Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký
Chủ đề:
Vượt biển
Tác giả:
Nguyễn Thượng
Chánh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Để tưởng nhớ đến các đồng bào
VN đã bỏ mình trên bước đường đi tìm tự do.
Hắn và vợ, tay bồng tay dắt 2 đứa con
còn nhỏ, lặng lẽ, bùi ngùi bước ra khỏi nhà cha mẹ, nơi mà 2 vợ
chồng hắn tá túc từ hơn 1 năm nay tại Sài Gòn. Đồ đạc chỉ vỏn vẹn
có 2 cái xách tay nhỏ, đựng một vài bộ quần áo cũ và một ít thức
ăn khô.
Đó là
ngày 23 tháng 3 năm 1980. Hắn vừa tròn 37 tuổi. Trời còn tối om
khoảng 3–4 giờ sáng. Trong nhà, ngoài một cô em vợ ra thì không
còn ai hay biết gì hết. Hắn dặn cô em nhờ nói lại với Ba Má là
Anh Chị cần phải về Cần Thơ gấp để xin lại căn nhà bị tịch thu 1
năm trước đó vì đi không lọt và bị bắt...
Đây là lần thứ 3 hắn liều mạng lôi vợ
con mạo hiểm theo hắn. Chợt một ý nghĩ lóe lên trong đầu hắn, coi
chừng “nhứt quá tam” hay “jamais deux sans trois” làm hắn cũng
ngài ngại...
Lần đầu năm 78, xuống “cá nhỏ” ngay tại bến Ninh Kiều Cần Thơ
nhưng chuyến đi bị gài bẫy từ đầu nên khi vừa leo qua “cá lớn”
đậu ngay vàm Cần Thơ thì công an đã chờ sẵn trong ghe đón tiếp
nồng hậu không sót 1 mống, chẳng khác nào cá vào rọ.
Hắn và vợ con bị nhốt hết 2 ngày ở Chấp
Pháp Cần Thơ nằm gần mé sông, cách Trại Nhập Ngũ số 4 cũ một
quãng trên đường vô Cái Răng.
Qua ngày hôm sau một diễn biến thật bất
ngờ xảy ra như một giấc chiêm bao. Hắn và vợ con được thả. Đây là
một cái bất ngờ tuyệt diệu chẳng khác nào cá mắc cạn được đem thả
lại xuống nước. Khỏi phải nói 2 vợ chồng hắn đều mừng hết lớn.
Tưởng đâu là cuộc đời mình đã bị tiêu tùng rồi, nhưng có lẽ nhờ
phước đức ông bà để lại hay nhờ có số may mắn gì đó mà gia đình
hắn được ban lãnh đạo Đại Học vận động với bên công an thành phố
Cần Thơ thả ra thật sớm và về làm tờ tự kiểm.
Thời điểm đó phong trào vượt biên nở rộ
khắp miền Nam. Đặc biệt đa số giới trí thức cũ đều bằng mọi giá
tìm cách bỏ đi. Anh nào không đi thì bị thiên hạ mỉa mai và liệt
vào nhóm trí thức 3N tức là hoặc nghèo, hoặc nhát hay hoặc ngu!
Chất xám thất thoát nhiều khiến nhà nước cộng sản phải cấp bách
đề ra chính sách o bế giới trí thức cũ để dụ họ ở lại phục vụ đất
nước. Chòm xóm không ai hay biết gì hết, nhà cửa vẫn còn nguyên
vẹn. Hú hồn hú vía.
Rồi hắn được cho đi làm việc trở lại
tại nhiệm sở cũ là trường Đại học Cần Thơ. Vợ hắn, dược sĩ
“ngụy”, thì cũng được gởi gắm đi làm tại một nhà thuốc Tây quốc
doanh nằm trên đường Nguyễn An Ninh ngay trong thị xã Cần Thơ, lẽ
đương nhiên là dưới quyền sai bảo của chị thủ trưởng dược tá giải
phóng.
Nói là
đi làm cho nó ngon vậy đó chớ thật sự ra có làm gì đâu, mà cũng
chẳng có ai dám giao cái gì đâu mà làm. Hắn biết là 2 vợ chồng
hắn đang bị người ta theo dõi và canh chừng gắt củ kiệu lắm. Tối
ngày lo lây quây học tập chính trị, họp tổ, rồi sau đó là lo ba
cái vụ chầu chực để mua nhu yếu phẩm theo giá chính thức cũng hết
thời giờ rồi. Hắn rầu lắm và hết còn biết tính sao nữa. Bế tắc
hoàn toàn! Chỉ còn có một con đường duy nhất là phải tìm cách
binh nữa. Bằng cách nào Hắn cũng chưa biết được. Chỉ còn biết cầu
xin và chờ phép lạ mà thôi.
Rồi một dịp may khác lại xuất hiện một
năm sau tức năm 79... Xuống bãi tại Phong Điền. Ghe là một loại
tam bản lớn không có mui gì hết, ớn quá chừng nhưng lỡ rồi. Ghe
thả theo dòng nước sông Hậu tà tà hướng xuống Cà Mau để mong tìm
đường ra biển. Nhưng than ôi! Kỳ này lại bị tổ trát một lần nữa,
xui xẻo hết cỡ ngoài dự tính. Đúng là mưu sự tại nhân thành sự
tại thiên. Một trạm kiểm soát trên sông Ông Đốc thình lình gọi
ghe tấp vào bờ để xét hỏi. Thế là bể! Cả ghe bị tóm. Hắn và tất
cả bạn đồng hành đều bị áp giải vô Rạch Rán Cà Mau.
Trong chuyến đi này ngoài nhóm bạn bè
của hắn trong Đại học Cần Thơ như Anh Chị PL (hiện còn ở VN) còn
có dược sĩ B. (hiện hành nghề ở San José), anh dược sĩ C. và vợ
cũng là dược sĩ D. ở Cần Thơ (không biết bây giờ ở đâu và còn
sống không) và Trung tá y sĩ HNT. (Quân y viện Phan thanh Giản
Cần Thơ). Bs T. hiện định cư ở Houston...
Một hai tuần sau thì gia đình bên vợ
hắn ở Sài Gòn mới hay được hung tin là chuyến đi bị vướng. Tội
nghiệp Ông Bà Ngoại các cháu phải cực khổ tức tốc lặn lội từ Sài
Gòn xuống thị xã Cà Mau, rồi từ đây đón đò máy đi cả buổi mới tới
Rạch Rán để xin lãnh 2 đứa nhỏ về nhà...
Sau vài tuần bị nhốt thì vợ hắn cũng
được thả về trước, còn hắn thì bị giam thêm một thời gian nữa.
Ban ngày, họ bắt bọn hắn đi lội nước nhổ cỏ ngoài ruộng để cho
biết thế nào là lao động chân tay. Tối về láng, hắn và các bạn tù
bị xiềng một cẳng lại với nhau qua một thanh sắt dài khóa lại ở
một đầu phía ngoài cửa vào. Tiểu tiện phải “làm” trong lon ngay
tại chỗ, xong thì chuyền cho người nằm sát vách phía bên trong,
vạch tấm phên ra và hất đại xuống mương. Muỗi Cà Mau nhiều không
thể tưởng tượng được. Mới 4–5 giờ chiều là chúng bay vo vo đen
nghịt thấy mà phát sợ.
Vướng lần thứ 2 này hắn nghĩ rằng chắc
phải bị kẹt lâu lắm chớ không mong gì về sớm được. Hắn thuộc gia
đình ngụy quyền mà, có ông già bị đưa đi tu nghiệp vô thời hạn
ngoài Hà Nam Ninh. Vợ hắn thuộc loại tư sản vì có nhà thuốc Tây ở
Sài Gòn. Mặc dù đã bị kiểm kê ốp hết ráo hết trọi, của thiên trả
địa, nhưng gia đình hắn vẫn nằm trong diện không được thiện cảm
của chế độ đương thời cho lắm!
Lúc bị nhốt, tin bên ngoài từ Cần Thơ
cho biết là có vài người không đồng ý xin cho hắn ra vì hắn thuộc
loại quá ngoan cố hết thuốc chữa. Chắc cũng không mấy sai. Người
ta đã tha cho một lần rồi mà không tởn. Hắn rầu thúi ruột đi.
Tương lai mù mịt. Nhưng rồi hắn thầm nghĩ, đây là một canh bạc,
có lúc ăn thì có lúc thua, đó là lẽ thường tình ở đời mà thôi.
Cũng may, sau khi bị nhốt hết 3 tháng
thì cả nhóm được Thành Hội Trí Thức Yêu Nước Cần Thơ cử Anh ba T.
xuống lãnh hết ra... Lần này thì mất hết tất cả. Te tua. Lỡ leo
lên lưng cọp rồi thì không thể xuống được! Đúng là cùi rồi nên
không còn sợ lở nữa! Nhà cửa của cải bị mất hết, mất luôn cả hộ
khẩu, nên gia đình hắn chẳng còn chỗ nào ở đành phải về tá túc
một cách bất hợp pháp nhà ông bà già vợ tại Sài Gòn.
Vốn liếng, nữ trang và bao nhiêu cây
dành dụm từ bấy lâu nay đều được đem chụm hết trong 2 chuyến đi
hụt vừa qua. Láng túi sạch sẽ. Để kiếm sống qua ngày, vợ hắn phải
nấu xôi, pha cà phê bán ngay bên lề đường cạnh tiệm thuốc Tây cũ
của mình tại đường Bùi Chu Sài Gòn.
Còn hoàn cảnh của vợ chồng người bạn là
dược sĩ C.&D. cũng bi đát lắm. Họ cũng mất nhà và mất cả nhà
thuốc CD ở đường Tự Đức Cần Thơ nên đành phải bắt buộc dẫn bầy
con về tá túc nhà bố mẹ ở Sài Gòn. Để kiếm sống, anh chị C.&D.
làm bánh cam rồi hì hục mỗi ngày Anh C. từ nhà ở Sân Cộng Hòa
cong lưng đạp xe ra bỏ mối cho vợ chồng hắn bán tại quán cà phê
lề đường. Đây là tình nghĩa bạn bè lúc hoạn nạn...
Đó là hình ảnh của các dược sĩ của chế
độ cũ một thời le lói hết sức nhưng lúc sa cơ thất thế thì cũng
thê thảm không ai bằng! Lên voi xuống chó là thế đó! Còn hắn thì
chạy tới chạy lui phụ giúp ba cái chuyện lặt vặt cho bà xã. Hắn
xuống tinh thần, mất moral, chán chường thấy rõ, nhất là mỗi khi
nghe tin có một người bạn nào đó đã tới nơi yên ổn sướng quá. Hắn
cảm thấy mình là kẻ thua cuộc, lẻ loi và cô độc hết sức. Có nhiều
người khi xưa là bạn, nay thấy hắn thì lại lơ lơ là là, có lẽ họ
sợ bị liên lụy đến bản thân chăng! Đời là thế! C est la vie!
Cũng vào thuở đó, lao động là vinh
quang nên phong trào tăng gia sản xuất bằng cách nuôi heo rất phổ
biến trong các thành phố. Bất cứ chỗ nào cũng có thể nuôi heo
được hết. Heo và nguời ở chung với nhau. Nuôi ngay tại Sài Gòn
trong những căn nhà lầu và trong một số villa sang trọng mà lúc
đó đã đổi chủ. Họ nuôi trong nhà bếp, nuôi ngoài sân, và thậm chí
có người còn nuôi heo cả trên sân thượng nữa. Hắn chụp thời cơ
nhảy ra làm nghề chích dạo và chữa bệnh cho heo.
Phần đông thân chủ của hắn là những
người quyền thế của chế độ mới. Họ cho xe lại đón hắn về nhà khám
bệnh cho heo, tiền bạc sòng phẳng! Hắn sống lây lất qua ngày để
chờ thời. Hắn cảm thấy tuyệt vọng trước một viễn ảnh đen tối
không còn lối thoát. Mỗi khi nhìn thấy ghe tàu đậu dưới sông là
hắn thầm mơ tưởng viễn vong và ước ao phải chi này nọ. Hắn mơ,
hắn thầm ước ao và cầu nguyện là có thể đưa gia đình đến một nơi
nào, sẵn sàng làm bất cứ công việc gì miễn sao nơi đó hắn có thể
hít thở được một không khí thật sự tự do mà thôi...
Rồi một hôm có một anh bạn đến móc nối
hắn vì biết hắn đã từng du học nhiều năm tại Bangkok và nói được
chút ít tiếng Thái để làm thông dịch khi cần.
******
Ra đến bến xe xa cảng Miền Tây, hắn lấy
vé chợ đen đi Cần Thơ, nơi chôn nhau cắt rún và cũng là nơi mà
hắn có rất nhiều kỷ niệm trong suốt 10 năm dạy học tại đó.
Ngủ nhờ tại nhà người quen qua đêm
trong một tâm trạng hết sức phập phòng lo sợ bị phường khóm xét
hỏi bất tử.
Trời vừa hừng sáng thì gia đình hắn lật đật ra Bến xe Mới ở lộ 19
Cần Thơ thật sớm để lấy vé đi Sóc Trăng. Hắn rất sợ phải chạm mặt
bất ngờ với mấy em sinh viên hay người quen thì coi như bể hết.
Tại Sóc Trăng, hắn đổi xe dông tuốt
xuống Cà Mau. Tới thị xã Cà Mau khoảng 4–5 giờ chiều, còn đang
đứng lớ ngớ ở bến xe chưa định hồn không biết phải làm gì bây
giờ, vừa hồi hộp lo sợ công an xét giấy đi đường và cũng vừa lo
lắng không biết người liên lạc có đến đúng hẹn hay không, thì may
thay hắn gặp được một hai người quen ở Cần Thơ. Họ cũng đồng một
cảnh ngộ như gia đình hắn vậy. Trong chuyến đi này có cả nhạc sĩ
PMC dẫn theo 2 đứa con. Anh PMC và các cháu hiện đang sống tại
Montreal. Hắn cảm thấy hơi bớt lo đôi chút.
Mướn chiếu ngủ đỡ giữa trời ngay tại
bến xe. Nằm trằn trọc, lăn qua lăn lại suốt đêm, đầu óc thật căng
thẳng, mãi đến 4 giờ sáng thì có người đến ra dấu cho từng tốp
nhỏ đi theo họ xuống bãi một cách thật lặng lẽ.
Nối gót theo người dẫn đường đi một
khoảng xa ở phía trước, hắn lôi vợ con hấp tấp bước theo, xuyên
qua những con hẻm quanh co giữa các xóm nhà bình dân còn chìm đắm
trong đêm khuya tĩnh mịch.
Trống ngực hắn đánh thình thịch liên
hồi. Hắn sợ tất cả: sợ gặp phải tổ dân phố, sợ công an, sợ người
lạ, sợ con nít và sợ luôn cả mấy con chó trong xóm. Tâm trạng hắn
lúc đó thật là phức tạp. Hắn vừa hồi hộp, vừa lo lắng, vừa bùi
ngùi đứt ruột vì phải xa lìa đất mẹ, nhưng đồng thời hắn cũng cảm
thấy vô cùng phấn khởi náo nức khi nghĩ đến mỗi bước đi tới sẽ là
những bước đưa gia đình hắn đến gần một chân trời mới đầy tự do
và hy vọng... Hắn niệm Phật thầm trong bụng.
Rồi kìa, Cá lớn đậu chình ình ngay tại
bờ sông trước mắt. Đây là loại ghe bầu để chở hàng trên sông, dài
cỡ 12m là cùng, có mui bịt kín khoang, và ở phía đàng sau là
cabine nhô cao lên để tài công lái. Hắn không nói ra nhưng trong
bụng hơi lo vì không biết loại ghe này đi biển có được không!
Thôi thì đành chịu vậy, vả lại đài radio tiên đoán tình hình thời
tiết ở biển Đông và vịnh Thái Lan khá tốt. Có người còn nói tháng
ba bà già đi biển vì biển rất êm vào mùa này. Mấy người tổ chức
cho biết là họ đã chuẩn bị kỹ lắm đừng có lo. Máy ghe là máy
Yanmar loại mới, 6 hay 7 blocs gì đó. Nói vậy thì nghe vậy chớ
hắn nào có biết ất giáp gì đâu.
Tất cả mọi người đều bị ếm trong khoang
ghe, không được gây tiếng động. Mấy cháu bé đều bị cho uống thuốc
ngủ trước đó hết. Trong ghe, tất cả được chia nhau ngồi chen chúc
dọc theo 2 bên vách. Mọi người đều im lặng. Trên cabine thì chỉ
có tài công và “1 người địa phương hướng dẫn” mà thôi. Tất cả có
69 người khách vừa lớn vừa nhỏ.
Ghe mở máy chạy bình bịch một cách
thong thả xuôi theo dòng nước Sông Ông Đốc đổ ra biển. Vĩnh biệt
quê hương yêu dấu! 2 bên sông, xóm làng khi ẩn khi hiện sau những
rặng cây bần xanh tươi. Dưới nước, ghe xuồng và tát ráng xuôi
ngược không ngơi.
Càng ra gần cửa biển lòng sông càng mở
rộng ra. Bà con trong ghe thì không ai nói với ai lời nào cả,
tinh thần mọi người đều rất ư căng thẳng vì chưa ra tới biển.
Trời đã bắt đầu tối. Đến khoảng 11 giờ
khuya, thình lình từ trong màn đêm lóe lên tia sáng chớp tắt của
ánh đèn Pile nào đó, rồi chẳng bao lâu không biết từ đâu đến, một
chiếc xuồng nhỏ cặp sát vào ghe, “người hướng dẫn” từ cabine tuột
xuống xuồng và biến mất trong đêm tối. Sắp tới trạm biên phòng
rồi, mọi người đều im lặng, ghe tắt máy tắt hết đèn và thả trôi
theo dòng nước. Mọi người đều nín thở im lặng và cầu nguyện thầm
trong bụng. Thật là đứng tim trong 25 phút dài bất tận.
Qua khỏi trạm kiểm soát một đỗi khá xa,
máy ghe được mở trở lại xả hết tốc lực về hướng cửa biển. Nhưng
không bao lâu thình lình ghe bị khựng lại, hình như đụng phải vật
gì ở dưới nước. Mọi người đều xanh mặt hồn vía lên mây. Có 1–2
anh em khỏe mạnh nhảy xuống nước để xem tình hình thế nào.
Trời ơi ghe bị vướng đáy rồi, xui ơi là
xui.
Biết làm
sao bây giờ!!!
May Trời cũng còn thương, lối 1 tiếng
đồng hồ sau, nhờ con nước lớn chiếc ghe tự nhiên sút ra khỏi đáy
và tiếp tục vọt ra biển với hy vọng có thể ra tới hải phận quốc
tế trước khi trời sáng tỏ. Láng cháng dám gặp đám tàu đánh cá
quốc doanh thì phiền phức lắm.
Biển đây rồi, gió thổi ào ào, trời nước
mênh mông vô tận. Ghe nhảy sóng một cách chòng chành, lắc lư làm
nhiều người bắt đầu bị say sóng ói mửa tùm lum.
Chạy theo hướng nào đây? “Nhiệm vụ” này
đã được phân công cho anh T. trung úy hải quân, nhưng ra tới biển
là anh ta bị say sóng như chết rồi nên không giúp ích gì được
hết. Té ra anh ta chỉ làm trong văn phòng mà thôi chớ không có
kinh nghiệm về hải hành gì hết. Có bạn nóng mũi, văng tục Đ.M.
đòi quăng anh ta xuống biển cho đỡ tức. Nhưng rồi cũng bỏ qua
thôi.
Cái la
bàn nhỏ xíu được lôi ra để định hướng. Người bàn thế này, người
nói thế kia, cãi cọ om sòm. Cuối cùng thì nhắm hướng mặt trời lặn
mà chạy cầu may.
Đến quá trưa, thình lình tiếng máy nổ
khác thường, lạch cạch lạch cạch rồi êm ru bà rù. Anh thợ máy bất
đắc dĩ nhảy xuống tháo các bộ phận máy ra, xem cái này, mò mẫm
cái kia, mở ra lắp vào cả tiếng đồng hồ, mồ hôi nhễ nhại, rồi thử
quay máy cho chạy. Mọi người đều nín thở. 1 lần, 2 lần, 3 lần, 4
lần... Tất cả đều im lặng chỉ có tiếng gió thổi ào ào bên ngoài
ghe mà thôi. Vô ích: máy hư rồi! Mọi người đều vô cùng thất vọng
ra mặt. Trời ơi! Làm sao đây Trời!!!
Gió càng lúc càng thổi mạnh, trời bắt
đầu kéo mây đen kịt. Những con sóng to nối tiếp nhau đợt này đến
đợt khác, nhồi chiếc ghe lên xuống, lắc qua lắc lại như một cái
hột vịt vậy. Ai nấy cũng đều điếng hồn hết. Thế này thì cái chết
cầm chắc trong tay thôi. Cũng may là trên ghe có một chị đã từng
đi sông đi biển rồi nên có một chút kinh nghiệm. Chị ta hướng dẫn
các anh tài công bất đắc dĩ về cách bẻ càng lái để chặt sóng.
Trước tình thế thập tử nhứt sanh, hắn
và một số anh em trên ghe phải thay phiên nhau ra phía sau ghe
rán sức kềm kềm cái càng lái. Đây là một cái cán gỗ rất dài để
điều khiển bánh lái. Kềm nó cho đúng hướng rất nặng nề và rất khó
khăn, vì sóng to và gió quá mạnh. Những lúc ghe nghiêng thì rất
nguy hiểm, không khéo là bị cái càng lái gạt té xuống biển như
chơi. Nhiều lúc hắn cũng xém bị hất xuống biển.
Trời kéo mây thêm nữa, gió bắt đầu nổi
lên càng lúc càng mạnh hơn đẩy chiếc ghe đi rất nhanh, nhồi lên
hụp xuống, thật kinh hãi hết sức. Đàng xa hiện rõ dần dần bóng
dáng lờ mờ của một hòn núi mà có người cho biết đó là đảo Thổ
Châu, cách đảo Phú Quốc 100km về hướng nam. Tâm trạng của anh em
lúc đó thật phức tạp, mừng lo lẫn lộn vì nếu ghe tấp vào đảo thì
khỏi phải chết, nhưng lại phải đi tù mút chỉ cà tha. Tự nhiên lối
1 giờ sau thì gió lại đổi hướng thổi bạt chiếc ghe trở ra, đi mãi
và đi mãi ra khơi...
Thỉnh thoảng có những con cá nược phóng
theo 2 bên ghe như muốn lội đua cùng chiếc ghe khốn khổ. Hắn cảm
thấy mình bất lực hoàn toàn trước hoàn cảnh bi đát này. Chỉ nằm
chờ chết. Ôm vợ con vào lòng mà đầu óc thật ngổn ngang trăm ngàn
ý tưởng không mạch lạc. Hắn lâm râm niệm chú Nam mô Đại từ Đại bi
cứu khổ cứu nạn, quảng đại linh cảm Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát...
Trước cái chết gần kề mình mới cảm nhận
được giá trị của cái sống. Hắn nghĩ đến lúc ghe bị lật úp chắc
hãi hùng lắm. Hắn cảm thấy thật ân hận khi nhìn vợ và 2 đứa con
còn quá nhỏ tuổi. Không lẽ nghiệp quả của mình nặng nề như thế
này sao! Không lẽ số mình là số con rệp hay sao! Rồi hắn nhớ lại
lá số tử vi do một ông thầy ở Cầu Ông Lãnh lập cho hắn hơn 15 năm
về trước, lúc hắn vừa mới ra trường chưa có vợ con gì hết. Lá số
đâu có nói là hắn sẽ phải chết thảm như vầy đâu. Hắn nhớ ông thầy
có nói hắn có sao Thiên di nên sau này phải ở xa nơi chôn nhau
cắt rún gì đó, ngoài ra cung mạng và cung phúc đức của hắn cũng
khá tốt. Trước khi đi 1 ngày, vợ chồng hắn cũng có lên chùa ở
miệt Phú Nhuận để trước lễ Phật sau là nhờ Thầy trụ trì xem coi
có đi được hay không. Sau khi bấm độn, Thầy nói:
Được! Nhớ tới đây, hắn lại lên tinh
thần. Hắn nghĩ chết sống đều do số mạng cả, lo làm chi cho mệt
mất công...
Mọi người trên ghe đều kiệt sức, đói khát, ngủ gà ngủ gật, chỉ
chờ 1 phép lạ đến cứu mình mà thôi. Bao nhiêu tàu bè nhấp nhô ở
chân trời để rồi cũng rẽ sang hướng khác. Tối đến, mỗi khi thấy
ánh đèn đàng xa, thì bọn hắn đốt đuốc lên làm hiệu, nhưng cũng
toi công thất vọng. Rồi thì chuyện gì sẽ đến thì nó phải đến.
Qua ngày thứ 3, có một chiếc tàu đánh
cá Thái Lan xâm xâm tiến tới. Đây là loại tàu khá lớn và có cả
radar. Mọi người đều kinh hoàng, và hồi hộp. Đàn bà con gái lo
tìm dầu mỡ bôi lên mặt lên mày cho nó thúi tha ghê tởm. Tàu Thái
xáp gần, trên boong lố nhố 5–7 tên có vẻ dữ dằn, rồi tàu cặp vào
sát ghe kêu một cái rầm. Ghe bị chòng chành dữ dội và nứt một bên
hông. Thật khiếp đảm không lường. Mọi người trên ghe đều ngồi yên
thin thít và hồi hộp, im lặng chờ đợi. Bọn Thái nhảy qua ghe, 4–5
tên cầm mã tấu, còn 1 tên thì cầm súng lục. Nhờ biết chút ít
tiếng Thái lúc đi du học mấy năm ở Bangkok nên hắn lãnh nhiệm vụ
làm thông dịch và thương thuyết với hải tặc.
Lúc đầu tụi nó hơi giật mình không hiểu
tại sao trên ghe có người lại biết nói tiếng Thái. Hắn cắt nghĩa,
hắn tả oán hoàn cảnh bi đát và xin tụi nó giúp đỡ.
Thằng cầm súng, có lẽ là tên đầu đảng,
chĩa con chó lửa vào đầu hắn và bắt buộc hắn nói lại với tất cả
là phải nộp hết vòng vàng tiền bạc, bằng không thì tụi nó sẽ bụp
một phát là đời hắn tiêu tùng luôn. Hắn rất lạnh xương sống. Hắn
năn nỉ hụt hơi thiếu điều lạy lục tất cả mọi người trên ghe nên
đưa hết tiền bạc ra để đổi lấy mạng sống. Tụi nó lục lạo, tung
bới tất cả đồ đạt, mò xét khắp nơi, đổ bỏ cả thùng nước ngọt để
tìm kiếm nữ trang cất giấu trong đó. Cũng may là tụi nó không có
làm hỗn với ai hết. Xong rồi thì rút đi rất nhanh.
Ghe bị vô nước, tuy chưa nhiều nhưng
cũng phải lo tát ra. Không bao lâu sau thì có 1 chiếc tàu đánh cá
khác lại đến để ăn mót. Có lẽ là bọn hải tặc dùng máy ra–đa thông
báo với nhau. Trước khi đi tụi sau này còn oái oăm bắt theo một
cháu bé 2–3 tuổi gì đó, không biết để làm gì khiến cha mẹ đứa trẻ
quá khiếp đảm kêu gào khóc la thảm thiết. Nhưng may thay, độ 1
giờ sau thì tụi nó quay trở lại trả đứa nhỏ.
Giữa trưa hôm đó thì lại có 1 chiếc tàu
đánh cá thứ 3 đến, nhưng lạ thay tụi nó không xáp vô mà chỉ đậu ở
ngoài xa cách ghe vài chục thước và ra hiệu biểu mình qua. Một
lần nữa hắn lại xung phong lãnh nhiệm vụ này.
Nhảy xuống biển lội thiếu điều đứt thở
hắn mới qua được bên tàu Thái. Tụi này có vẻ hiền hơn mấy đám
kia. Hắn trổ tài ngoại giao nhờ họ giúp kéo ghe vào bờ. Tụi nó
chịu nhưng đòi ăn tiền. Hắn trở về ghe, bàn với mọi người và năn
nỉ người nào còn giấu được tiền bạc thì xin làm ơn làm phước bỏ
ra chớ không thì chết hết cả đám. Cuối cùng thì cũng gom góp được
một số tiền đem nạp cho tụi Thái. Bọn chúng suy nghĩ sao đó không
biết, nhưng cuối cùng cũng chịu.
Chúng nhảy qua ghe quan sát tình hình
một lúc, xong bọn chúng hè nhau tháo cái máy ghe đem về tàu đánh
cá và ra lệnh cho tất cả mọi người phải leo qua tàu của chúng,
chỉ chừa lại 2 người ở lại để điều khiển chiếc ghe. Sau đó thì
chúng thả dây cột chặt chiếc ghe để tàu đánh cá kéo đi.
Đến đây thì mọi người đều thở phào,
phấn khởi lên tinh thần thấy rõ.
Chúng nấu cơm cho ăn. Thức ăn chính là
món cá chiên, ăn ngon ơi là ngon. Nước đá uống thả giàn, vì có cả
hầm lận. Chúng nói chưa vô bờ liền được vì còn phải đi kéo lưới
thêm 1 ngày nữa. Muốn sao thì mình đành phải chịu vậy.
Tối đến, mưa trút xuống dữ dội như thác
nước, ai nấy đều ướt loi ngoi như chuột và lạnh cóng run cầm cập.
Thằng nhỏ con trai 3 tuổi của hắn bắt đầu sốt nóng và ho nhiều.
Chắc là nó bị cảm lạnh hay bị sưng phổi gì đó. Vợ hắn đè nó ra
lấy dầu cù là cạo gió, rồi sau đó hắn mò được trong túi xách một
hũ ampicilline, đem ra lụi cho thằng nhỏ mấy phát nó mới bớt
sốt...
Giữa
đêm có tiếng la thất thanh từ chiếc ghe ở phía sau: Anh S. té
dưới biển rồi. Mọi người đều hốt hoảng. Hắn báo động cho bọn Thái
hay liền. Tàu bớt máy và quay ngược trở lại, rọi đèn pha rà tới
rà lui khắp mặt biển.
Sau một hồi tìm kiếm thì thấy nạn nhân
đang ngụp lặn dưới nước. Chúng thả phao xuống và kéo anh ta lên.
Khỏi phải nói người mừng nhất là vợ con của anh ta.
Qua đêm hôm sau khoảng 1–2 giờ khuya,
thình lình chúng ngưng tàu lại. Ai nấy đều nhốn nháo lên. Có
chuyện gì đây??? Chúng kêu hắn lại và chỉ ở chân trời phía trước
có một đốm đỏ cỡ lớn hơn đầu điếu thuốc một chút, chớp tắt đều
đặn từng chập. Chúng bảo đó là ánh đèn của ngọn hải đăng nằm trên
1 hòn đảo nhỏ không mấy xa bờ Thái Lan cho lắm. Chúng nói là
không thể kéo mình vô đất liền được vì sợ cảnh sát Thái bắt, nên
ra lệnh bắt buộc tất cả phải trở về ghe ngay lập tức. Ai nấy đều
nhao nhao lên quá sợ vì ghe đã bị bể rồi, lại nữa đất liền còn xa
quá, làm sao đây!!!
Mọi người xúm nhau năn nỉ bọn chúng
bằng đủ các thứ ngôn ngữ để xin chúng kéo tiếp vào bờ. Vô ích. Có
2–3 chị giằng co khóc la dữ quá khiến chúng nổi dóa phải đè
khiêng thảy qua ghe. Khi mọi người trở về hết bên ghe, bọn Thái
liền chặt dây và rồ máy vọt mất trong đêm tối.
Ghe tiếp tục trôi chầm chậm theo sóng
nước. Biển rất yên. Trời dần dần sáng tỏ. Đàng xa, bóng dáng của
một trái núi bắt đầu xuất hiện lờ mờ ở chân trời phía trước, và
càng lúc càng rõ nét thêm hơn. Hầu như tất cả bọn đàn ông con
trai đều kéo róc nhau lên ngồi trên mui ghe, hồi hộp chờ đợi...
Chầm chậm và chầm chậm chiếc ghe định mệnh từ từ trôi về hướng
núi...
10 giờ,
rồi 11 giờ, trái núi lần lần hiện ra rõ nét thêm, có thể nhìn
thấy những đám rừng trên cao chen lẫn những tảng đá to tướng xám
xì xám xịt. 11 giờ ruỡi mọi người hết sức hồi hộp. Còn khoảng 200
mét thì tới bờ. Rồi 100 mét ... Rồi 50 mét... thình lình lườn ghe
chạm đá ngầm kêu rồn rột, chòng chành lắc qua lắc lại và nghiêng
qua một bên và rồi dừng hẳn lại. Hắn và các bạn cùng phóng xuống
nước chỉ tới ngang ngực mà thôi.
Chân hắn vừa chạm đất thì nước mắt hắn
cũng tuôn trào ra vì quá vui mừng và quá xúc động. Thế là thoát
chết!
Khi tất
cả mọi người trên ghe đều vô được trong bãi cát, hắn và vài người
bạn mới đi vòng qua các đồi nhỏ, len lỏi giữa đám cây rừng hoang
dã, theo đường mòn vòng qua phía bên kia núi. Thình lình ngước
lên vách núi ở đàng xa bọn hắn thấy có bóng dáng 1 người đang đi
lơn tơn. Hắn và mấy người bạn đều đồng loạt la lên, ra dấu bằng
cách quơ tay quơ chân tới tấp. Người đó đã nhận thấy và đi chầm
chậm về hướng của bọn hắn.
Đó là một anh lính Thái có nhiệm vụ gác
trạm đèn pha trên đảo hoang này. Ngoài ra không có nhà cửa của
dân cư nào khác tại đây hết. Hắn bèn trình bày sơ sơ hoàn cảnh
cho anh ta biết. Anh ta lập tức trở về đồn và điện vô đất liền.
Anh cho biết đây là một đảo nhỏ của Thái Lan nằm ngoài khơi,
không mấy xa thành phố duyên hải Rayong, 150km về phía nam của
thủ đô Bangkok, Thái Lan.
Kể như thoát nạn rồi, nhưng để cho chắc
ăn, tối hôm đó hắn và vài người bạn lẻn xuống chiếc ghe và dùng
búa đập phá cho nước vào thêm trong hầm khoang để khỏi bị cưỡng
bách kéo ra khơi trở lại!
Sáng ra, một tàu cảnh sát Thái đến đón
tất cả 69 người về sở cảnh sát Rayong để lấy lời khai và làm thủ
tục nhập cảnh. Ngủ tại đây 1 đêm, hôm sau thì tất cả mọi người
đều được đưa về trại tỵ nạn Laem Sing.
Đó là ngày 31 tháng 3 năm 1980.
Ngày 22 tháng 6 năm 1980, hắn cùng vợ
và 2 đứa con được bốc đi định cư tại Canada, xứ lạnh tình nồng,
đất lành chim đậu, cuộc đời trước mặt đổi thay và hắn vẫn tiếp
tục đi...
Xin cám ơn TRỜI PHẬT.
Thank you CANADA.
Người viết:
Nguyễn Thượng Chánh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by CATHY chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, November 12, 2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang