Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Thời sự khắp nơi
Chủ đề: Chính trị Xã hội
Tác giả: Mai Vân
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Hầu như người Việt ở đâu cũng chống Trung cộng. Một ví
dụ: Sinh viên
Việt Nam biểu tình trước đại sứ quán Trung cộng
tại Manila, Philippines,
ngày 25/02/2016.
REUTERS/Joshua Roberts
Mới
đây, vào thượng tuần tháng 7/2018, biểu tình chống dự luật Đặc
Khu đã đồng loạt nổ ra nhiều nơi tại Việt Nam, với những khẩu
hiệu chống Trung cộng xuất hiện rộng khắp, bất chấp việc chính
quyền liên tục biện minh rằng từ Trung cộng không hề có trong dự
luật. Trong một bài phân tích công bố ngày 07/07/2018, giáo sư
Carl Thayer, chuyên gia kỳ cựu về Việt Nam tại Học Viện Quốc
Phòng Úc (Đại Học New South Wales), đã điểm qua một loạt nhân tố
tạo nên tâm lý chống Trung cộng rất mạnh nơi người Việt Nam ngày
nay.
Theo giáo
sư Thayer, ngoài các nhân tố khách quan mang tính chất địa lý
lịch sử, một loạt động thái chèn ép của Trung cộng đối với Việt
Nam trong thời kỳ hiện đại cũng duy trì tâm lý ghét Trung cộng
nơi người Việt Nam, từ việc không muốn Việt Nam thống nhất sau
khi chiến tranh kết thúc, ủng hộ Khơme Đỏ đánh phá Việt Nam, trực
tiếp xua quân đánh vào miền Bắc năm 1979, cho đến tranh chấp Biển
Đông, đánh Việt Nam giành [biển] đảo, đem giàn khoan vào khiêu
khích trong vùng thềm lục địa của Việt Nam, gây sức ép cấm Việt
Nam khoan dầu trong khu vực mà Bắc Kinh cho là của Trung cộng...
Trong bài phân tích, giáo sư
Carl Thayer trước tiên nhắc lại:
Tôi đã từng viết một bài với tựa đề “Sự
khắc nghiệt của địa lý: Chiến lược của Việt Nam để ngăn chặn
Trung cộng ở Biển Đông” để mô tả quan hệ Việt Nam - Trung cộng.
Tôi đã chơi chữ dựa theo tựa đề một quyển sách về lịch sử Úc của
Geoffrey Blainey “Sự khắc nghiệt của khoảng cách”. Tác giả muốn
nói – đây là tôi nói thay ông ấy - là Úc sẽ dễ chịu hơn nếu là
một lục địa ở giữa Đại Tây Dương, giữa Anh Quốc và Hoa Kỳ, giữa
tuyến đường vòng quanh trên thế giới từ đất mẹ Anh Quốc. Đấy là
tôi chơi chữ với ngụ ý châm biếm.
Việt Nam có đường biên giới chung với
Trung cộng, nhưng dân số của Việt Nam chỉ ở tầm cỡ một tỉnh trung
bình của Trung cộng. Như Brantly Womack từng viết, đó là một quan
hệ thật bất cân xứng. Việt Nam đã phải rất cảnh giác, đến mức bị
ám ảnh, trước những gì Trung cộng nói và làm, trong khi Trung
cộng có những lợi ích lớn hơn nhiều.
Một học giả Việt Nam đã có lần nhẹ
nhàng chỉ trích tôi về tựa của bài viết vì soi rọi quan hệ
Việt-Trung một cách tiêu cực. Ông lập luận rằng có một khía cạnh
tích cực trong việc Việt Nam ở gần Trung cộng. Việt Nam đã rút
tỉa được cái hay trong văn hóa, ngôn ngữ Trung cộng và điều này
đã giúp cho việc hình thành nhà nước Việt Nam.
Giáo sư Thayer đã ghi nhận quá trình
chống Trung cộng xuyên suốt trong lịch sử Việt Nam, từ thời Hai
Bà Trưng cho đến gần đây:
Sử sách đã ghi nhận là nhiều triều đại
Trung Quốc đã xâm lăng Việt Nam ít nhất là 11 lần. Việt Nam đã
thành công trong việc đánh bật kẻ xâm lược. Chuyện Hai Bà Trưng
chống lại Trung Quốc đã trở thành huyền thoại của Việt Nam qua
bao nhiêu thế hệ. Dù không thành công, nhưng Hai Bà Trưng đã cho
thấy tinh thần bất khuất của người Việt Nam, muốn độc lập và
chống lại sự xâm lược của ngoại bang.
Tất cả người Việt Nam ngày nay đều biết
về lịch sử các mối quan hệ giữa Việt Nam với các triều đại Trung
cộng, và đó là nền tảng căn bản của tâm lý bài Trung cộng ngày
nay.
Đối với giáo sư Thayer, cách giải thích đó chưa đầy đủ:
Người Việt Nam có cảm nhận là Trung
cộng đã bán rẻ ước nguyện thống nhất của Việt Nam vào đầu thập
niên 1970. Trung cộng tìm hỗ trợ của Mỹ để chống lại “chủ nghĩa
đế quốc xã hội chủ nghĩa” của Liên Xô và đã khuyên Việt Nam đặt
việc thống nhất đất nước là một mục tiêu lâu dài, giống như
trường hợp của Trung cộng đối với Đài Loan. Và ngay tháng Giêng
1973, khi Hiệp Định Paris về chấm dứt cuộc chiến và vãn hồi hòa
bình ở Việt Nam được ký kết, Trung cộng đã giảm ngay trợ giúp
quân sự cho Việt Nam. Việt Nam đã phải dựa vào hỗ trợ quân sự của
Liên Xô để thống nhất đất nước khi lệnh ngưng bắn trong Hiệp Định
Paris bị phá vỡ.
Ít lâu sau khi chiến tranh với Mỹ kết
thúc, Việt Nam lại phải đối phó với mối đe dọa Khờme Đỏ được
Trung cộng hậu thuẫn. Lực lượng này đã nhiều lần tràn qua Việt
Nam, tàn sát nhiều dân làng Việt Nam. Việt Nam thoạt đầu đã trả
đũa bằng một số chiến dịch đột kích qua biên giới, nhưng sau cùng
đã mất kiên nhẫn và tràn qua chiếm đóng Cam Bốt trong một thập
niên. Các lãnh đạo Việt Nam mà tôi có dịp phỏng vấn vào năm 1981,
đã giải thích là chiến lược của Trung cộng là muốn Việt Nam sa
lầy ở Cam Bốt và bị kiệt quệ.
Từ tháng Giêng đến tháng 3/1979, Trung
cộng trả đũa bằng cách đưa quân đánh chiếm vùng phía bắc của Việt
Nam với lý do bình định vùng biên giới và “dậy cho Việt Nam một
bài học”. Tranh chấp biên giới Trung cộng Việt Nam kéo dài cho
đến năm 1987. Hai năm sau thì Việt Nam ổn định tình hình Cam Bốt,
rút quân khỏi nước láng giềng.
Biển Đông trở thành điểm nóng,
dân chúng biểu tình chống Trung cộng.
Quan hệ Việt Nam Trung cộng được bình
thường hóa vào tháng 11/1991. Một năm sau đó, Trung cộng thông
qua một đạo luật tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông bao gồm cả các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều đó lại đẩy Bắc Kinh vào thế
tranh chấp với Hà Nội.
Bối cảnh là Trung cộng đã có kế hoạch
trước, tấn công vào lực lượng của Việt Nam Cộng Hòa ở Hoàng Sa
(để chiếm toàn bộ quần đảo này) vào tháng Giêng năm 1974, và sau
đó lại tấn công vào quân đội của nước Việt Nam thống nhất ở Gạc
Ma (Johnson Reef – quần đảo Trường Sa) vào tháng 3/1988.
Cuộc biểu tình công khai chống Trung
cộng đầu tiên diễn ra tại Hà Nội vào cuối năm 2007 sau khi có tin
tức được loan truyền là quy chế thị trấn Tam Sa (Sansha) trên đảo
Phú Lâm (Woody Island) thuộc quần đảo Hoàng Sa đã được nâng lên
thành địa cấp thị (thành phố cấp địa khu). Một năm sau, các cuộc
biểu tình chống Trung cộng lại diễn ra khi các vận động viên rước
đuốc Olympic Bắc Kinh trên khắp lãnh thổ Việt Nam.
Biển Đông đã nổi lên thành điểm nóng ở
Việt Nam vào năm 2009 khi các quốc gia ven biển đến hạn đệ trình
lên Liên Hiệp Quốc các đề xuất kéo dài thềm lục địa của mình.
Việt Nam và Malaysia đã có một đề nghị chung, và Việt Nam cũng
đồng thời đưa ra một đề nghị riêng. Trung cộng, lần đầu tiên, đã
công bố bản đồ 9 đường gián đoạn để yêu sách toàn bộ Biển Đông.
Điều đó dẫn đến các vụ va chạm trên biển thường xuyên trong vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ) khi Trung cộng tìm cách ngăn
không cho Việt Nam thăm dò dầu khí.
Trung cộng cũng áp dụng các biện pháp
thô bạo đối với ngư dân Việt Nam trong vùng biển xung quanh quần
đảo Hoàng Sa, tịch thu cá họ đánh bắt được, tước đoạt các thiết
bị vô tuyến điện, các công cụ hải hành và mọi tài sản có giá trị.
Nhiều ngư dân Việt Nam đã bị Trung cộng bắt giữ (thực ra là bị
bắt làm con tin) để đòi tiền chuộc.
Năm 2013, Việt Nam đã hủy bỏ chính sách
có từ trước đó là xem Trung cộng là môt nước xã hội chủ nghĩa
thân hữu. Hiện nay, Việt Nam đánh giá quan hệ với Trung cộng trên
lợi ích quốc gia chứ không còn là trên cơ sở ý thức hệ. Việt Nam
đã thông qua một chiến lược vừa hợp tác và vừa đấu tranh với
Trung cộng. Các hạn chế trên các phương tiện truyền thông đã được
nới lỏng để cho phép một cái nhìn ít tô hồng hơn về người hàng
xóm phương bắc.
Bước ngoặt của vụ giàn khoan
HD-981
Một bước ngoặt xuất hiện vào năm 2014
khi Trung cộng mang một giàn khoan dầu khổng lồ vào cắm trong
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, kèm theo một hạm đội gồm 100
con tàu đủ loại, bao gồm tàu chiến, tàu hải giám, tàu kéo và tàu
đánh cá có vũ trang. Nhiều chiếc đã cố ý đâm vào tàu Việt Nam và
dùng vòi rồng công suất mạnh tấn công tàu Việt Nam.
Việc này đã dấy lên những cuộc biểu
tình chống Trung cộng khắp nơi ở Việt Nam, với một số vụ biến
thành bạo động làm người Tầu cộng tử vong. Ở đỉnh điểm cuộc khủng
hoảng đó, một nhóm cán bộ hồi hưu đã lưu hành một bản kiến nghị
kêu gọi Việt Nam “thoát khỏi quỹ đạo của Trung cộng”.
Thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay xem hành
vi xâm lăng của Trung cộng ở Biển Đông là một mối đe dọa trên sự
tồn tại của chủ quyền Việt Nam. Việc Trung cộng xây dựng và quân
sự hoá 7 hòn đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa gần các thực thể
do Việt Nam kiểm soát được xem như là bằng chứng về mối đe dọa
này.
Tâm lý
chống Trung cộng còn dựa trên suy nghĩ cho rằng chế độ hiện tại
không tích cực bảo vệ sự toàn vẹn và chủ quyền lãnh thổ của đất
nước. Chính quyền Việt Nam có thể là đã chiến thắng trước tòa án
công luận thế giới vào năm 2014, nhưng sau đó lại lùi bước trước
áp lực của Trung cộng trong hai năm 2017 và 2018, khi đình chỉ
thăm dò dầu khí trong vùng biển quanh Bãi Tư Chính (Vanguard
Bank).
Những yếu tố khác.
Nếu thêm vào “nồi súp Biển Đông” các
gia vị khác như là chính sách Trung cộng sử dụng lao động Trung
cộng trong các dự án viện trợ và phát triển ở Việt Nam, và nghi
vấn rộng khắp về sự thông đồng giữa các doanh nhân Trung cộng với
giới lãnh đạo Việt Nam ở địa phương và trung ương, ta sẽ có một
hợp chất bài [chống] Trung cộng tai hại.
Điều đó đã được thấy rõ qua các cuộc
biểu tình khắp nơi chống lại dự luật Đặc Khu Hành Chính và Kinh
Tế trong tháng này. Trên cơ sở an ninh quốc gia, những người biểu
tình phản đối hợp đồng cho thuê trong 99 năm đối với các doanh
nghiệp Trung cộng.
Mai Vân
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những
bài liên quan đến công cuộc chống Chủ nghĩa bành trướng của cộng
sản Tầu
Mỹ
hòa với Âu châu để dồn sức đánh Trung cộng
Vì sao tâm lý chống Trung cộng rất mạnh nơi người Việt Nam?
Có nên du lịch Trung Cộng không?
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Thắng cảnh thiên nhiên Bắc Mỹ châu. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Long Kangaru chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, July 28, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang