào mục
chi tiêu của chính phủ, nhưng thực tế, số tài sản này đã ra nước
ngoài. Chỉ trong năm 2018, Hiệp hội Công Ty Địa Ốc Hoa Kỳ
(National Association of Realties/NAR) cho biết các công dân mang
quốc tịch VN mua địa ốc ở Mỹ là 3 tỷ, đứng hạng 9 trong số các
công dân nước ngoài thuộc loại này. Đó là chưa kể số đại gia
chuyển tiền chính thức và phi pháp đầu tư ở các quốc gia lân bang
và Đông Âu, vừa làm thất thoát tài sản, vừa thổi phồng GDP.
– Các chi phí xây lăng, xây tượng, đám tang, lễ hội, họp đảng
đều được tính vào chi phí của chinh phủ. Thí dụ đám tang của Trần
Đại Quang tốn 100,000 USD không kể chi phí của đại diện khắp nước
về Hà Nội xếp hàng dể lậy cái xác người đã bị đảng đầu độc vì
tranh quyền. Để chuẩn bị Đại Hội Đảng lần thứ 13, từ năm 2019,
các đảng viên trên 63 tỉnh, thành phố và trung ương đã nhóm họp
liên miên hầu chọn đại biểu, học tập chính sách, và gần 1600 đại
biểu về Hà Nội 8 ngày từ 26/01/2021 để tấn phong 5 tên đầu đảng
đã được chọn lựa trước. Tất cả phí tổn này đều được tính vào chi
tiêu của chính phủ.
– Ngoài ra, mỗi năm chính phủ phải
nuôi “11 triệu người gồm công chức, công an, đảng viên có công
tác, chiếm 11.5% dân số”. Đó là tin chính thức của Viện Trưởng
Kinh tế đăng trên báo điện tử của đảng (11 triệu người hưởng tiền
ngân sách /vietnamnet.vn ngày 13/06/2019). Như vậy, cứ 6 người
lao động để nuôi một công nhân viên chính phủ mà đại đa số nằm
trong số 5.2 triệu đảng viên. Báo điện tử Vietnamexpress ngày
13/11/2017 cũng của đảng đã tự hào khoe “VN có đông công chức
viên chức nhất Đông Nam Á”. Năm 2019, VN có 22 bộ nhưng có đến
120 thứ trưởng, riêng bộ Quốc Phòng và Bộ Công An mỗi bộ có 9 thứ
trưởng, không kể vài trăm tổng cục, cục, vụ... có cả ngàn cấp
trưởng và phó mà lương cấp trung ương là một bí mật.
Đối
với công chức, năm 2020 lương thấp nhất (C3): 2.2 triệu
đồng/tháng (tương đương 1,320 USD/năm); cao nhất (A3): 22 triệu
đồng/tháng (tương đương với 13,200 USD/năm). Nếu tính trung bình
khoảng 7,000 USD/năm, mỗi năm ngân sách nhà nước phải trả khoảng
77 tỷ USD tiền lương cho đám người “sáng vác ô đi, chiều vác ô
về”. Đó là tiền chi của chánh phủ kể trong GDP.
– Một
nguồn tài sản béo bở đem lại ngoại tệ cho GDP là ngành du lịch.
Chỉ kể từ năm 2010 với 5 triệu du khách, thu vào được 4.5 tỷ USD,
chiếm 3.9% GDP đến năm 2018 tăng lên 15.5 triệu du khách, thu
được 10 tỷ, chiếm 4.2% GDP. (World Tourism Organisation). Mặc dù
tính vô GDP, nhưng thực tế đa số khách sạn và resort cao cấp đều
là sở hữu của ngoại bang, tiền lời họ chuyển về xứ họ.
–
Trong khi tư bản quốc tế và cộng sản Việt Nam tham nhũng chuyển
dollar ra khỏi nước thì dân tỵ nạn lại chuyển dollar về nước.
Khúc ruột ngàn dặm này đa số phải cật lực lao động ở xứ người,
chắt chiu dành dụm để gởi về cho thân nhân thực sự nghèo khổ hay
sống chùm gởi, không kể số tiền chi tiêu của “Việt Kiều về quê ăn
Tết”. Trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến tháng 10/2020, tổng
số tiền gởi về VN là 164.2 tỷ USD, trung bình mỗi năm là 10.2 tỷ,
ít nhứt là năm 2005 với 3.1 tỷ, nhiều nhứt là năm 2019 với 17 tỷ.
Năm 2020, chỉ tính đến tháng 10 là 15.6 tỷ. (xem chi tiết từng
năm trong World Bank. Migrant remittances inflows updated as Oct.
2020). Trung bình, số tiền này chiếm khoảng 7% GDP, chính phủ
dùng một phần số ngoại tệ này để trả nợ vay của thế giới. Chuyện
gởi tiền dai dẳng về Việt Nam như trên xác nhận hai điều: thứ
nhứt là VN vẫn còn nghèo nên phải nhờ thân nhân ở ngoại quốc gởi
tiền về để tạm sống, thứ hai là dân VN đã thấm nhuần các bài học
gian xảo của “Bác” để xin tiền thân nhân với đủ mưu chước để
hưởng thụ. Chuyện gởi tiền này đã làm gia đình người Việt trong
và ngoài nước ly tán, từ thương yêu đùm bọc đến nghi ngờ, lạnh
nhạt rồi thù ghét nhau.
Đó chỉ là vài điều dễ nhận biết.
Chuyện GDP và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chỉ là trò ma
giáo, ảo thuật. Đọc đoạn văn sau đây, độc giả sẽ thấy chế độ cộng
sản đã nhồi nặn các con số thống kê, các tin tức như cục bột:
“Hồi tháng 8/2019, người dân Việt Nam đột nhiên có thu nhập
bình quân của mình tăng từ 2,600 USD lên 3,000 USD/năm, tức
15.38%. Đó là nhờ đảng sáng suốt tìm ra ‘cách tính GDP mới’”. Vài
tuần sau, Tổng cục Thống kê lại thông báo “GDP Việt Nam bất ngờ
tăng thêm 25.4%/năm khi tính lại” Quốc Hội cho phép Chính phủ
được thâm hụt ngân sách 3.6% GDP. Khi GDP tăng ảo 25.4% thì như
phép lạ, ngân sách tự động hết thâm thủng. Đến khi kinh tế suy
thoái, Nguyễn Xuân Phúc tiếp tục dựa vào chỉ số ảo này để chỉ đạo
mượn nợ như sau: “Trong bối cảnh hiện nay nhiệm vụ phục hồi phát
triển kinh tế trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Từ mức nợ công
64.8% GDP trước đây, chúng ta đã giảm còn 57%, nay ta tăng thêm
2% là 59% GDP. Quản lý nợ công chưa phải vấn đề lúc khó khăn
này”. Ngưng trích. (Nguyễn Xuân Phúc tính lại GDP để đi mưọn
nợ/Dân Làm Báo, 10/07/2020).
Từ những con số thống kê của
Việt Nam, WB chuẩn hóa thành mỹ kim (current $US) như sau:
Nguồn: World Bank data
Mặc dù xào nấu số thống kê như trên, so với 10 nước trong khối
ASEAN (Brunei, Cambot, Indonesia, Lào, Mã Lai, Miến Điện, Phi
Luật Tân, Singapore, Thái Lan, VN), GDP đầu người của VN chỉ cao
hơn chút ít Lào, Cambot, Miến Điện vốn là những quốc gia nhỏ, kém
phát triển. Chẳng vẻ vang gì các con cháu của dép râu nón cối sau
46 năm cai trị, VN hôm nay còn thua cả Thái Lan, Mã Lai, Phi Luật
Tân vốn khi xưa là những quốc gia đồng đẳng hay kém hơn Việt Nam
Cộng Hòa, mặc dù chiến tranh xâm lược diễn ra trên lãnh thổ VNCH.
– ODA và nợ công
Để cứu giúp VN thoát
ra tình trạng chậm tiến và nghèo đói, tháng 11 năm 1993, một số
quốc gia phát triển và các quỹ tiền tệ quốc tế (WB, IMF, ADB...)
họp tại Paris để chấp thuận tài trợ cho VN theo chương trình ODA
(Official Development Assistance) tiếng Việt gọi là Chương Trình
Hỗ Trợ Phát Triển Chính Thức. Số tiền tài trợ dưới hai hình thức:
viện trợ và cho vay với lãi suất thấp, thường dưới 3% và thời
gian trả nợ dài hạn (30–40 năm). Trong 10 năm đầu chỉ trả tiền
lời, kể từ năm thứ 11 mới bắt đầu trả tiền lời lẫn vốn. Từ 1993
đến 2018, ODA đã tài trợ cho VN 78.2 tỷ USD trong đó có 11.6 tỷ
viện trợ và 66.6 tỷ vay (Vốn ODA ở VN/tạpchitaichanh.vn
07/11/2020).
Chuyện khôi hài là chính phủ dùng tiền viện
trợ và tiền vay nợ của ODA với lãi xuất thấp đem cho các doanh
nghiệp nhà nước (DNNN), các địa phương vay với lãi xuất cao hơn
để lấy lời. Cộng sản xem ODA như của trời cho hay nghĩ rằng phải
chờ đến 30–40 năm sau mới trả, do đó các đảng viên “có chức” tha
hồ tham nhũng, thi nhau lập dự án để ăn chia từ trung ương đến
địa phương. Việt Nam có hàng ngàn doanh nghiệp nhà nước (DNNN) mà
vốn do nhà nước bơm vào hay do nhà nước bảo lãnh nợ vay, khi làm
ăn thua lỗ vì thiếu khả năng, vì tham nhũng rồi khai phá sản,
quịt nợ. Đó là lý do giải thích tại sao nợ của DNNN Việt Nam
không tính vào nợ công, trái với cách tính của nhiều quốc gia
trên thế giới.
Không trả nợ đúng thời hạn, tiền lời chồng
chất, mượn nợ mới để trả nợ cũ, bù vào ngân sách thâm hụt, nợ
công của Việt Nam đã lên đến mức báo động. Đối với ngành ngân
hàng còn là mối nguy hiểm nghiêm trọng cho tài chánh quốc gia. VN
có 10 ngân hàng nhà nước (NHNN), 7 ngân hàng liên doanh(NN và
doanh nghiệp) và gần 50 ngân hàng tư nhân. Chính phủ phải thường
xuyên bơm tiền vào các ngân hàng liên doanh vì khách hàng ăn chia
với đảng viên quịt nợ (nợ xấu). Chỉ năm 2020 và chỉ 3 ngân hàng
liên doanh lớn (BIDV, Vietcombank, Vietinbank), nợ xấu lên đến
41,265 tỷ đồng (tương đương với 470 triệu USD). (Nợ xấu tại 3 ông
lớn ngân hàng/Firstnewsinworld.com)
Theo Tiến sĩ Vũ Quang
Việt, chuyên gia thống kê Liên Hiệp Quốc cho biết ngay vào năm
2016, nợ công của VN lên đến 431 tỷ USD, bằng 210% GDP. Năm 2018,
chính phủ phải tiếp nhận 19 tập đoàn, tổng công ty thua lỗ với số
nợ là 1.3 triệu tỷ đồng (65 tỷ USD). Riêng Air VN nợ 218,000 tỷ
đồng (11 tỷ USD) (Nợ công của VN/RFA 30/03/2020).
Global
Economy dựa vào thống kê World Bank cho biết: “Việt Nam nợ ngoại
quốc từ 1989 đến 2019 tính theo tỉ lệ với GDP trung bình là
91.26%, ít nhất là 27.5% năm 2008, cao nhất là 384% năm 1990.
Trong số các quốc gia ở Á Châu, VN có tỉ lệ nợ nhiều nhất nếu
không kể Mông Cổ, Cambodge, Lào” (Vietnam External Debt)
Phó Chủ Tịch Ủy Ban Tài Chánh Quốc Hội công bố hồi cuối năm “năm
2020, VN phải trả 318,000 tỷ đồng nợ công, chiếm 27% số thu ngân
sách, và người dân từ trẻ sơ sinh đến người già phải gánh 40
triệu đồng tiền nợ” (Nợ công 40 triệu mỗi đầu người /RFA ngày
20/11/2020). Tính thành mỹ kim, năm 2020, nước VN phải trả 16 tỷ
USD, và mỗi người dân VN phải trả 2,000 USD tiền nợ, trong khi
lợi tức đồng niên trung bình của người nghèo chỉ khoảng 500 USD.
Thu vào 100 đồng mà phải trả nợ 27 đồng, đó là tin chính thức của
Quốc Hội bù nhìn chớ không phải là tin của “bọn phản động”.
– FDI và giầu ảo
FDI là chữ tắt của Foreign Direct
Investment, tiếng Việt gọi là Chương trình Ngoại quốc đầu tư trực
tiếp vào VN khi VN ban hành Luật Đầu Tư nước ngoài năm 1987 và
sau khi Mỹ bỏ cấm vận VN vào tháng 2/1994 dưới thời Clinton. Lúc
ban đầu, từ 1998 đến 2003, FDI thường hoạt động với số vốn đầu tư
nhỏ khoảng 10 triệu USD, nhưng kể từ sau năm 2003, khi chính phủ
VN tu chính Luật Đầu Tư dành nhiều ưu đãi cho đầu tư nước ngoài,
số vốn tăng lên trăm triệu và gần đây tới tỷ. Có 2 hình thức đầu
tư: nước ngoài liên doanh với VN và vốn 100% của nước ngoài.
Theo Cục Đầu Tư Nước Ngoài, cho đến ngày 20/12/2020, VN có
tổng số vốn FDI đăng ký là 384 tỷ USD của 137 quốc gia và vùng
lãnh thổ. Đứng đầu là Hàn Quốc (70.6 tỷ), kế đó là Nhật Bản (60.3
tỷ) tiếp theo là Singapore, Đài Loan, Hong Kong và Trung cộng.
FDI đã làm bộ mặt VN sáng sủa hơn từ hơn 10 năm nay, nhưng VN
cũng phải trả một giá rất đắt. Sau đây là vài thí dụ:
–
FDI có tạo công ăn việc làm cho khoảng 3 triệu nhân công VN tính
đến nay, nhưng không phải là nhân công mới tạo thêm mà chỉ là sự
chuyển đổi từ các ngành thủ công nghệ, nông nghiệp. Điều tác hại
hơn đa số nhân công này là phụ nữ, giá nhân công rẻ, thậm chí còn
sử dụng như nhân công tập sự để dễ dàng sa thải, khỏi phải trả
lương cao vì thâm niên. Một số hãng xưởng thiết lập trên vùng đất
nông nghiệp, nông dân buộc phải bán nhà, bán đất cho chinh phủ
với giá rẻ mạt để rồi chinh phủ bán lại cho tư bản gấp chục lần,
nông dân mất đất canh tác, mất nhà trở nên vô gia cư, vô nghề
nghiệp. Chính sách gọi là kỹ nghệ hóa nông thôn đã bần cùng hóa
nông dân, tạo thêm một lớp người nghèo đói di cư sống vất vưởng ở
ven đô và tạo nên một giai cấp tỷ phú địa ốc mà đa số là đảng
viên hay họ hàng. Hãng xưởng càng phát triển, tư bản đỏ càng gia
tăng, dân càng nghèo khổ. Đó là mặt trái của FDI.
– FDI
đầu tư nhiều vào các ngành dễ sinh lợi mau chóng, đặc biệt ngành
xây cất và địa ốc. VN hiện nay có gần 100 cao ốc hơn 40 tầng ở
Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng và gần như tại mỗi tỉnh đều có một hai
cao ốc. Đó là tài sản 100% của tư bản Á Châu và tư bản đỏ. Đừng
thấy cao ốc mà cho rằng VN hôm nay văn minh, giầu có.
–
FDI có khuynh hướng sản xuất cho thị trường tiêu thụ VN thay vì
để xuất cảng bởi lẽ dễ cạnh tranh với các sản phẩm nội địa vì
phẩm chất cao hơn, bán giá cao hơn để thu nhiều lợi nhuận. Làm
như vậy, chẳng những FDI làm hại các ngành kỹ nghệ, thủ công nghệ
của VN mà còn làm mất đi ngoại tệ xuất cảng, mục tiêu tối hậu khi
cộng tác với FDI.
– FDI thực hiện công cuộc chuyển giao kỹ
thuật (transfert technologique) cho VN rất hạn chế, chỉ chuyển
giao những kỹ thuật trung bình hay lỗi thời. Với những đại công
trình, họ đem các chuyên gia lãnh đạo và thừa hành, kể cả kỹ
thuật viên sang VN lập kế hoạch và thực hiện. Trường hợp như Công
Ty Samsung với số xuất cảng trị giá 20% hàng hóa xuất cảng của
VN, với 110,000 nhân công (Thái Nguyên: 65,000, Bắc Ninh: 39,000,
Sài Gòn: 6,000) nhưng tất cả chỉ làm công việc lắp ráp. “Báo cáo
của Tổng Cục Thống Kê VN công bố hôm 19/09/2018 cho biết hầu như
doanh nghiệp VN chủ yếu là gia công cho các doanh nghiệp nước
ngoài và chỉ hưởng được một phần nhỏ phí gia công. Tổng phí gia
công thu được từ các hoạt động gia công, lắp ráp hàng hóa cho
nước ngoài năm 2016 là 8.6 tỷ USD” (Kinh tế VN vẫn chưa thoát
kiếp gia công/RFA 21/09/2018).
Một trường hợp khác như
chiếc xe sản xuất đầu tiên ở VN tên là VinFast của tỷ phủ giầu
nhứt VN là Phạm Nhật Vượng cũng chỉ lắp ráp từ các bộ phận của
hãng xe GM, đem bán ở VN ít người dám mua vì xe đang chạy bị sụm
bánh, bị cháy, đã lỗ 300 triệu USD năm đầu, và mặc dù hạ giá, ép
nhân viên mua, nhưng ông vẫn tuyên bố sẽ sản xuất chiếc Vinfast
chạy điện và xuất cảng sang Mỹ cuối năm 2021. Cũng trong cơn lên
đồng, một viện bào chế tuyên bố sẽ sản xuất thuốc chủng COVID–19
tên là Nanocovax vào cuối năm 2021 và bán với giá 5 USD một liều
trên thị trường VN và thế giới trong khi Pfizer bán đến 20 USD.
(Vaccine tự chế của VN/RFI 17/03/2021). Chuyện pháo nổ và phong
thần ở VN kể không sao hết được!
Nói tóm lại, dẫu biết VN
là một quốc gia đại tham nhũng, nhưng giới đầu tư ngoại quốc vẫn
rót tiền vào VN, thỏa hiệp với tham nhũng để hưởng lợi theo lối
win–win hay bất chính. Họ vay tiền ngân hàng VN thay vì mang tiền
vào, vay tiền ngân hàng một số cao hơn trị giá tài sản rồi khai
phá sản hay bỏ trốn, khai lỗ liên miên để xin miễn thuế và chuyển
giá, tình trạng mà giới doanh thương VN gọi là “lỗ giả, lãi
thật”, lập nhà máy qua loa, thu nhân công sản xuất rồi bán nhà
máy, quịt lương nhân công.
Vỏ quýt dầy thì có móng tay
nhọn, cộng sản VN đâu phải là siêu việt hơn các FDI da trắng, da
nâu, nhứt là FDI có máu Chệt trong các trò ngang ngược, lưu manh.
Mặt thật của nghèo đói Việt Nam
*
Theo Chương Trình Phát Triển Liên Hiệp Quốc (United Nations
Development Programme/UNDP), nghèo được định nghĩa dưới 3 trạng
thái:
– Nghèo cùng cực (pauvreté extrême): không có đủ lợi
tức để có nhu cầu thực phẩm cần thiết tính bằng calories.
– Nghèo tổng quát (pauvreté générale): không có đủ lợi tức để có
nhu cầu thực phẩm và các nhu cầu khác như quần áo, nhà ở và điện
lực.
– Nghèo con người (pauvreté humaine): thiếu các điều
kiện sống của con người như thất học, thiếu dinh dưỡng, tuổi thọ,
sức khỏe. Nghèo này còn gọi là nghèo theo mức sống hay nghèo đa
chiều.
* Theo Ngân hàng Thế giới, thước đo nghèo là ngưỡng
nghèo.
Ngưỡng nghèo áp dụng trước năm 2005 là 1
USD/người/ngày, từ 2005 đến 2014 là 1.25 USD và từ 2015 đến 2021
là 1.9 USD.
* Theo Thống kê VN: Ngưỡng nghèo từ 2006 đến
2020: Ở nông thôn: 700,000 đồng/tháng (35 USD/tháng = 1.15 USD
ngày); Ở thành thị: 900,000 đồng/tháng (45 USD/tháng = 1.5
USD/ngày).
* Theo WB, không kể người giầu, 5 nhóm kinh tế
được tính theo lợi tức 1 người mỗi ngày (bằng USD) như sau: nghèo
cùng cực: 1.7; nghèo vừa phải: 1.9 – 3; dễ bị tổn thương kinh tế
(khi nghèo, khi thoát khỏi nghèo): 3.2 – 5.5; an toàn kinh tế:
5.5 – 15; trung lưu: từ 15 USD trở lên.
* Theo Thống Kê
VN, xã hội chia ra 9 tầng lớp như sau: “lãnh đạo, doanh nhân,
chuyên môn cao, nhân viên, công nhân, buôn bán–dịch vụ; tiểu thủ
công nghệ, lao động giản đơn, nông dân”.
* Theo tác giả:
Căn cứ vào số liệu của các cơ quan quốc tế (WB, UNPD, World
Wealth, Knight Frank, Forbes) chúng tôi tổng hợp và tóm tắt tình
trạng giầu nghèo ở VN theo 3 giới (nhóm) như sau:
– Giới
giầu: gồm 6 tỷ phú có tài sản chung là 16.7 tỷ mà đứng đầu là
Phạm Nhật Vương với tài sản là 7.7 tỷ USD, đứng hạng 385 trong
bảng xếp hạng các tỷ phủ trên thế giới của Forbes (Forbes. The
World’s real–time Billionaires updated as 2021/01/06).
Kế
đến là khoảng 460 siêu giầu với tổng tài sản khoảng 30 tỷ. Để
được gọi là siêu giầu phải sở hữu ít nhứt 30 triệu USD đầu tư,
không kể tài sản cá nhân và bất động sản. Cơ quan World Wealth
cũng nhấn mạnh đây là con số những người cho phép kiểm chứng tài
sản, nhưng VN còn có hàng trăm siêu giầu vì “tâm lý chung xã hội”
nên họ giấu kín. Ai mà chẳng biết bọn siêu giầu giấu kín này là
bọn siêu tham nhũng trong cái lò Ủy Ban Chính Trị Trung Ương.
Ngoài ra hiện nay có 19,500 triệu phú và dự trù tăng lên 38,000
trong 10 năm sắp tới. Báo cáo của World Wealth đầu năm 2019 cho
biết VN là quốc gia có tầng lớp siêu giầu tăng nhiều nhất trên
thế giới trong giai đoạn 2007–2017 với tỉ lệ là 210%.
Không biết đích xác tài sản của giới giầu đang ở trong nước và đã
tẩu thoát, tẩu tán ra nước ngoài từ hàng chục năm nay là bao
nhiêu, nhưng với khoảng chưa đầy 1% dân số, trị giá tài sản của
giới giầu này phải ít nhứt tương đương với 50% tổng số GDP của cả
nước.
Nếu tính cho đủ tỉ lệ 1% dân số giầu (gồm tỷ phú,
siêu giầu, triệu phú, và người có ít nhứt 160,000 USD), VN có
khoảng 960,000 người. (theo Knight Frank). Đó là giai cấp thống
trị chính trị và kinh tế VN.
– Giới trung lưu: gồm cán bộ
nhà nước trung cấp, giới chuyên nghiệp (bác sĩ, kỹ sư, luật
sư...), nhân viên các công ty nước ngoài, doanh nghiệp tiểu
thương, có lợi tức mỗi ngưởi mỗi ngày hơn 15 USD. Công cuộc đô
thị hóa và kỹ nghệ hóa VN từ 20 năm nay đã gia tăng lớp trung
lưu, mỗi năm tăng khoảng 1–1.5% dân số, hiện nay chiếm khoảng 19%
dân số (những con số khác nhau từ 16% đến 25%). Về văn hóa, đa số
có trình độ, về chính trị, đa số an phận, giả câm giả điếc vì
chén cơm manh áo, nhưng khi cần chọn lựa, họ sẽ đứng về phía giai
cấp thống trị vì họ đã trưởng thành trong giáo dục của kẻ thống
trị.
– Giới nghèo: khoảng 80% dân số tập trung ở vùng ven
đô (lao động chân tay), vùng nông thôn (nông dân) và “vùng sâu
vùng xa” (dân tộc thiểu số). Đó là những người mà WB gọi là nghèo
cùng cực, nghèo vừa phải, dễ bị tổn thương kinh tế (khi nghèo,
khi thoát ra ngưỡng nghèo), Theo báo cáo của WB, tỉ lệ người
nghèo cùng cực ở VN như sau: 2010: 20.7%; 2012: 17.2%; 2014:
13.5%; 2016: 9.8%; 2018: 6.7%. Tỉ số người nghèo cùng cực vẫn còn
quá cao so với báo cáo láo của Thống Kê Việt Nam (3%).
Nhớ
lại, thời Việt Nam Cộng Hòa, người dân nghèo khổ vì chiến tranh
do đạo quân áo bà ba đen khăn rằn và dép râu nón cối gây ra, chớ
không có nghèo đói. Sau 46 năm bị trị, người dân sống dưới chế độ
Việt Nam cộng sản bị đói. Trang mạng báo điện tử của chính phủ
(hanoimoi.com.vn ngày 04/02/2021) đăng tin:
“Đến nay đã có
17 tỉnh đề nghị Thủ Tướng chính phủ hỗ trợ gạo từ nguồn dự trữ
quốc gia hơn 12,416 tấn cho 707,535 nhân khẩu, trong đó hỗ trợ
dịp Tết Nguyên Đán là hơn 9,082 tấn”.
Trong khi khắp nước
tưng bừng nở hoa ăn Tết thì có gần 1 triệu người dân trên 17 tỉnh
xin gạo ăn đỡ đói, như vậy VN hôm nay giầu hay nghèo.
Kết luận
Việt Nam hôm nay có nhiều xa lộ,
nhiều nhà chọc trời tối tân, nhiều con đường tráng nhựa và nhiều
nơi có điện lực dẫn đến làng xã. Tuy nhiên, bởi lẽ đa số người
dân trong nước phải quần quật với cuộc sống trong thiếu thốn,
trong bất an, họ thờ ơ với những thay đổi này vì họ vẫn quen
thuộc với cái mái nhà dột, con đường lội nước. Cái cột điện dù
cho ở trước nhà họ cũng chỉ là vật trang trí, mặc dù họ có đóng
góp nhiều hơn giá tiền làm cái cột điện, nhưng họ không có tiền
đong gạo thì làm gì có tiền để mắc điện vào nhà và trả tiền điện.
Nghèo đói, thờ ơ và sợ hãi đã khiến cộng sản lộng hành và gia
tăng bạo lực.
Việt Nam hôm nay là đất của ngoại bang. Họ
xây cất với vốn và nhân công của họ rồi bán hay cho VN mướn, họ
sản xuất sản phẩm của họ trên nước VN hay đem từ nước họ rồi bán
cho dân VN với giá họ định. Họ lập đặc khu của họ trên đất VN mà
không cho dân VN đến gần. Những xa lộ thênh thang với những chiếc
xe giá “khủng” của giới nhà giầu, những khu giải trí hiện đại mà
hàng đoàn xe buýt đầy nhúc du khách nối đuôi vào, đó là những món
nợ truyền kiếp mà người dân VN nhiều thế hệ phải trả.
Tóm
lại, Việt Nam hôm nay chẳng còn chủ quyền và chẳng còn gì đáng
giá.
Tuy nhiên, Việt Nam có rất nhiều tài sản của ngoại
bang làm cho đảng nở mặt nở mày với thế giới. VN còn có cả triệu
Việt Kiều gởi tiền và mang ngoại tệ về quê ăn Tết để đảng có tiền
trả nợ và để quảng cáo dùm cho đảng là đất nước hôm nay văn minh
tiến bộ cái gì cũng có, thậm chí còn hơn cả đất nước đã cưu mang
họ khi năm xưa, họ đã tìm cái sống trong cái chết để vượt thoát
khỏi địa ngục mà hôm nay họ trở về rồi trầm trồ khen ngợi. Họ có
biết chăng những cửa hàng lộng lẫy, những cao ốc cực kỳ sang
trọng là tài sản của tư bản đỏ liên doanh với/hay 100% của Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, nói chung là của tư bản đủ các sắc dân,
nơi mà đám mệnh phụ phu nhân, cậu ấm cô chiêu của các vua chúa
đỏ, quần thần đỏ, tư bản đỏ lũ lượt đến để đốt tiền tham nhũng và
các du khách ngoại quốc đến để mua hàng rẻ hơn ở xứ họ.
Nhưng trong cái rực rỡ “hoành tráng” ở các khu phố sang trọng ấy,
VN hôm nay vẫn còn có người cụt chân lê lết trên đường đưa nón
xin tiền, có đứa trẻ lem luốc chạy theo khách mời mua vé số, có
bà già dựng chiếc xe đạp bên lề đường với cái giỏ đựng những đồ
chơi trẻ con bằng nhựa. Đâu đó, trước cửa hàng Vuitton, một nhóm
người tay cầm Iphone nhi nhô tiếng Việt tiếng Anh lơ lớ, nhưng
ngập ngừng không dám vào “tham quan” vì thấy... mình không giống
ai từ túi tiền đến y phục. Đó là mặt thật của giầu nghèo ở VN hôm
nay và cái phũ phàng đổi đời của “áo rách về làng”.
Không,
Việt Nam hôm nay không giầu mà chỉ có đảng giầu. Đảng viên và bọn
“ăn theo” đảng càng giầu thì người dân càng nghèo. Thành phố càng
mọc lên nhiều cao ốc, ngoại ô càng xây thêm nhiều hãng xưởng thì
người dân càng mất đất mất nhà, và người dân nhiều thế hệ sẽ
không bao giờ trả hết nợ ngoại bang.
Đó là câu trả lời của
một người tỵ nạn không về quê ăn Tết và vẫn luôn tưởng niệm ngày
Quốc Hận 30 tháng Tư mỗi năm.
Lâm Văn Bé
Quốc Hận năm thứ 46
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by th chuyển
Đăng ngày Thứ Năm,
April 29, 2021
thư ký dù
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang