Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy bút
Chủ đề:
30T4Đ
Tác giả:
Hồ Đinh, TĐ1/43/SĐ18BB–QLVNCH
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trận chiến Xuân Lộc là
cơn phẫn nộ cuối cùng của một quân đội anh hùng bị bội phản.
Trung đoàn 43BB của tôi là một trong những đại đơn vị kỳ cựu của
QLVNCH, thoát thai từ Trung đoàn 404 bộ binh của Sư đoàn 5 Khinh
chiến. Năm 1974, Tiểu đoàn 2/3 và Tiểu đoàn 1/52 của
Sư đoàn 18BB
được TT Nguyễn Văn Thiệu tuyên dương trước quân đội với thành
tích hạ nhiều tăng T54 và chiến xa PT76 của CS Bắc Việt tại Bến
Cát (Bình Dương) – 2 xe tăng T54 và PT76 được lái về làm kiểng
trong khuôn viên Dinh Độc Lập cho đến ngày đổi đời 1/5/75 mới dời
đi.
Riêng Tiểu
đoàn 1/43 lại là đơn vị chủ lực quân đầu tiên đến trấn đóng tại
Tỉnh Long Khánh từ đầu năm 1964 khi thành phố Xuân Lộc lúc đó còn
nhỏ xíu, buồn hiu với bao nhiêu nỗi bực dọc: mùa nắng thì bụi bay
đỏ người, trái lại mùa mưa thì sình lầy trơn trợt. Muỗi mòng, đỉa
vắt không thiếu, nhưng đổi lại dân chúng địa phương hiền lành,
hiếu khách, đặc biệt các em nữ sinh miền đất đỏ đồn điền rất dỏm
dáng và thích lính miền xa.
Năm 1966, Sư đoàn 10 dược thành lập với
3 Trung đoàn nguyên biệt lập: Trung đoàn 43BB, Trung đoàn 52 và
Trung đoàn 48. Tướng Lữ Lan, tướng có tiếng là tham nhũng, được
làm tư lệnh Sư đoàn. Có lẽ vì mang số 10 bù xui xẻo nên cuối năm
1966, Tiểu đoàn 1/43 đã gần như bị tan hàng khi kịch chiến với 2
Trung đoàn CS Bắc Việt tại xã Võ Su, quận Võ Đắc (Bình Tuy), nên
phải trở về tái trang bị và huấn luyện lại tại Trung tâm Huấn
luyện Lam Sơn (Dục Mỹ). Sau đó Sư đoàn 10 được đổi danh hiệu là
18BB – vị tư lệnh cuối cùng là Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, cũng là
vị tướng đã cùng với 2 phụ tá: Đại tá Lê Xuân Mai (Tư lệnh phó Sư
đoàn 18) và Đại tá BĐQ (Biệt Động Quân) Phạm Văn Phúc (Tỉnh
trưởng Long Khánh) chỉ huy phòng tuyến thép Xuân Lộc từ rạng sáng
8/4/75 cho đến khi được lệnh rút quân ngày 21/4/75.
Cuộc chiến đấu dũng cảm của những người
lính miền đất đỏ Long Khánh trong lúc đất nước sắp sụp đổ thật ra
cũng chỉ là cơn phẫn nộ cuối cùng của một quân đội, trên phần đất
còn lại của người VN, cố níu kéo gìn giữ, để dân tộc mình có chỗ
cắm dùi, nhưng cuối cùng những người lính đó đã thất bại não nề
vì bị cấp lãnh đạo tối cao bán đứng, đồng minh phản bội, trí thức
toa rập với kẻ thù, trù dập, đuổi xô và đâm sau lưng những nhát
trí mạng. Thật não nùng thay:
Chí chưa thành, danh chưa đạt
Trai trẻ bao năm mà đầu bạc
Trăm năm
thân thế, bóng tà dương...
(Thơ Nguyễn Bá Trạc)
Sau này, viết về mặt trận Xuân Lộc
(tỉnh Long Khánh) tháng 4/75, người thương cũng như kẻ thù VNCH,
đều có cùng chung quan điểm khi bày tỏ sự khen ngợi và lòng cảm
phục người lính miền Nam. Chính tướng Văn Tiến Dũng, Tổng tư lệnh
Quân đội Nhân dân của Bắc Việt đã hé lộ điều này trong tác phẩm
của y “Đại Thắng Mùa Xuân 75” rằng:
“Mặt trận Xuân Lộc ác liệt và đẫm máu
từ những ngày đầu tiên. Các Sư đoàn 6, 7, 341 của ta phải tiến
công trong thành phố nhiều lần nhưng gặp phải sức kháng cự mãnh
liệt của Tung đoàn 43 của địch. Các đơn vị pháo của ta đã sử dụng
nhiều hơn cơ số đạn dự trù. Số lớn tăng và xe bọc thép của ta bị
hạ...”
Còn D.
Todd, người ký giả Pháp, từng thiên Cộng, đã viết trong “Cruel
April: The Fall of Saigon” như sau:
“Tinh thần binh sĩ VNCH tại Xuân Lộc
rất cao, hệ thống truyền tin rất tốt. Các đơn vị Dù và BĐQ đã
đến. Con đường Sài Gòn được khai thông – các sĩ quan của QLVNCH
đang gọi pháo binh và không yểm rất chính xác, nhanh chóng, tình
trạng chiến đấu của họ gần giống như lúc còn quân đội Mỹ yểm
trợ...”
Nhưng
có lẽ ý nghĩa và cảm động nhất là báo cáo của Tướng X. Smith,
Trưởng phòng tùy viên quân sự (DAO) lên chức Tham mưu trưởng liên
quân Mỹ:
“Tại
chiến trường Long Khánh, rõ ràng QLVNCH đã chứng tỏ sự quyết tâm
và anh dũng chiến đấu chống lại địch quân đông gấp nhiều lần...”
Tướng Smith với lương tâm của một người
lính, không khách sáo và hào nhoáng như miệng lưỡi của các chính
khách, đã nói lên phần nào danh dự của QLVNCH trước đám trí thức
da trắng, da màu đa sự.
1. Bối cảnh VNCH từ sau Hiệp định Paris
1973 tới lúc mất nước
Trước khi thỏa hiệp Paris được ký kết,
ngày 10/10/1972, trong một cuộc hành quân tại Quảng Trị, QLVNCH
đã khám phá một hầm bí mật và tịch thu được một bản thảo của hiệp
định chấm dứt chiến tranh và vãn hồi hòa bình tại VN, cùng các kế
hoạch của Bắc Việt nhằm giành dân lấn đất của VNCH.
Đô đốc Sharp, nguyên tư lệnh các lực
lượng Mỹ tại Thái Bình Dương, sau khi chấm dứt chiến tranh tại
Đông Dương lần 2 (1955–1975), năm 1978 đã thổ lộ sự thật trong
tác phẩm “Strategy For Defeat” như sau:
“Hiệp định Hòa bình Paris ngày 27/1/73
mà Mỹ chấp thuận và bắt buộc VNCH thi hành, không phải là một
công thức hòa bình. Theo đó, CSBV không còn sợ Mỹ can thiệp nên
đã tự do xâm lăng miền Nam VN mà không bị chế tài...”
Sau năm 1973, đường mòn Hồ Chí Minh
biến thành một xa lộ đất – nhiều đơn vị Bắc Việt bổ sung vào Nam
như các Trung đoàn 263 tên lửa phòng không và hỏa tiển SA–2, 3000
cán bộ Công an Bắc Việt đến nắm quyền sinh sát tại các vùng đất
vừa lấn chiếm, một hệ thống ống dẫn dầu dài hơn 5000km chạy từ
Bắc vào Quảng Trị, xuyên qua Cao nguyên Trung phần tới Lộc Ninh,
song song với ống dẫn dầu cũ có sẵn từ Vinh chạy đến thung lũng A
Shao. Nhiều lần, các thám thính cơ của không quân VN đã phát hiện
từng đoàn xe của BV trên xa lộ đất nhưng bị Mỹ tìm mọi cách ngăn
chặn không cho oanh tạc và chính quyền VNCH cũng không dám phản
đối vì Nixon đã đe dọa “sẽ cắt hết tiền viện trợ”.
Tại Mỹ, từ 1971–1973, nền kinh tế và
tài chính đang bước vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng, cán cân
thương mại bị thâm thủng khiến Mỹ 2 lần liền cho phá giá đồng Mỹ
kim, khiến cho các đồng minh của Mỹ đều phải thay đổi hệ thống
tiền tệ riêng để khỏi phải chết chìm theo Mỹ. Còn các nhà tư bản
thì nhanh chân rút vốn đem ra ngoại quốc đầu tư, gây cảnh thất
nghiệp, tưới dầu thêm trong rừng lửa phản chiến đòi chấm dứt
chiến tranh VN, đang hoành hành bốc cháy dữ dội khắp nơi trên
nước Mỹ.
Vì
vậy hồi tháng 8/73, Quốc hội Mỹ ra đạo luật cấm sử dụng ngân
khoản yểm trợ quân sự cho các nước Đông Dương. Tháng 10/73 lại
ban hành luật War Power Act hạn chế quyền hạn của TT Mỹ. 2 đạo
luật trên vừa cho phép CSBV toàn quyền xâm lăng VNCH và bảo đảm
Mỹ sẽ không can thiệp vào VN trở lại đã khiến cho Hà Nội bất chấp
lệnh của quan thầy Trung Cộng, họp hội nghị Trung ương lần thứ
21, ra lệnh tấn công cưỡng chiếm miền Nam.
Tại Sài Gòn, TT Thiệu lại tiếp tục chơi
trò gian lận bầu cử, lưu manh trong lúc đất nước sắp nguy khốn vì
tham nhũng, bất công, thù trong giặc ngoài khiến cho hậu phương
nát bét, tạo cơ hội tốt cho sự thành công dễ dàng của Bắc Việt
sau này.
–
3/4/74: Thượng nghị viện Mỹ biểu quyết cắt giảm viện trợ cho Nam
VN.
– 11/4/74:
CS Bắc Việt tràn ngập trại Tống Lê Chân (Bình Long) do Tiểu đoàn
92 BÐQ của Trung tá Lê Văn Ngôn khóa 25 sĩ quan Đà Lạt trấn giữ
trong 510 ngày bị vây hãm.
– 7/8/74: quận
Thường Đức, tỉnh Quảng
Nam, thất thủ.
– 9/8/74: TT Nixon từ chức vì vụ
Watergate, mang theo xuống mồ những lời hứa hẹn với TT Thiệu về
viện trợ, can thiệp... Khi Ford lên thay thế, đã không thèm đếm
xỉa gì tới VN nữa.
Đầu năm 1975, binh đoàn 301 Bắc Việt
gồm các Sư đoàn 3 và 7, với tăng, đại pháo tấn công tỉnh Phước
Long do Sư đoàn 5BB trấn giữ – Phước Long lọt vào tay CSBV ngày
6/1/75 vì không có quân tiếp viện. Trước sự vi phạm trắng trợn và
láu cá của CSBV, Hoa Kỳ chỉ phản ứng lấy lệ, bằng chứng là TT
Ford không đề cập gì đến tình trạng nguy khốn của Nam VN trên bài
diễn văn nhậm chức trước Quốc hội Mỹ ngày 5/1/75, đã vậy, theo B.
Paulmer Jr. trong “The 25th year war American’s military role in
Vietnam” xuất bản năm 1984, thì ít ngày sau, TT Ford lại họp báo
để dứt khoát là Mỹ chấm dứt can thiệp vào VN. Đây là lý do bằng
vàng ròng, khiến CSBV hồ hởi tấn công cưỡng chiếm miền Nam.
Rồi chiến dịch 275 mở màn, 2 giờ sáng
ngày 10/3/75, Bắc Việt tấn công thành phố Ban Mê Thuột của Cao
nguyên Trung phần và thành phố đã mất sau 2 ngày. Giao tranh đẫm
máu, ác liệt giữa Cộng quân và đơn vị trú phòng gồm có Trung đoàn
53/Sư đoàn 23BB và Liên đoàn 21 BĐQ + Địa Phương Quân (ĐPQ) + các
đơn vị yểm trợ của Sư đoàn 23BB.
Thảm họa, giặc ngoài, Mỹ bỏ rơi, vài
trí thức a dua đâm sau lưng lính chiến khiến TT Thiệu mất trí,
điên loạn, đẻ ra chiến lược “đầu bé, đít to” ra lệnh bỏ Cao
nguyên, bỏ dân chúng, bỏ ĐPQ, Nghĩa Quân (NQ), cho CS, rút trọng
pháo chủ lực quân về bảo vệ duyên hải bằng con đường máu liên
tỉnh lộ 7 Phú Bổn – Phú Yên ngày 14/3/75 được chỉ huy bởi bọn
tướng bất tài, bất trí, ham quyền, sợ chết. Rồi kế đó lại bỏ
Quảng Trị, Huế ngày 20/3/75 khiến cho bao người dân vô tội làm
mồi cho hỏa lực pháo binh CS khi họ di tản theo quân đội rút
quân, làm hủy diệt tất cả các lực lượng pháo binh, chiến xa M48,
M41, M113 của Quân đoàn I, II; 3 Sư đoàn 1, 3, 23BB tan hàng. 200
máy bay các loại bị bỏ tại các phi trường Huế, Đà Nẵng, Pleiku
cùng với 1000 chiến xa + 900 đại bác không được phá hủy. Các Sư
đoàn 2, 22BB, Thủy quân Lục chiến, Sư đoàn 1, 2, 6 Không quân, 1
Lữ Đoàn Nhảy Dù, 11 Liên đoàn BĐQ, các Liên đoàn Công binh,
Truyền tin, Tiếp vận, v.v. bị tổn thất quá nửa quân số. TT Thiệu
chỉ trong 1 phút quyết định tại Cam Ranh trước các tướng Viên,
Khiêm, Quang, Phú đã làm mất 2/3 lãnh thổ và làm tan rã 1/2 lực
lượng VNCH.
2.
Mặt trận Xuân Lộc
Sau ngày 2/4/75, Quân đoàn 2 chỉ còn
lại Ninh Thuận, Bình Thuận, Ninh Thuận nên được sát nhập vào Quân
đoàn 3. Phan Rang và Xuân Lộc trở thành 2 cửa ngõ để Bắc Việt vào
Sài Gòn bằng quốc lộ 1 và 20.
Xuân Lộc là thị xã của tỉnh Long Khánh
được TT Diệm thành lập từ năm 1957 bằng cách cắt bớt phần đất của
tỉnh Biên Hoà, mục đích định cư đồng bào Việt, Mường, Nùng, Thái
di cư năm 1954. Tỉnh có diện tích vào khoảng 3,457km², đất đai
phần lớn là núi thấp, đồi cao, rừng thưa và đồn điền cao su –
trong kháng chiến là một vị trí chiến lược quan trọng vì là ngã
ba của 2 quốc lộ 1 và 20, cửa ngõ từ miền Trung, miền Cao nguyên
vào Sài Gòn chỉ cách nhau 80km, do đó Xuân Lộc được coi như vòng
đai ngoài bảo vệ phi trường Biên Hòa và thủ đô. Xuân Lộc nằm trên
đường giao liên giữa chiến khu C và D của VC với các mật khu Mây
Tầm, Cù Mị, Xuyên Mộc, Đất Đỏ của tỉnh Phước Tuy, con đường mạch
máu mà Bắc Việt dùng để nhận tiếp tế bổ sung quân và tiếp liệu
bằng đường biển, vì vậy từ lâu Sư đoàn 18BB đã được bố trí tại
tỉnh này để ngăn chận.
Để cắt đứt đường rút quân của VNCH từ 2
tỉnh Tuyên Đức, Lâm Đồng, Bắc Việt tấn công quận Định Quán do
Tiểu đoàn 2/43 trấn giữ và trong khi giao tranh đẫm máu, không
quân VN đã thả lầm 2 trái bom 500 cân Anh vào vị trí của quân ta
tại núi Đất, khiến gần 200 người chết và bị thương trong đó có cả
vị Tiểu đoàn trưởng, làm Định Quán mất ngày 17/3/75.
Để tấn công Long Khánh, BV đã tung vào
chiến trường này Quân đoàn 4 gồm 3 Sư đoàn 6, 7, 341 và các đơn
vị có sẵn của Quân khu 7. Thiếu tướng CS Hoàng Cầm là tư lệnh,
chính ủy là Thiếu tướng Hoàng Thế Thiệp. Trận chiến đẫm máu đã
đồng loạt xảy ra tại 3 phòng tuyến: ngã ba Dầu Giây, thị xã Xuân
Lộc và Gia Rai (nằm tiếp cận giữa Bình Tuy và Long Khánh). Phía
QLVNCH có Sư đoàn 18BB (các Trung đoàn 43, 48, 52), lực lượng
ĐPQ+NQ tỉnh và các đơn vị tăng phái gồm Trung đoàn 8 (Sư đoàn
5BB), Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, Liên đoàn 7 BĐQ, 2 Tiểu đoàn pháo binh,
Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù và toàn bộ Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù (với các
Tiểu đoàn 1, 8, 9) và Tiểu đoàn 3 pháo binh Dù, Sư đoàn 4 Không
quân VN từ phi trường Cần Thơ, phụ trách không yểm chiến thuật.
Tất cả lực lượng trên đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn tướng Lê
Minh Đảo (tư lệnh Sư đoàn 18BB) và 2 phụ tá tài giỏi, uy tín: Đại
tá tư lệnh phó Lê Xuân Mai và Tỉnh trưởng Long Khánh Đại tá Phạm
Văn Phúc BĐQ mới về thay Trung tá Lê Ánh Nguyệt hồi 3/75.
Chiến trường Long Khánh gồm 3 mặt trận
chính: mặt trận Ngã ba Dầu Giây do Trung đoàn 52BB và một thiết
đoàn chiến xa trấn giữ. Mặt trận núi Chứa Chan, Gia Rai do Liên
đoàn 7 BĐQ và Trung đoàn 43BB. Thị xã Xuân Lộc do Trung đoàn 43BB
và các Tiểu đoàn ĐPQ bảo vệ. Bộ tư lệnh hành quân của Tướng Lê
Minh Đảo đặt tại quận đường Xuân Lộc ngã ba Tân Phong – Long Giao
được bảo vệ bởi các đơn vị trừ bị của Sư đoàn, pháo binh và một
thiết đoàn chiến xa.
Thế rồi vào lúc 5:30g ngày 9/4/95, khi
vạn vật bắt đầu một ngày mới, chim chóc rời tổ kiếm ăn, dân chúng
dọn hàng ra chợ, các tín đồ Thiên Chúa Giáo đi xem lễ sớm tại các
nhà thờ, các loa phóng thanh của Ty Thông Tin Xuân Lộc mở đầu
bằng các bài hát trữ tình thương lính... thì cũng là lúc Bắc Việt
nã hàng trăm ngàn loại pháo đủ loại vào thành phố, đa số rớt vào
chợ, nhà thờ và các nhà của dân chúng khiến cho người dân vô tội
chết và bị thương như rạ, vì trận pháo kích kéo dài trong 2 tiếng
đồng hồ với hơn 3,000 trái đạn, liên tục không dứt, dân chúng
người thì ngã gục, kẻ thì rụng rời không biết chạy đâu để trốn
tránh tử thần.
8 giờ... quân Bắc Việt tấn công vào
thành phố nhưng bị chận lại bởi Trung đoàn 43BB và Tiểu đoàn 3/4
ĐPQ Long Khánh nên phải chém vè sau khi bỏ lại tại chỗ 100 tử
thi. Nhiều T54 và PT76 bị hạ khắp nơi bởi các hỏa tiễn M72 và các
phản lực cơ A37, F5 của không quân.
Ngày 10/4/75, Cộng quân trở lại tấn
công Xuân Lộc với 2 Sư đoàn 6, 7 và các Trung đoàn thiết xa, khắp
các mặt trận Đông, Tây, Nam, Bắc thành phố từ tòa thị chính Long
Khánh đến sân bay, nơi nào Cộng quân cũng sử dụng quân số cấp
Trung đoàn. Cuộc chiến kéo dài trong nhiều ngày, cả 2 phía giành
dựt từng ngôi nhà, phòng tuyến để trống. Không quân VN đã yểm trợ
tích cực và hữu hiệu cho các đơn vị dưới đất bằng các phản lực cơ
tối tân F5E, góp phần tiêu diệt số lớn Cộng quân. Trung đoàn 43BB
mặc dù đã bị Cộng quân cắt ra từng đơn vị nhỏ, nhưng vẫn tiếp tục
chống trả mãnh liệt, gây cho địch nhiều tổn thất, như Văn Tiến
Dũng đã phải xác nhận trong tác phẩm Đại Thắng Mùa Xuân.
Qua đến ngày 4 của cuộc chiến, Lữ Đoàn
1 Nhảy Dù gồm các Tiểu đoàn 1, 8, 9 và Tiểu đoàn 3 pháo binh Dù
mới từ miền Trung về, được lệnh tăng cường cho Xuân Lộc. Tất cả
trực thăng của 2 Trung đoàn 3, 4 không quân gồm hàng trăm trực
thăng bán phản lực HU1B đã thả hơn 2,000 quân Dù từ Trảng Bom vào
trận địa, các pháo đội Dù cũng được trực thăng Chinook chuyển vận
đến Bộ chỉ huy hành quân Dù đóng kế Bộ tư lệnh Sư đoàn 18BB.
Hai Tiểu đoàn Dù đầu tiên đã nhảy xuống
đồn địch để chiếm lại Bảo Định, chiếm lại quốc lộ 1, nơi 2 Trung
đoàn thuộc Công trường 6 Bắc Việt đang tập trung tấn công Bộ Tư
lệnh Sư đoàn 18BB tại Tân Phong. Một Tiểu đoàn Dù khác nhảy xuống
chiếm lại khu vực vườn cây của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ. Ngoài ra
các Tiểu đoàn khác nhảy vào Xuân Lộc để giải vây cho các Tiểu
đoàn ĐPQ và Bộ Chỉ Huy tiểu khu Long Khánh.
Tại ngã ba Dầu Giây, cộng sản Bắc Việt
cũng đồng loạt tấn công Chiến đoàn 52BB từ ngày 12/4/75 bằng biển
người và tăng, pháo. Lần lượt các tiền đồn, phòng tuyến của Trung
đoàn 52BB từ Kiệm Tân về tới ấp Phan Bội Châu trên quốc lộ 20 bị
tràn ngập. Cuộc chiến trở nên ác liệt và đẫm máu đã xảy ra chiều
ngày 15/4/75 ngay tại xã Dầu Giây, ngã ba 2 quốc lộ 1–20, giữa
Chiến đoàn 52BB (gồm Trung đoàn 52BB, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, các lực
lượng ĐPQ Kiệm Tân, Long Khánh; tổng cộng gom lại 2000 người) và
binh đoàn 4 cộng sản Bắc Việt (trong đó có Sư đoàn 341 tổng trừ
bị của Hà Nội vừa từ Thanh Hóa vào), do Trần Văn Trà vừa thay thế
Hoàng Cầm chỉ huy, đã cho ứng dụng chiến thuật biển người. Trong
trận chiến nướng quân man rợ, tàn bạo và khủng khiếp này của Bắc
Việt, 1 người lính VNCH đã phải chọi với 10 binh sĩ Bắc Việt với
tăng và pháo. Chiến đoàn 52BB cuối cùng đã tan hàng vào đêm
15/4/75, tất cả pháo binh, thiết giáp, người đều bị CS Bắc Việt
hủy diệt sau mấy ngày đêm cầm cự. 9 giờ đêm đó, khi chiếc hầm chỉ
huy của Chiến đoàn bị bắn sập, Đại tá Chiến đoàn trưởng mới cho
rút quân, theo ông chỉ còn... 200 người sống sót.
3. Hai trái bom “Daisy Cutter” tại mặt
trận Dầu Giây
Trong cuộc phỏng vấn của nhà văn Phạm Huấn sau ngày 30/4/75,
Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn III đã cho biết,
sau khi trình Bộ Tổng tham mưu, ông đã ra lệnh cho không quân sử
dụng 2 trái bom “Daisy Cutter” tại ngã ba Giầu Dây trong đêm
15/4/75, vào vùng tập trung quân của Bắc Việt ngay khi Chiến đoàn
52BB bị tan hàng, gần 10,000 quân Bắc Việt với chiến xa T54, đại
pháo đang di chuyển trên quốc lộ 20 vừa tới ngã ba Dầu Giây đã bị
hủy diệt toàn bộ.
Bom “Daisy Cutter” còn được gọi là bom
“con heo” hay là bom “tiểu nguyên tử” có chiều dài và chiều cao
gần tương đương với vận tải cơ C–130, trọng lượng là 7 tấn vừa vỏ
bọc, vừa khói thuốc 15,000 cân Anh TNT. Bom con heo dùng để mở
bãi đáp cho cấp Sư đoàn hay lộ quân trong bất cứ địa thế nào và
có hiệu quả sát hại trong vùng có đường kính 5 dặm Anh.
10 giờ sáng ngày 16/4/75, không quân
VNCH gọi về Bộ tư lệnh Quân đoàn III báo cáo về rừng người, chiến
xa, đại pháo Bắc Việt đang tập trung trong xã Dầu Giây để chuẩn
bị về Sài Gòn. 11 giờ cùng ngày, 2 vận tải cơ C–130 được lệnh
mang 2 quả bom khổng lồ, xuất phát từ phi đạo 39 tại phi trường
Tân Sơn Nhất, thả xuống vùng tập trung quân của CSBV, khiến cho
đại quân của Hà Nội rối loạn trong 3 ngày liền và CSBV liền la
làng rằng Mỹ đã vi phạm Hiệp định Paris và cho B52 trở lại.
Việc Mỹ viện trợ bom “con heo” cho VNCH
cũng là chuyện khôi hài cười ra nước mắt vì chỉ cho bom mà không
cấp đầu đạn, cũng như bí mật được phanh phui sau ngày miền Nam bị
cưỡng chiếm rằng trong khoảng từ 3 giờ đến 3 giờ rưỡi sáng ngày
29/4/75, 3 chiếc C–130 của cơ quan DAO dùng để di tản người,
không biết do lệnh của ai, từ đâu, đồng loạt chở vào VN 3 trái
bom CBU 82, Daisy Cutter, 15,000 cân Anh. Rồi trong lúc các
chuyên viên Việt–Mỹ đang tháo gỡ đem vào kho an toàn thì phi công
Mỹ lại vô tình hay cố ý dùng điện thoại báo cáo để CS Bắc Việt
biết được mà pháo kích vào địa điểm đang bốc dỡ. Mỹ đã tháo chạy,
Nam VN sắp mất, lại đem bom đến Sài Gòn làm gì, đó là bí ẩn mà
các nhà quân sự Mỹ vẫn chưa chịu tiết lộ cũng như số phận của
những trái bom khổng lồ trên đang ở đâu, cũng chẳng ai biết ngoài
Bắc bộ phủ.
4.
Quân lực VNCH rút khỏi Long Khánh
Về việc rút khỏi Long Khánh, trong khi
các đơn vị chiến đấu tại đây (ngoại trừ ngã ba Dầu Giây) vẫn còn
giữ nguyên được các vị trí, cũng có nhiều nguồn tin. Theo lời đồn
từ những kẻ thân cận làm việc trong Dinh Độc Lập thì TT Nguyễn
Văn Thiệu khi được tin Phan Rang thất thủ và các quân nhân tại
đây uất ức trong cảnh gia đình ly tán, đất nước lâm nguy nên bất
tuân thượng lệnh, dùng xe ủi đất và chiến xa M113 san bằng mồ mả
gia đình TT Thiệu, bởi vậy quá đau đớn, trước khi bỏ ngai vàng,
ông đã cho rút khỏi Long Khánh để Bắc Việt mau vào Sài Gòn thay
thế ông, vì theo các thầy tướng số mà ông tin, thì nếu ông từ
chức, Nam VN không ai có thể thay thế được, trừ CS.
Nhưng theo lời Tướng Nguyễn Văn Toàn,
thì chính ông ra lệnh rút bỏ Long Khánh vì thấy rằng phòng tuyến
này không còn giữ được nữa, hơn nữa quân CSBV, sau khi bị thiệt
hại nặng nề, đã cho thay đổi kế hoạch tấn công Sài Gòn bằng chiến
dịch 2 với với 5 Sư đoàn tấn công Biên Hòa, Phước Tuy đồng loạt
với 3 Sư đoàn khác tại Tây Ninh. Vì vậy, Long Khánh không còn là
điểm nóng, nên tất cả lực lượng tham chiến tại đây phải rút về
Biên Hòa để lập phòng tuyến mới.
Qua 12 ngày ác chiến đẫm máu, tuyến
thép Xuân Lộc vẫn đứng vững dù Phan Rang đã thất thủ vào 17/4/75,
Phan Thiết mất 18/4/75, Bình Tuy bỏ ngõ – giờ đây Xuân Lộc là
vùng giới tuyến của đất nước. Tin thắng trận của Sư đoàn 18BB, Lữ
Đoàn 1 Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thiết giáp, Địa Phương Quân, Lôi
Hổ và Không quân tới tấp bay về Sài Gòn, như những gáo nước lạnh
tạt vào vài bọn nhà báo – nhà văn – ký giả – trí thức ngoại quốc
và trong nước đang chờ đợi xem một màn cụp lạc về sự sụp đổ của
VNCH, khiến họ không còn cách nào để mà bóp méo, xuyên tạc được
nữa nên đã thay dổi thái độ và kính phục tinh thần bất khuất của
người chiến sĩ VNCH, bởi vì đây là chiến thắng vĩ đại cuối cùng
của Quân Lực này trước khi phải rã ngũ.
10 giờ sáng ngày 20/4/75, lệnh bỏ Long
Khánh được ban hành bởi Tư lệnh Sư đoàn 18BB. Tất cả lực lượng
tại đây dùng Liên tỉnh lộ 2, phát xuất từ Tân Phong, Long Giao về
Phước Tuy với 3 cánh quân Sư đoàn 18BB, tiểu khu Long Khánh +
ĐPQ, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù + Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù.
Trong cuộc rút quân này, Lữ Đoàn 1 Nhảy
Dù bị thiệt thòi và chịu số phận bi đát nhất vì là đơn vị đi đoạn
hậu: họ phải chống trả CSBV, 2 bên còn đang giao tranh ác liệt
tại Bảo Định thì 7 giờ tối ngày 20/4/75 có lệnh rút quân, trong
khi các thương binh và tử thi lính VNCH chưa dược di tản. Nhưng
tất cả đành phải bỏ lại như năm nào tại Hạ Lào, bởi vì đối với
người còn sống, đoạn đường đầy xác lính VNCH hơn 4km trong rừng
cao su đen nghịt để ra quốc lộ 1, là các cửa địa ngục phải vượt
qua. Tất cả thảm trạng trên đều là những oan khiến bi thảm của
người lính VNCH mà ít ai biết đến.
Chín giờ tối, các Tiểu đoàn Dù này mới
tới quốc lộ và một hoạt cảnh cảm động đã diễn ra, tất cả giáo dân
của xóm đạo Bảo Định, Bảo Toàn, Bảo Hòa đã tập trung sẵn 2 bên vệ
đường để theo chân lính di tản. Thì ra người lính VNCH trong suốt
cuộc chiến nồi da xáo thịt, luôn luôn là những kẻ giữ nhà, giúp
dân – tình quân dân thắm thiết chỉ được nhắc tới trong những lúc
cùng khốn, cực nguỵ CS Hà Nội đã biết được cái ưu điểm này của
người lính miền Nam, nên không ngớt khuấy phá, xuyên tạc, đầu độc
bằng cách cho cán binh của họ trà trộn giả làm lính VNCH trong
những lúc rối loạn, chẳng hạn như vụ Tết Mậu Thân, Mùa Hè Đỏ Lửa
72 và 55 ngày cuối cùng này, để bôi xấu bằng cách cướp của, hãm
hiếp dân. Vịn vào đó, một số trí thức VN viết trường thiên lịch
sử tiểu thuyết kể tội lính – cũng như gần đây Dương Thu Hương và
Tạ Chí Đại Trường, một người là văn sĩ bộ đội CS, một người là
cựu sĩ quan biệt phái miền Nam, cũng trở lại đề tài cũ rích trong
việc bôi xấu kẻ ngã ngựa. Những người bị thua trận, nhưng càng
lúc, càng được nhiều người trong thế giới văn minh cảm phục khi
từ từ khám phá ra cái giá trị tinh thần xứng đáng của họ.
Mấy chục cây số đường rừng bị bỏ hoang
trên liên tỉnh lộ 2 từ Tân Phong, đến Đức Thành, Long Lễ và Bà
Rịa không phải là chuyện bình thường của một đoàn quân có dân
chúng lẫn lộn, bởi vậy ngay trong đêm rút quân 10/4/75, Đại tá
Phạm Văn Phúc và Trung tá Lê Quang Định, tiểu khu trưởng và tiểu
khu phó tiểu khu Long Khánh đã bị tử thương vì nhiều loạt B40 của
CSBV bắn sả vào đoàn quân dân đang di chuyển. Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù
rút lui sau cùng, chỉ riêng Tiểu đoàn 3 Pháo binh được di chuyển
trên đường lộ với Đại đội Trinh sát Dù, các Tiểu đoàn tác chiến
đến mở đường bọc sâu trong rừng.
Bốn giờ sáng ngày 21/4/75, tại ấp Suối
Cá, gần ranh giới Long Khánh – Phước Tuy, TĐ3PBND đã bị 2 Tiểu
đoàn CSBV phục kích. Pháo đội C và trung đội trinh sát bảo vệ,
hầu hết đều bị thương vong trước biển người tấn công. Cánh quân
đi đầu của Tiểu đoàn 9 Dù cũng đụng độ nặng với CSBV tại thung
lũng Gia Rai, dưới chân núi Cam Tiên. Ngoài những thiệt hại kể
trên, cuộc rút quân trên liên tỉnh lộ 2 coi như hoàn tất, kết quả
tốt đẹp. Sư đoàn 18BB được chỉ định về phòng thủ tuyến phía Đông
thủ đô Sài Gòn từ Tổng kho Long Bình đến kho đạn thành Tuy Hạ,
tiếp cận với các lực lượng của trường Bộ binh Thủ Đức, trường
Thiết Giáp và một Lữ Đoàn Nhảy Dù có trách nhiệm bảo vệ quốc lộ
15 từ Long Thành về Bà Rịa. Tất cả chiến đấu với giặc cho tới khi
Dương Văn Minh ra lệnh bỏ súng, tan hàng vào lúc 11 giờ 30 mới
chấm dứt.
Chuẩn tướng Lê Minh Đảo và Bộ chỉ huy của Sư đoàn 18BB đóng bản
doanh sát căn cứ hải quân cát Lái, ngày ngày nhìn thấy thiên hạ
bỏ chạy bằng tàu thuyền – ông và các binh sĩ dưới quyền cũng có
thể bỏ chạy dễ dàng như dân chúng, nhưng họ đã ở lại và sau ngày
1/5/75, cái giá mà Tướng Đảo phải trả là sự đày ải, hành hạ, chịu
tủi nhục trong các trại tù từ Nam, Trung ra tận biên giới
Việt–Lào–Hoa, cho đến thập niên 1990, ông vẫn còn bị CS trả thù,
hành hạ tại trại Z30D, Long Khánh.
Cuộc chiến đấu đã phai tàn theo năm
tháng nhưng đồng bào trong nước vẫn không có tự do để thở, cơm áo
để mặc ăn và tình trạng đói rách, kìm kẹp vẫn diễn ra:
Đất nước điêu tàn, giải phóng thành ra
vô ích
Đồng bào rách nát, lãnh đạo quả
thị bất nhân.
Ngày nay, ai có dịp được ngược xuôi trên những miền quê hương lửa
khói xa xưa, từ cổng Nam của thị trấn Hố Nai đến Bầu Cá, Trảng
Bom, Hưng Lộc, ngã ba Dầu Giây lên cao nguyên, xuôi miền Trung,
v.v. không biết họ có còn nhớ chăng những ngày lao đao, lận đận
của đất nước vào tháng 4/75? Cũng chính tại đây, người miền Nam
trước sự lộng hành trơ trẽn, bất nhân, bất nghĩa và vô nhân đạo
của CSBV, đã thực sự phẫn nộ, nên đứng lên tử chiến với họ một
lần cuối cùng trong 12 ngày. Trong khi Hà Nội, Đảng ngồi đứng
không yên, chờ tin thắng trận. Cũng thời gian đó, tại Sài Gòn,
hàng hàng lớp lớp lãnh đạo, quan quyền, kẻ có thế lực tiếp nối bỏ
đi, thì trong khi đó tại các mặt trận khắp tỉnh Long Khánh, người
Việt trong 2 quân đội thù nghịch, ăn xương uống máu lẫn nhau, kẻ
tấn người đỡ. Họ từng phút từng giây tắm dưới bom đạn, lội trên
máu thịt con người, giành nhau từng bước tường cháy, đống gạch
vụn, mái nhà xiêu, đến các công thự phòng thủ để giữ mạng. Tội
nghiệp và thê thảm nhất vẫn là dân chiến nạn miền Nam, chạy loạn
từ các vùng bị giặc chiếm như Đà Lạt, Di Linh, Định Quán, Kiệm
Tân về hoặc xa hơn là Phan Thiết, LaGi, Võ Đắc, Tánh Linh. Tất cả
cùng với Long Khánh cùng chịu chung số phận của những con cá nằm
giữa thớt, dao, đạn bom vô tình rơi xuống khiến cho: “Đống xương
vô định, đã cao bằng đầu...” bởi tử thi của hơn 60,000 người vừa
dân, vừa lính VNCH và... bộ đội CSBV.
Hai mươi năm qua rồi, tóc xanh thành
tóc bạc, bạn bè thân thương một còn, chín mất, lưu lạc khắp ngàn
phương. Cái mộng mị năm nào được:
Ngày mai rồi có ngày nào,
Cưỡi voi theo gót ai vào Thăng Long...
(Thơ Vũ Tầm Hoan)
đã tan biến theo mây khói, giờ chỉ còn
biết:
Nghiêng
bầu mà hỏi
Thiên hạ mang mang
Ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một
hồ trường
Hồ trường, Hồ trường...
Ta biết rót về đâu...
(Thơ Nguyễn Bá Trạc)
Hồ Ðinh
Nguồn:
http://doanket.orgfree.com/quansu/xlhodinh.html
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by psxh chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, March 14, 2021
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang