Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Thời sự chính trị
Tác giả: TS Nguyễn Quang Hiệp
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Khi
nói CSVN là sự sỉ nhục của dân tộc, người CS sẽ phản đối ngay và
cho đây là lời lẽ của những kẻ phản động. CSVN luôn nói rằng họ
có công mang lại vinh dự cho dân tộc: họ đã đánh thắng đế quốc
Pháp, đế quốc Mỹ và đồng thời đẩy lui quân Trung Cộng trong cuộc
chiến năm 1979.
Những vinh dự ở trên mà CSVN tự nhận
thuộc về họ thực ra thuộc về dân tộc VN. Cuộc chiến thắng chống
Pháp, đánh Mỹ, đẩy lui Trung Cộng xâm lược luôn luôn được đặt
trên nền tảng là lòng yêu nước, sự thông minh, can trường của
người Việt Nam, bao gồm quân đội miền Bắc cũng như miền Nam.
Trong những cuộc chiến trên, CSVN đã
lợi dụng lòng yêu nước của người Việt Nam. Trước tiên, chúng ta
hãy nói về cuộc chiến thắng Pháp. Theo Mác, cách mạng xã hội chủ
nghĩa nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản. Nhưng tại
các nước mà chủ nghĩa tư bản chỉ mới được manh nha và dĩ nhiên
còn quá yếu ớt, thì làm sao những cuộc cách mạng của họ có thể
được gọi là cách mạng xã hội chủ nghĩa? Lực lượng sản xuất trong
xã hội tư sản chưa phát triển, làm thế nào có thể thay đổi quan
hệ sản xuất cũ. Có lẽ các đệ tử của Mác đã chỉ giải thích các quy
luật mà Mác đã khám phá ra tùy theo ý của họ nhằm áp dụng vào
hoàn cảnh riêng tư từng nước, làm sao có lợi cho cuộc nổi dậy của
họ. Chẳng hạn tại Việt Nam, trong cuộc cách mạng tháng 8, 1945,
những người theo chủ nghĩa Mác ở đây cho rằng đây là cuộc cách
mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo. Nhưng đó có phải là một sự thực
hay không? Có lẽ nên nói đây là cuộc kháng chiến chống ngọai xâm
thành công của mọi giai cấp yêu nước tại Việt Nam. Những người
theo chủ nghĩa Mác-Lê-nin ở Việt Nam lúc đó đã thành công trong
việc LỢI DỤNG lòng yêu nước, yêu tự do của mọi tầng lớp nhân dân.
Do đó, CSVN không dám nói đây là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa,
mà chỉ dám nói đây là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Thế rồi trong công cuộc mà CSVN gọi là
“Chống Mỹ cứu nước”, cộng sản Việt Nam rêu rao cho lớn là họ đã
đánh cho “Mỹ cút”, đánh cho “ngụy nhào”. Thực chất CSVN đã lại
LỢI DỤNG lòng yêu nước của dân chúng miền Bắc và miền Nam mà
thôi. Cuộc chiến này là một cuộc chiến do cộng sản quốc tế Liên
Sô và Tầu Cộng đỡ đầu. Chính vì vậy mà ông Lê Duẫn, tổng Bí Thư
của CS VN mới nói: “Chúng ta đánh là đánh cho Liên Sô, cho Tầu
Cộng.” Người Mỹ, trong cuộc chiến Nam và Bắc Việt Nam, thường đã
định mức điểm chiến đấu của quân đội miền Nam và miền Bắc thuộc
hạng A, xét theo vị trí thang điểm A, B, C, D... Người Mỹ không
nói quân đội cộng sản chiến đấu với mức điểm hạng A, nhưng họ nói
quân đội Việt Nam chiến đấu luôn ở mức điểm hạng A.
Tiếp đó, trong cuộc chiến chống Trung
Cộng ở 6 tỉnh miền Bắc Việt Nam, tinh thần yêu nước của quân đội
Việt Nam đã thực sự bộc lộ một cách mãnh liệt. Không cần biết
quân xâm lược là Tầu Cộng hay không Tầu Cộng, quân đội người Việt
với lòng yêu nước và sự thông minh của dân tộc đã quyết tâm chận
đứng cuộc xâm lăng của giặc Tầu. Chúng ta hãy nghe Trung tá CS VN
Trần Anh Kim, một người anh hùng trong cuộc chiến chống Tầu ở 6
tỉnh miền Bắc Việt Nam 1979 tâm sự như sau: khi nhìn thấy Tầu
Cộng tiến quân xâm phạm lãnh thổ, ông chỉ có một ý chí là quyết
tâm đánh chặn và đẩy lui quân địch khỏi lãnh thổ nhằm bảo vệ đất
nước. Tình yêu nước mãnh liệt đã giúp ông ngăn chặn được sức tiến
công như nước vỡ bờ vào phòng tuyến của ông.
Nhưng rồi CSVN đã cướp công của ông.
Sau khi ra khỏi quân đội, ông đã thành lập “LỰC LƯỢNG QUỐC DÂN
DỰNG CỜ DÂN CHỦ”.
Tình yêu nước của người dân Việt chống
ngọai xâm ăn sâu vào trong xương tủy của họ, được thể hiện trong
những quân nhân Việt Nam dù dưới bất cứ chế độ nào. Không phải
chỉ dưới thời cộng sản, mà dưới các triều đại quân chủ, tinh thần
yêu nước được bộc lộ một cách mạnh mẽ không một quyền lực nào có
thể ngăn cản. Suốt dòng lịch sử của dân tộc, dân tộc ta đã luôn
đánh bại quân xâm lược Bắc Phương (bọn giăc Tầu) dù chúng đông
đảo hơn chúng ta từ 10 đến 15 lần. Điều quyết định chiến thắng
trong chiến trận giữa một lực lượng quá ít trước một lựợng đông
đảo vượt trội với hầu như cùng loại vũ khí, chính là sự thông
minh của dân tộc Việt. Chúng ta phải hãnh diện là sự thông minh
của dân tộc Việt Nam vượt trội hơn hay ít ra cũng ngang ngửa với
người Hán. Điều này được minh chứng một cách rõ ràng khi sinh
viên Việt Nam đi du học trên hầu hết các nước lớn, văn minh bậc
nhất thế giới. Người Việt đã không thua kém bất cứ nước nào trên
trái đất.
Chúng ta tự tin nơi chính bản thân; chúng ta cũng tin tưởng vào
khả năng của dân tộc. Chúng ta tự hào bởi vì chúng ta là người
Việt Nam. Chúng ta ngẩng mặt lên trời hướng về phía trước. Chúng
ta biết làm sao tự lực tự cường, yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau
vì chúng ta là một đại gia đình dân tộc, cùng một dòng máu, cùng
một giống nòi. Chúng ta luôn hòa nhã với mọi người trong nước,
cũng như với mọi người khác trên thế giới. Chúng ta đối xử với
những dân tộc khác một cách văn minh và bình đẳng. Tự tin, thông
minh, yêu nước là những yếu tố không cho phép chúng ta cúi đầu
trước mặt kẻ thù xâm lăng. Nhưng điều này có được áp dụng cho
những lãnh đạo CSVN hay không?
Thực sự những lãnh đạo CSVN từ Hồ Chí
Minh cho tới nay là những kẻ tồi mà đại diện là những tổng bí thư
của chúng. Chúng tồi vì chúng dốt nát, chúng tự ty mặc cảm; chúng
chạy theo chủ nghĩa Mác-Lê mà không biết gì về những sai lầm cơ
bản của chủ nghĩa này. Thay thế cho sự hiểu biết bằng phê phán,
chúng chỉ tin tưởng vào chủ nghĩa một cách mù quáng. Chúng tin
vào một thế giới đại đồng không tưởng. Chúng cho rằng chủ nghĩa
Mác-Lê là vô địch, không sai lầm; những lãnh tụ của Nga, Tầu là
thần thánh không sai lầm như Staline, Mao Trạch Đông... Từ chỗ
ngu dốt, tin tưởng mù quáng, chúng đem đất nước bán rẻ cho Tầu.
Đảng C S V N trở thành bọn bán nước cầu vinh.
Để chứng minh cho những nhận định trên,
chúng tôi muốn dựa trên đời sống và hành động của một vài Tổng bí
thư điển hình của CSVN: Hồ Chí Minh, vừa là chủ tịch vừa là tổng
bí thư, và Nguyễn Phú Trọng, đương kim tổng bí thư. Mặc dù ngày
nay chủ nghĩa Mác-Lê đã bị cả thế giởi kết án nặng nề và bị quăng
ra lề đường, nhưng đảng CSVN vẫn còn bám vào nó để đàn áp dân tộc
Việt Nam. Trước khi đưa ra những nhận xét về họ Hồ và tên Nguyễn
Phú Trọng, chúng tôi thấy cần đưa ra những sai lầm cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lê.
Bài sau đây có 3 phần:
A.
Những sai lầm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê
B. Hồ Chi Minh tội đồ của dân tộc
C.
Nguyễn Phú Trọng, hèn hạ bán nước cầu vinh.
A.
NHỮNG SAI LẦM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ.
Điều sai lầm lớn nhất của chủ nghĩa
Mác-Lê là chủ nghĩa duy vật vô thần của nó. Nó vô thần là vì nó
chỉ bám vào vật chất. Vì bám vào vật chất, nó không hề hiểu biết
bản chất của con người. Con người không phải là một con vật với
bản năng sinh tồn như con ong, con khỉ chẳng hạn. Trái lại, con
người là một vật thể (Da-sein) bao gồm một thực thể vật chất và
một thực thể tinh thần.
Triết học Mác-Lê không thể nào hiểu
được vấn đề này. Chỉ có triết học ngày nay mới có thể hiểu được
vấn đề này bởi vì người ta có thể phân biệt được thực thể vật
chất với thực thể tinh thần. Sự phân biệt này trong triết học
Heidegger gọi là sự khác biệt hữu thể học (ontological
difference).
Bản chất con người là tiếp thông với Hữu Thể bằng cách vượt qua
vật thể của chính nó và những vật thể khác với chính nó để đến
với Hữu Thể và đứng trong chân lý của Hữu Thể. Chân lý này là
chân lý Hữn Thể học; chân lý hữu thể học là nền tảng cho mọi chân
lý của các khoa học. Chân lý hữu thể học còn được gọi là Ý nghĩa
của Hữu Thể, của TỰ DO. Ý nghĩa của Hữu Thể bao gồm tự do, sự
công bình, nhân ái... Nói khác, ý nghĩa của Hữu Thể chính là đời
sống, là TÌNH YÊU.
Chân lý Hữu Thể, Chân lý của tự do (bởi
vì Hữu Thể là vùng tự do) hay ý nghĩa của Hữu Thể cũng là một.
Chân lý Hữu Thể hay ý nghĩa Hữu Thể, chân lý tự do chính là ĐẠO
của dân tộc Việt Nam. Triết học của dân tộc Việt Nam là triết lý
về ĐẠO. ĐẠO xuất lộ nơi con người thì gọi là ĐỨC. ĐẠO sáng lên
trong tâm hồn của con người gọi là ĐỨC SÁNG: đó là tiếng nói của
lương tâm con người.
Khi nói về Chân lý Hữu Thể, chân lý tự
do là người ta phải nói tới tính siêu việt nơi con người. Không
có siêu việt tính thì không có sự vượt qua để tiếp thông với Hữu
Thể, với ĐẠO và cư ngụ trong chân lý Hữu Thể hay ĐẠO. Nhưng siêu
việt tính này lại nằm trên nền tảng là Tự Do. Ngày nay, triết học
hiện đại với Heidegger, Hữu Thể được hình tượng hóa ra thành tứ
trụ mà chúng tôi gọi là thế giới tứ trụ. Tứ trụ này chính là
trời, đất, nhân, và thần. Ở nơi dân tộc Việt Nam chúng ta, trời,
đất, nhân và thần được dùng để nói về ĐẠO.
Như vậy chính trong Hữu Thể hay ĐẠO,
chúng ta nhìn thấy bóng dáng thần thánh. Sự tin tưởng vào thần
thánh nằm ngay trong Hữu Thể hay ĐẠO. Sự tin tưởng này ở ngay
trong bản chất của con người. Nói rộng ra thì vấn đề tôn giáo là
vấn đề thuộc bản chất của con người. Sự tin tưởng trong các tôn
giáo là một sự kiện, luôn luôn hiện diện trong lòng mọi người mọi
nơi và mọi thời. Đó là sự kiện tự nhiên tồn tại trong đời sống,
trong sự hiện hữu của con người. Không ai có quyền cấm cản tôn
giáo hay cho phép tôn giáo. Tôn giáo không cần phải xin phép một
cá nhân hay một tập thể nào.
Chủ nghĩa vô thần là một chủ nghĩa sai
lầm không hiểu gì về bản chất con người. Chủ nghĩa Mác-Lê là chủ
nghĩa sai lầm nhất. Những kẻ theo vô thần Mác-Lê là những kẻ dốt
nát nhất. Những kẻ theo chủ nghĩa vô thần Mác-Lê ở Việt Nam là
những kẻ ngu dốt nhất, bởi vì tới giờ phút này mà CSVN còn duy
trì cái đảng vô thần của chúng, trong khi thế giới đã loại bỏ chủ
nghĩa này từ lâu.
Chúng ta vừa đề cập đến vấn đề vô thần,
bây giờ chúng ta có thể đi qua vấn đề duy vật của chủ nghĩa
Mác-Lê.
Lý
thuyết của Mác xác nhận chỉ có một thực tại tồn tại: đó là vật
chất với những sức mạnh mù quáng của nó; cỏ cây, động vật, và con
người chỉ là kết quả của sự tiến hóa của vật chất. Điều nhận xét
này đã được viết ra trong Sắc Lệnh “Divini Redemptoris” ngày 19
tháng 3 năm 1937 của Tòa Thánh La Mã (Traduction française
publiée aux Éditions Spes, Paris, 1937, tr. 17). Rõ ràng điều
nhận xét trên cho thấy chủ nghĩa duy vật của Mác có liên hệ với
chủ nghĩa duy vật bình dân, được lập lại bởi những người cộng sản
thời Lê-nin với 3 nét chính yếu như sau: duy vật, tất định vô
thức và nhân quả (thuyết duy cơ), và vật chất tiến hóa.
Một cách chặt chẽ thì duy vật biện
chứng của Mác không được hiểu theo nghĩa này. Nhưng nó khó có thể
tránh được lối giải thích trên, bởi vì duy vật biện chứng của Mác
cuối cùng thích hợp với một biện chứng về thiên nhiên mà những
nét chính của nó đã được nêu rõ ở trên.
Divini Redemptoris cũng đang đề cập đến
quan niệm của chủ nghĩa Mác-xít về xã hội. Thực vậy, xã hội ở đây
không là gì khác hơn là một hình thức của vật chất tiến hóa theo
những định luật của nó; và rồi xã hội đó thiết yếu hướng về một
tổng hợp cuối cùng: đó là một xã hội vô giai cấp, xuyên qua những
cuộc đấu tranh không ngừng của những lực lượng khác nhau. (Ibid.
tr. 17-18). Chủ trương duy vật này coi xã hội như một hiện tượng
phụ thuộc của vật chất; chủ trương này phù hợp với một định mệnh
thuyết LỊCH SỬ, tuân theo các định luật của thiên nhiên.
Ở đây chúng tôi muốn nói đến vấn đề
lịch sử. Theo Mác, bao lâu con người còn bị vong thân thì ý thức
của con người còn bị lệ thuộc vào những điều kiện vật chất. Nói
khác, ý thức chỉ là con đẻ của vật chất. Ý thức không thể đứng
tách khỏi vật chất, đứng cao hơn vật chất để phóng mình về tương
lai, và rồi nhìn về quá khứ là chặng đường mà nó đã đi qua, để
hành động trong hiện tại. Lịch sử chỉ có thể có được khi nào ý
thức tự vượt lên trên và vượt xa hơn chính mình.
Như vậy, bao lâu con người còn bị vong
thân, thì bấy lâu ý thức con người còn dính với thực tại và chưa
bay bổng lên trên chính mình nó. Lúc đó con người chưa có lịch
sử, nghĩa là còn sống trong thời tiền sử. Từ thời ăn lông ở lỗ
cho tới thời cách mạng xã hội chủ nghĩa, tức thời kỳ quá độ, thì
con người vẫn sống trong thời kỳ mà Mác gọi là thời tiền sử, bởi
vì con người chưa vượt qua được vong thân.
Mác nói rằng trong tư bản chủ nghĩa,
thợ thuyền, giới vô sản bị vong thân, và giới tư bản cũng bị vong
thân.
Ngày
nay, Việt Nam, Tầu Cộng mà trong đó đảng cộng sản trở thành tư
bản đỏ đang bóc lột xương máu của đại đa số nhân dân, thì rõ ràng
đảng cộng sản và cả nhân dân đang bị vong thân. Đây là thời tiền
sử, nghĩa là không có lịch sử. Cộng sản Việt Nam không có tư cách
bàn về lịch sử, giải thích lịch sử.
Mác cho là chỉ khi nào đạt được tổng
hợp tối cao, tức đạt được chế độ cộng sản thì khi đó mới bắt đầu
có lịch sử. Tổng hợp tối cao là tổng hợp bao quát được tất cả mọi
thực tại, nghĩa là không còn gì đứng ngoài nó và đối nghịch với
nó. Một tổng hợp như vậy không thể là một khối toàn thể vật chất,
bởi vì vật chất không thể biết được chính nó. Chỉ có một ý thức
tuyệt đối như ý thức tuyệt đối của Hegel mới có khả năng bao trùm
mọi thực tại để không còn gì có thể đứng ở ngoài nó. Muốn được
tổng hợp này, Mác phải mượn ý thức tuyệt đối của Hegel, bởi vì
chỉ ý thức tuyệt đối này mới có thể bay bổng lên trên mọi thực
tại vật chất trong quá khứ, thấu được tương lai và vận hành trong
hiện tại. Ý thức tuyệt đối này Mác gọi là Ý Thức cộng sản. Ý Thức
cộng sản là do Mác nghĩ ra, bởi vì xã hội cộng sản chưa tới thì
làm sao có Ý Thức cộng sản. Hệ thống triết học Mác duy vật ban
đầu, nhưng cuối cùng thì lại trở lại con đường DUY TÂM của Hegel.
Chỉ riêng điều này cũng đủ cho ta thấy
là không bao giờ có một xã hội cộng sản ở trần gian. Con người
với siêu việt tính, hiện hữu trong chân lý Hữu Thể, tự nó đã mang
tính phổ quát của nhân tính loài người. Nhưng nơi bản chất con
người vẫn luôn hiện diện tự do tính với Ý CHÍ QUYỀN LỰC mà
Nietzsche đã khám phá ra. Vì thế trong phổ quát tính vẫn chứa
đựng sự chia lìa. Do đó nói đến thế giới đại đồng chỉ là không
tưởng. Mác chỉ bắt chước cộng đồng Ky-tô giáo để mơ tưởng đến thế
giới đại đồng này. Nhưng Mác không hiểu được là thế giới ấy không
có thực ở trần thế này. Thế giới mà Chúa Giê-su nói tới là thế
giới bên kia thế giới này. Thế giới được Chúa Giê-su thiết lập có
được là nhờ thông qua cái chết và sống lại của Chúa Giê-su. Phổ
quát tính đơn độc của Chúa Giê-su sống lại tạo ra thế giới mà Mác
mơ tưởng. Mác đã tục hóa những tín điều của Ky-tô giáo và gán cho
giai cấp vô sản vai trò của Chúa Giê-su: vai trò giải phóng nhân
loại. Nhưng bọn vô sản làm gì có phổ quát tính, bởi vì trong trái
tim tên vô sản đã chứa sẵn một tên tư bản to lớn. Muốn có được
phổ quát tính, giai cấp vô sản phải chết hết và rồi sau đó phải
sống lại. CSVN ngu ngốc đã nhìn thấy Lê-nin, Staline, Mao Trạch
Đông, và Hồ Chí Minh đã chết, nhưng không hề thấy một tên nào
sống lại.
Hỡi
những người CSVN ngu ngốc, xin hãy tỉnh lại, đừng nghe theo mấy
tên tổng bí thư ngu ngốc nữa. Chỉ có gia đình vợ con và đại gia
đình dân tộc là cơ bản. Đừng bao giờ ngu ngốc để bọn Tầu cho vào
đại gia đình với chúng. Chúng đang giết dân tộc bằng cách phá
biển, phá rừng, bằng đồ ăn độc hại. Hãy treo cổ tên tổng bí thư
NGUYỄN PHÚ TRỌNG ngu đần bán nước và đồng bọn của hắn.
B.
HỒ CHÍ MINH, TỘI ĐỒ DÂN TỘC.
Có thể khi còn nhỏ tuổi, họ Hồ đã có
lúc yêu nước. Nhưng sau khi gia nhập đảng cộng sản thì họ Hồ trở
thành một tên khát máu: chỉ giết người và gieo tang tóc cho dân
tộc.
Sau cách
mạng tháng 8, năm 1945, họ Hồ cho thủ tiêu hết tất cả những lãnh
tụ các đảng phái quốc gia. Họ Hồ theo chủ nghĩa cộng sản mà chẳng
hiểu gì về lý thuyết Mác-Lê; thế rồi từ chỗ không hiểu biết, họ
Hồ chỉ sống bằng sự tin tưởng vào chủ nghĩa CS. Từ chỗ ngu ngốc
về chủ nghĩa, họ Hồ đi tới chỗ bán nước cho Tầu.
1. Họ Hồ không hiểu gì về chủ nghĩa
cộng sản, cũng chẳng có tư tưởng nào cả; dốt lý thuyết, mang mặc
cảm tự ty, đi thờ phượng bọn lãnh tụ nước ngoài.
Ngay khi gia nhập đảng CS, họ Hồ đã thú
nhận không hiểu gì về lý thuyết cộng sản. Họ Hồ nói rằng ông khỏi
cần phân biệt đệ tam hay đệ tứ CS quốc tế; CS nào giúp ông đánh
Pháp thì ông theo.
Cách mạng Việt Minh cướp chính quyền từ
tay quốc gia tháng 8 năm 1945 hoàn toàn vì chủ nghĩa cộng sản
quốc tế, bởi vì lúc đó Việt Nam đã thu hồi độc lập dưới chính phủ
Trần Trọng Kim. Rõ ràng ông Hồ từ bỏ quốc gia dân tộc để chạy
theo quốc tế vô sản, mặc dù ông đã không hiểu chủ nghĩa cộng sản
sai lầm như thế nào. Hãy đọc câu này của ông Hồ trong báo
L’Humanité: “Le nationalisme était, si on ne contrôlait pas, un
dangereux phénomène risquant de menacer l’expansion du communisme
dans les colonies”. (Phải coi chừng chủ nghĩa quốc gia yêu nước,
vì nó là một hiện tượng nguy hiểm, ngăn không để cho chủ nghĩa
cộng sản bành trướng ở các nước thuộc địa). (Hồ Sĩ Khuê: Hồ chí
Minh, Ngô Đình Diệm và mặt trận Giải Phóng, Văn Nghệ, 1992, tr.
60).
Rõ ràng
ông Hồ không còn nghĩ tới quốc gia mà trái lại chỉ nghĩ tới đảng
CS quốc tế mà đảng CS Việt Nam chỉ là một thành phần. Đảng là mục
tiêu, đứng trên tất cả, dân tộc, giang sơn bờ cõi, và người dân
(không phải là cộng sản) trở thành phương tiện của ông Hồ. Ông Hồ
trở thành một con quỷ râu xanh vô cùng ác độc. Phụ nữ trở thành
con vật cho ông thỏa mãn thú tính. Ông Hồ đã ra lệnh giết không
biết bao nhiêu người dân vô tội. Bằng chứng hùng hồn nhất là ông
cho lệnh đấu tố địa chủ ở miền Bắc giết chết một cách dã man và
mọi rợ trên hai trăm bốn mươi sáu ngàn người năm 1951.
Thay vì hãnh diện vì dân tộc có nhiều
nhân tài sánh ngang hàng với các nước văn minh trên thế giới, thì
Ông Hồ lại tìm cách loại trừ những thành phần ưu tú của quốc gia.
Ông Phan Bội Châu là nhà chính trị lỗi lạc đã bị Hồ đem bán đứng
cho thực dân Pháp. Trần Đức Thảo là một triết gia nổi danh trên
thế giới. Người Pháp đã tặng cho Thảo danh hiệu “ngôi sao sáng
của Á Đông”. Dĩ nhiên ông Thảo là người vượt trội hơn cả người
Tầu, người Ấn và Nhật đương thời. Nhưng ông Hồ đã bắt Ông Thảo đi
chăn bò. Tóm lại ông Hồ ác độc với dân Việt từ người dân thường
cho đến thành phần đại trí thức; nhưng Ông Hồ lại hèn hạ, tự ty
mặc cảm đi bưng bô cho những tên cộng sản Nga và Tầu: Staline,
Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai... Tại sao ông Hồ làm như thế. Lý do
là: Hồ Chí Minh thiếu học thức, không đủ trình độ học triết lý
Mác-Lê-nin. Từ việc yếu kém học vấn, ông Hồ mang cảm giác yếu
kém, tự ty mặc cảm trước bọn CS Nga hay Tầu...
Dĩ nhiên triết học duy vật Mác là triết
học rất yếu kém trong lịch sử triết học Tây Phương, bởi vì triết
học này thiếu nền tảng hữu thể học. Vì triết học Mác thiếu nền
tảng hữu thể học, nên Mác không thể nào hiểu được bản chất thực
của con người. Mặt khác, Mác chủ trương duy vật, nhưng trong cách
giải quyết các vấn đề về ý thức, Mác lại theo con đường duy tâm.
Đây là điều khiến các nhà nghiên cứu Mác phải đau đầu. Những
người cộng sản đã giải thích Mác một cách khác nhau theo nhu cầu
hoàn cảnh chính trị của họ. Ngay người bạn thân nhất của Mác như
Engels cũng đã xa rời tư tưởng của Mác khi ông này viết “Biện
chứng của tự nhiên”. Khi Lê-nin học theo Mác và Engels, Lê-nin đã
nghiêng về Engels hơn là Mác. Thế rồi đến Staline, ông này
nghiêng hẳn về Engels trong tư tưởng biện chứng. Có thể nói cộng
sản Nga, rồi cộng sản Tầu đã không hiểu biện chứng của Mác tới
nơi tới chốn.
Cộng Sản Việt Nam cũng chỉ là những người cóp nhặt tư tưởng Mác
từ Liên Sô đem về học lại. Chính sự yếu kém hiểu biết triết học
như vậy mà CSVN lệ thuộc vào Liên Sô và Tầu cộng từ lý thuyết tới
thực hành. Chẳng hạn ông Hồ đưa ra vấn đề “đấu tố địa chủ” rập
theo khuôn của Tầu Cộng.
-Từ việc yếu kém về học thức, lệ thuộc
về tư tưởng triết lý của Nga-Tầu đến sự tin tưởng vào lý thuyết
của Mác về thế giới đại đồng, CSVN Hồ Chí Minh dễ dàng bán nước
cho Tầu cộng. Công hàm mà họ Hồ ra lệnh cho thủ tướng VC Phạm Văn
Đồng ký năm 1958 là một công hàm bán nước cho Tầu. Họ Hồ trở
thành tên bán nước đầu tiên của CSVN.
Dân tộc Việt Nam thiếu gì nhân tài,
không hơn thì cũng ngang hàng với Nga và Tầu. Tại sao phải nghe
theo Nga-Tầu rồi đem bán nước cho Tầu. CSVN là bọn hèn hạ. Chúng
thực sự đã là mối sỉ nhục cho cả dân tộc.
Tóm lại, Hồ Chí Minh chẳng hiểu gì về
triết học Mác và Hồ Chí Minh cũng chẳng có tư tưởng gì để lại cho
dân tộc. Trong các tổng bí thư của đảng CSVN, trừ ông Lê Duẫn là
người dám chống Tầu, còn tất cả chỉ là những tên ngu dốt bám
“váy” Tầu cộng, nhất là tên Nguyễn Phú Trọng hiện thời.
C.
NGUYỄN PHÚ TRỌNG, TÊN BÁN NƯỚC CẦU VINH.
Người ta nói rằng ông Nguyễn Phú Trọng
là một đảng viên CSVN đã từng qua Nga học và có bằng tiến sĩ
triết học. Ông Trọng được đảng CSVN bầu làm tổng bí thư từ năm
2011 tới năm 2016 và từ năm 2016 ông sẽ tiếp tục giữ chức tổng bí
thư thêm 2 năm.
Qua những lời nói và những tuyên bố,
cũng như qua những công việc và hành động của ông Trọng, người ta
thường đưa ra những nhận định như sau:
-Ông Trọng là một người giáo điều bảo
thủ, muốn bảo vệ và duy trì đảng CSVN mãi mãi
-Để có thể duy trì sự sống còn của đảng
CSVN, ông Trọng không loại trừ bất cứ thủ đọan nào, việc làm nào,
dù có phải hy sinh đất nước và dân tộc Việt Nam. Đâu là giá trị
của những nhận định trên?
Trước hết, chúng ta thấy quả thực ông
Trọng là người tin tưởng vào chủ nghĩa Mác-Lê-nin và ông cho rằng
con đường CSVN đang đi là đúng, và rồi cuối cùng chế độ cộng sản
phải toàn thắng. Chủ trương này của ông giống như câu nói của một
đảng viên CSVN trước đây là bà Nguyễn Thị Định: “không có con
đường nào khác”. Chủ trương của bà Định và ông Trọng được bộc lộ
rõ rệt vào năm 2012-2013 khi chính phủ Việt Nam cộng sản cho dân
được góp ý trong việc sửa đổi Hiến Pháp. Sau khi các đoàn thể,
các tôn giáo, các nhà trí thức, và những đại diện ưu tú của các
tầng lớp nhân dân đề nghị bỏ điều 4 hiến pháp và được quyền có đa
đảng để cùng xây dựng quốc gia dân tộc theo con đường tự do dân
chủ, thì Ông Trọng đã thẳng thắn bác bỏ và còn nói rằng tất cả
những ý kiến xây dựng đó là “suy thoái”.
Người ta thường hay nói những kẻ độc
tài là những kẻ “ngu đần”, vì những bọn như CSVN chỉ biết một mà
không biết mười. Ông Trọng cũng là kẻ ngu đần như thế. Người CS
chỉ học Mác-Lê-nin mà không cho học những nhà tư tưởng khác, bởi
vì CS cho rằng tư tưởng Mác-Lê-nin là số một. Nếu người ta học
triết học Tây Phương, người ta cần phải học lịch sử triết học Tây
Phương. Trong suốt lịch sử triết học Tây Phương, rất nhiều những
đại triết gia lớn hơn Mác. Nếu muốn hiểu triết học Mác, cần phải
đặt Mác đúng vị trí của Mác trong triết học Tây Phương. Thực sự,
trong triết học Tây Phương, triết lý duy vật là yếu kém nhất bởi
vì triết lý duy vật thiếu hẳn nền tảng Hữu Thể học: nó không hiểu
triết học và không xứng đáng được gọi là triết học.
Thực vậy, nếu ông Trọng thực sự đã
nghiên cứu triết học Tây Phương, hẳn ông Trọng không bao giờ dám
nói những ý kiến “sửa đổi hiến pháp” trên là “suy thoái”.
Những phát biểu của ông Trọng về cộng
sản bây giờ chỉ làm cho thế giới bật cười và khinh dể người Việt
dốt nát mà thôi.
Không những người ta coi thường Nguyễn
Phú Trọng vì sự dốt nát và ngây thơ của ông, mà còn coi rẻ ông vì
những hành động bán nước và luồn cúi trước giặc Tầu. Kinh nghiệm
mối tương quan giữa Tầu và Việt Nam trong lịch sử dân tộc cho
thấy: khi nào Việt Nam nhờ vả Tầu, chúng ta khó thoát được những
đòi hỏi nhiều hơn về phía người Tầu trong đó phần thua thiệt Việt
Nam phải hứng chịu. Lý do là vì nước Tầu rộng lớn và đông dân hơn
chúng ta nhiều lần; Tầu lúc nào cũng tìm cớ xâm lấn chúng ta. Một
khi đã có cớ xâm lấn chúng ta, thì người Tầu không bao giờ buông
tha chúng ta. Những nhà vua nào anh minh hay những nhà chính trị
khôn ngoan của nước ta tất nhiên phải hiểu và tránh việc dựa lưng
nhờ vả người Tầu dù trong bất cứ tình huống nào. Những nhà lãnh
đạo CSVN, tức những tổng bí thư cộng đảng Việt Nam đã phạm một
sai lầm lớn nhất là đã sống nhờ vào sự che chở của Tầu và hậu quả
là đưa lại biết bao thảm họa cho dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh, vì thiếu học thức, thiếu
tự tin, mặc cảm yếu kém, nên đã phải dựa vào Liên Sô và Trung
Cộng, làm mất tính tự hào của dân tộc. Họ Hồ vì dốt nát, tin vào
thế giới đại đồng hoang tưởng, ông ta coi dân tộc như xa lạ; lãnh
thổ của quốc gia là của chung thiên hạ, nên ông Hồ bán biển, bán
đảo của tổ quốc một cách không thương tiếc. (Công hàm do Phạm Văn
Đồng ký dâng biển đảo cho Trung Cộng năm 1958). Trong khi đó
Nguyễn Phú Trọng, mặc dù có học thức hơn ông Hồ, nhưng vẫn không
thoát khỏi mặc cảm yếu kém đối với giặc Tầu. Từ việc nhỏ tới việc
lớn, ông Trọng đều phải lãnh chỉ thị của Tầu. Tầu chiếm biển đảo,
giết người Việt dưới mọi hình thức, Trọng không bao giờ dám lên
tiếng phản đối. Cho tới giờ này mà ông Trọng còn trông chờ và mơ
tưởng thiên đường cộng sản. Thật ngu ngốc!
TS Nguyễn Quang Hiệp
Để hiểu rõ thêm về cộng sản
Việt Nam xin đọc thêm những tác phẩm sau đây của cùng một tác giả
(Tiến Sĩ NGUYỄN QUANG HIỆP Giáo Sư).
1. LỊCH SỬ KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM (NGUYỄN
PHÚC LIÊN VÀ NGUYỄN QUANG HIỆP, NXB DAY AND NIGHT, CA, U.S.A,
2006 (360 trang.)
2. M. HEIDEGGER VÀ K. MARX: CUỐN I (431
tr.), NXB DAY & NIGHT, CA. 2006, U.S.A
3. M. HEIDEGGER VÀ K. MARX: CUỐN II
(641 tr.), NXB (SAME)
4. CHỦ NGHĨA MÁC-XÍT TẠI VIỆT NAM: DUY
VẬT BIỆN CHỨNG (2007) (438 tr.), NXB (SAME)
5. TÌM HIỂU TỰ DO DÂN CHỦ (2008), (99
tr.), NXB (SAME)
6. STUDY OF DEMOCRATIC FREEDOM (129
tr.), NXB (SAME)
7. M. HEIDEGGER VÀ K. MARX: CUỐN III
(504 tr.): VƯỢT QUA NHÂN BẢN CHỦ NGHĨA MARX. NXB (SAME). (2009)
8. SỰ CÁO CHUNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-XÍT
TẠI VIỆT NAM (2100), (391 tr.), NXB (SAME)
9. THE PROBLEM OF BEING IN HEIDEGGER’S
PHILOSOPHY (2013), (574 tr.), NXB (SAME)
10. HISTORICAL MATERIALISM IN VIET NAM:
CUỐN II (2015), (480 tr.), NXB (SAME).
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Trung tâm lưu trữ những buổi lễ Mừng Thánh Tổ SĐND/QLVNCH
|
Hình nền: Xuân Đinh Dậu. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by ddcb chuyển
Đăng ngày Thứ Tư,
January 11, 2017
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang