Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
ký
Chủ đề:
QH30–T4Đ
Tác giả:
Phạm Gia Đại
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời Tác giả: Kính gửi quý vị bài viết mới của
PGĐ về ngày Quốc Hận 30/4/1975. Bài này đăng trên Bán Nguyệt San
“Tôi Yêu Tiếng Nước Tôi” # 7, số đặc biệt về Ngày Quốc Hận, vừa mới
phát hành tại Quận Cam, nam California, USA.
–PGĐ
Năm nay
Tháng Tư lại về. Mỗi năm khi Tháng Tư trở lại thì bao nhiêu kỷ niệm
bi thương đau buồn lại ùa về trong tâm tưởng. Cứ nghĩ những bi
thương, u buồn, uất hận ấy đã nằm sâu trong tiềm thức, đã đi vào
vùng quên lãng theo tháng ngày, nhưng hình như niềm đau ấy cứ tăng
lên mãi theo tháng ngày chứ không thuyên giảm, hay không mờ dần đi
trong vùng quên lãng. Người ta thường nói thời gian là liều thuốc
mầu nhiệm sẽ giúp xoa đi những niềm đau, những bất hạnh, những khốc
liệt của chiến tranh đã tàn phá vào đời người, nhưng hình như những
đau thương, mất mát, tang tóc của ngày Ba mươi tháng Tư năm đó quá
kinh hoàng và quá to lớn đến nỗi Thời Gian đành khoanh tay đứng nhìn
và thở dài và tiếc nuối. Nhìn những tờ lịch treo trên tường cứ rơi
dần đi từng ngày một trong tháng Tư, ngày ba mươi càng gần kề thì
những hình ảnh ngày ấy lại hiện về rõ nét như mới ngày nào chẳng làm
sao quên được.
Buổi sáng hôm ấy, không phải một buổi sáng đầy sương thu và gió lạnh
– một áng văn tuyệt tác, đẹp như một bài thơ của nhà văn Thanh Tịnh
trong “Tôi Đi Học” – mà buổi sáng ngày ấy có nhiều nắng ấm của những
ngày cuối Xuân sang Hè, nhưng Sài Gòn, Thủ đô của nền Đệ Nhị Cộng
Hòa, Hòn Ngọc Viễn Đông của vùng Đông Nam Châu Á, đã như trong cơn
mê loạn với hiểm nguy cận kề, và đang thở những hơi cuối cùng như
một người đang khỏe mạnh chợt mất dần sức sống đi vào hấp hối.
Đó là ngày Ba Mươi tháng Tư năm Một Chín
Bảy Lăm, tôi đang ở nhà mẹ tôi trên con đường Trương Minh Giảng thân
quen, trong Quận Ba của thành phố Sài Gòn. Tôi đã đưa gia đình từ
vùng Phú Lâm, Quận Sáu, ven đô về nhà mẹ hai ngày nay để tạm trú vì
vùng ven đô mấy hôm nay không được an ninh, và cộng quân đã pháo
kích vào cả nhà dân và chợ búa.
Sài Gòn sáng ngày Ba Mươi tháng Tư đã trở
nên sôi động và hoảng loạn khi Dương Văn Minh, người vẫn được dân
Sài Gòn xem như tay chân của chính quyền Mỹ, đã lên đài phát thanh
tuyên bố Lệnh Đầu Hàng để buộc tất cả các đơn vị quân đội Việt Nam
Cộng Hòa (VNCH) phải buông súng và mở cửa cho cộng quân vào thành
phố và vào miền Nam. Sau hai mươi mốt năm chiến đấu anh dũng và
thắng lợi trên khắp mặt trận của Bốn Vùng Chiến Thuật, những người
lính chiến đã phải buông súng trong uất nghẹn và nền Đệ Nhị Cộng Hòa
đã phải cáo chung vì đồng minh Hoa Kỳ phản bội, vì những đánh phá
của thành phần thứ ba ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng sản đã hoạt động
có lợi cho cộng sản, vì phong trào phản chiến tại Mỹ đã được thổi
bùng lên cao độ để đâm sau lưng VNCH, vì tay cố vấn gốc Do Thái ma
đầu Henry Kissinger đã đi đêm với Trung Cộng để Mỹ ký hiệp ước
Thượng Hải với Tầu, bán đứng miền Nam cho quân thù.
Tôi đứng trên lầu ngôi nhà mang số 357 của
mẹ tôi nhìn qua cánh cửa sổ hé mở, lần đầu tiên và có lẽ cũng là lần
cuối nhìn thấy những chiếc xe tăng của Nga mà lính Bắc Việt đang lái
từ hướng Tân Sơn Nhất, ầm ầm lăn bánh trên con đường Trương Minh
Giảng, đang tiến vào thành phố thân yêu của tôi. Hình như bầu trời
trước mắt tôi đang sụp đổ, và những xích bánh xe tăng kia như đang
nghiền nát đời tôi và hàng triệu người dân Sài Gòn. Một biến cố
không thể nào có được đã xảy ra: miền Nam đang mất vào tay cộng
quân, và tương lai trước mắt, miền Nam sẽ phải chịu bao nhiêu oan
khiên, tủi nhục, nghiệt ngã như miền Bắc đã phải chịu đựng từ khi
cộng sản vào tiếp thu thủ đô Hà Nội năm Một Chín Năm Tư. Thời gian
đó khi còn là một cậu bé theo cha mẹ di cư vào Nam, trong đầu óc non
nớt của tôi chỉ nghĩ rằng tôi đã mất quê hương miền Bắc, mất hết
những kỷ niệm yêu dấu trong căn nhà như biệt thự trên phố Cầu Đất,
Hải Phòng, và dòng sông Bến Hải sẽ mãi mãi chia đôi hai miền nam
bắc. Không bao giờ ngờ có một ngày toàn quê hương bị nhuộm một mầu
đỏ sắt máu.
Ngày
Sài Gòn sụp đổ, người Mỹ mà đại diện lúc đó là Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ đã
thất hứa với chúng tôi, họ đã bỏ rơi tất cả những nhân viên người
Việt làm việc cho họ. Họ đã bỏ đi hết – những nhân viên Mỹ, Phi Luật
Tân, Thái Lan, Đài Loan, v.v. còn lại, họ đã ra đi trong chuyến trực
thăng bốc người di tản cuối cùng rời nóc của Tòa Đại Sứ Mỹ trên
đường Thống Nhất vào đêm Hai Mươi Chín rạng sáng ngày Ba Mươi tháng
Tư. Thế là hết, một dấu chấm to tướng cho miền Nam và cho cá nhân
tôi. Người Mỹ thừa biết rằng những nhân viên làm việc cho họ, trong
đó có tôi, khi sa vào tay giặc sẽ khó mà bảo toàn tính mạng, nhưng
họ vẫn thản nhiên ra đi để hoàn thành sứ mạng cho lợi ích của nhóm
nắm quyền tại Mỹ muốn làm ăn buôn bán với Hoa Lục trên một tỷ người.
Trong buổi họp cuối cùng cuối tháng Tư tại
Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn, viên cố vấn Mỹ cho biết kế hoạch sau cùng
là chúng tôi vẫn phải yểm trợ cho các bộ các phủ của chính phủ VNCH
cho đến giờ phút cuối, và họ cam kết sẽ đem trực thăng đến bốc gia
đình chúng tôi tại nhà dù lúc đó Sài Gòn có trong cơn bão lửa – đó
là Plan A. Viên cố vấn còn trấn an rằng, dù đường bay Tân Sơn Nhất
có bị trở ngại, người Mỹ sẽ huy động năm ngàn TQLC từ Đệ Thất Hạm
Đội vào Sài Gòn và làm một Hành Lang Thép ra Vũng Tầu để chương
trình di tản sẽ tiếp tục cho đến ngày mười lăm tháng Năm mới chấm
dứt – và đó là Plan B.
Trong manifest tôi nộp cho Tòa Đại Sứ từ
Tháng Ba có cả gia đình mẹ và các em sẽ cùng được di tản theo gia
đình tôi, nên tôi quyết định sẽ theo lệnh của Tòa Đại Sứ Mỹ phổ
biến, sẽ ở lại cho đến giờ phút cuối với hy vọng mẹ và các em sẽ
được cùng đi với tôi qua vùng trời tự do. Nhưng đời người không ai
học được chữ ngờ – tôi đã bị bỏ rơi, và bị cộng sản tập trung “cải
tạo” lao động khổ sai lưu đày mười bảy năm theo chính sách “khoan
hồng” của họ trong các trại giam mọc lên như nấm từ bắc vào nam. Nhờ
Ơn Trên: Trời Phật thương, Mẫu độ, và Đức Mẹ và Đức Chúa che chở, và
gia đình cha mẹ, anh chị em, con cái, nhất là những người vợ tù, đã
hết sức cứu giúp, nên hàng trăm ngàn quân dân cán chính VNCH, trong
đó có tôi, đã sống sót trở về sau những năm tháng bị đọa đày sau
ngày miền Nam mất vào tay giặc Cộng.
(Ảnh chụp vào
khoảng Tháng 3 năm 1992 tại Trại Giam Hàm Tân Z–30D, Bình Thuận, Nam
VN về 12 trong số
20 người tù cuối cùng (NTCC). Lúc bấy giờ chỉ còn
lại 20 NTCC tập trung vào đội 23. Họ đã phục hồi phần nào sức khỏe
nhờ gia đình tiếp tế, thăm nuôi, và tin sẽ được thả ra nay mai để
qua Mỹ định cư – nên đã lấy lại phong độ. Vào những năm 1976–1977,
1978, họ chỉ còn da bọc xương vì bị bỏ đói và lao động khổ sai trong
những vùng núi lạnh giá.
Từ trái qua phải và hàng bên dưới: cố
Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Trung tá Huỳnh Kim Hiếu (ANQĐ), Phạm Gia
Đại (Tòa Đại Sứ Mỹ), cố Thiếu tướng Trần Bá Di, Trung tá Huỳnh Văn
Kiên (ANQĐ).
Hàng
đứng và từ trái: Trung úy Nguyễn Đức Thắng (Phủ Đặc Ủy TUTB), cố
Trung tá Trần Văn Xoàn (Cảnh Sát Đặc Biệt), Miên (hồi chánh viên),
cố Trung tá Nguyễn Đạt Phong (ANQĐ), con gái một vị đại tá vào thăm)
Tôi đã bước ra khỏi trại giam Hàm Tân
Z–30D trong số hai mươi người tù cuối cùng sau mười bảy năm và trở
về thành phố thân yêu – mà suốt thời gian trong tù không lúc nào tôi
không thương nhớ, thành phố giờ đã thay tên và những con đường quen
thuộc ngày xưa giờ trở thành lạ lẫm. Ngày trở về, tôi đã ngơ ngác và
lạc lõng trong chính lòng thành phố thân yêu mà tôi đã lớn lên
trưởng thành trong suốt hai mươi mốt năm sau ngày di cư vào Nam. Tất
cả đã đổi thay hay chính lòng tôi cũng đang thay đổi bởi tôi không
còn nhìn đời qua lăng kính màu hồng nữa, và nhận thức được một điều
đau xót rằng ngoài việc chống cộng nô – vì Quốc Gia và Cộng sản
không thể cùng đội chung một bầu trời, chúng ta còn phải rất thận
trọng với ông bạn đồng minh Mỹ đã từng phản bội trắng trợn người
Quốc Gia, năm Một Chín Bảy Lăm, kẻ đã làm mâm cao cỗ đầy dâng lên
mời quân Bắc Việt và làm món quà trao đổi với khối cộng sản quốc tế.
Vô hình chung, người Việt Quốc Gia rơi vào Thế Chân Vạc: Quốc Gia –
Cộng Sản – Hoa Kỳ. Ngoài việc chống Cộng, còn phải đề phòng thế lực
ngầm chi phối chính quyền Mỹ, họ sẽ chỉ là đồng minh tạm thời và
giai đoạn mà thôi, không phải là đồng minh vĩnh cửu.
Thời gian lưu đày ngoài miền Bắc, tôi có
cơ duyên gặp được những vị chân tu như Thượng Tọa Thích Thanh Long,
người đã làm sáng danh Đạo trong những năm tháng đen tối nhất của
đời người trong một ngục tù tồi tệ nhất tên thế giới, và đem lại
niềm tin cho người tù. Tôi còn có Duyên Lành gặp được Thầy Tâm, Hòa
Thượng Thích Thiện Chánh, người thầy đã khai tâm cho tôi về Đạo
Phật. Nhờ ơn đức đó mà tôi có được một nghị lực phi thường giúp cho
mình sống sót sau bao nhiêu khốn khó, tai ương, và những thử thách
quá sức người như muốn nhấn chìm mình xuống trong vùng ngục tù đen
tối, trong tuyệt vọng, hay những khi sức cùng lực kiệt đang hấp hối
trên giường bệnh và Tử Thần với Lưỡi Hái như đang đứng bên cạnh. Tôi
đã qua được hết như một phép lạ.
Bởi thế, sau khi cửa tù đóng lại sau lưng,
tôi nguyện sẽ đem hết sự hiểu biết và tấm lòng thành của mình để
giúp người, giúp đời, và giúp quê hương Việt Nam mau được hưởng dân
chủ, có nhân quyền và hạnh phúc, thanh bình như những quốc gia khác
trong khối tự do. Cuốn Hồi Ký “Những Người Tù Cuối Cùng” ra mắt năm
2011 và bản Anh Ngữ năm 2016, và audio đọc hồi ký “Những Người Tù
Cuối Cùng” ra đời lên Youtube cuối năm 2022, là tâm huyết một đời
người viết ra để lại cho mai sau một thiên anh hùng ca bất diệt của
người Quốc Gia chống Cộng – một quân sử chưa từng có của quân lực
VNCH đã đơn thương độc mã chiến đấu oai hùng và chiến thắng chống
lại cả khối cộng sản Nga–Tầu–Đông Âu–Bắc Hàn–Cu Ba, khi mà đồng minh
Hoa Kỳ đã tự ký “Hòa Đàm Ba Lê” để rút lui, xóa hết những cam kết
của năm đời tổng thống Mỹ với đồng minh VNCH.
Một biểu Tượng
của Sài Gòn – Chợ Bến Thành
Nhìn lại quê hương sau 48 năm chỉ thấy một
phồn vinh giả tạo trong cuộc sống xa hoa bề mặt tại trung tâm một số
thành phố như Sài Gòn, Đà Nẵng, Nha Trang, Phú Quốc, v.v. dành cho
người ngoại quốc và Việt kiều hay dành cho gia đình thân nhân những
thành phần cai trị của chế độ tư bản đỏ, còn đa số người dân đều
nghèo khổ, thiếu ăn thiếu mặc, xa thành phố và trên vùng cao nguyên
nhiều nơi vẫn không có điện nước. Người dân nghèo xa thành phố hay
thiểu số bị kềm kẹp bởi các cán bộ nhà nước. Những kiện hàng, những
gói quà gửi khi vừa đến tay người dân nghèo khổ, thì ban đêm các cán
bộ địa phương lại đến tịch thu hết hay chỉ cho người dân nghèo một
chút ít trong những phần quà cứu trợ từ ngoại quốc gửi về cho họ mà
thôi.
Trên chín
mươi triệu dân trong nước và hàng triệu người Việt tại hải ngoại đều
mong muốn cho nước Việt chúng ta sớm có một đời sống xứng đáng cho
con người. Vì thế, sự đoàn kết trong các hội đoàn, các tổ chức người
Việt tại hải ngoại, là điều tiên quyết cho một cộng đồng hùng mạnh –
như một quốc gia VNCH sống lại bên ngoài Việt Nam. Bởi cộng đồng
người Việt trên thế giới sẽ là niềm tin, niềm hy vọng cho toàn dân
Việt còn khốn khổ và đang bị đàn áp trong nước.
Thế giới luôn biến động theo an bài của
Đấng Tạo Hóa, con người lại càng phải Thuận Thiên để Hành Đạo, như
thầy Tâm vẫn dạy tôi rằng mình đang sống trong thời Mạt Pháp – cái
Thiện sẽ bị chìm xuống và cái Ác nổi lên. Nhưng không vì bất cứ tiền
tài, danh vọng gì mà theo cái Ác được. Cái Ác ngày nay chính là Chủ
Nghĩa Cộng Sản, một chế độ chỉ tồn tại nhờ vào tuyên truyền dối trá
và bạo lực máu lửa.
Phạm Gia Đại
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Phạm Gia Đại chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy,
April 29, 2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang