Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản
mạn Thành Đồ Bàn
Chủ đề:
Đấu tranh
Tác giả:
Khuất Đẩu
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Quê
tôi, một miền quê thuần nông, nghèo nhưng không đến nỗi đói, nằm
cạnh
sông Kôn, con sông lớn nhất tỉnh Bình Định chảy qua kinh thành Đồ
Bàn với rất nhiều huyền thoại.
Từ hiên nhà nhìn ra, sáng chiều và ngay
cả trong những đêm tối trời, tôi vẫn thấy tháp Bánh Ít ở trước
mặt, như hai búp măng non mọc lên từ lòng đất.
Xa hơn về phía tây, vượt hẳn khỏi những
lũy tre ở quê ngoại, là tháp Cánh Tiên rực vàng trong nắng sớm và
đỏ thắm trong những buổi chiều tà.
Bên kia sông, cái bóng đồ sộ của một
ngọn tháp không rõ tên ở xã Nhơn Thành lại in xuống nước rực rỡ
như một khối ngọc khổng lồ.
Và khi đi vào cửa ngõ thành phố Qui
Nhơn, lúc nào tôi cũng có cảm giác tháp Đôi như hai anh em song
sinh dễ thương đang đứng đón chào.
Như vậy, bốn mặt đông tây nam bắc ở quê
tôi đều có tháp. Tháp thờ những ai không biết vì trong lòng tháp
trống không, chỉ có những mảnh gạch vỡ và những con dơi bay lượn.
Nhưng trong cảnh điêu tàn hiu hắt ấy nó vẫn không mất đi cái vẻ
thiêng liêng rất hùng vĩ.
Những ngọn tháp đều xây trên những ngọn
đồi thấp nhỏ, thuở ấy hãy còn hoang sơ lắm. Nhìn từ xa, trông
giống như bầu vú của một người mẹ đang nằm mà tháp là cái núm be
bé xinh xinh cho các con bú mớm.
Sự liên tưởng ấy càng làm cho những
ngọn tháp trở nên thân mật, gần gũi chứ không bí hiểm xa lạ.
Có vẻ như người xưa chung sức chung
lòng, xây tháp là để ngợi ca cuộc sống bất diệt, chứ không phải
vì sự bất tử của các pharaon như kim tự tháp ở Ai Cập.
Họ đổ mồ hôi, nhưng không đổ máu. Họ ca
hát và nhảy múa sau khi hoàn thành chứ không khóc than rên rỉ
dưới đòn roi.
Những ngọn tháp vì vậy hãy còn vươn lên mạnh mẽ dưới trời xanh,
dù rằng những chủ nhân thật sự đã phiêu tán tận đâu đâu.
Dù là nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng tôi
chỉ thấy ngậm ngùi chứ không dám tự hào. Vì những ngọn tháp đó là
của dân Hời, đâu phải của ông cha tổ tiên tôi.
Cũng như tháp Eiffel là của người Pháp,
tháp Big Ben là của người Anh, tượng Nữ Thần Tự Do là của người
Mỹ... Những di dân bất đắc dĩ người Việt cho dù nhận những nơi ấy
làm quê hương thứ hai, cũng không thể và không nên tự hào. Con
cháu họ 500 năm sau chắc vẫn còn thao thức tự hỏi quê hương đích
thực của mình ở đâu?
Lần theo vết xe của lịch sử, tôi kinh
hoàng nhận ra kinh thành Đồ Bàn, cách đây trên 500 năm (1471), đã
bị vua Lê Thánh Tôn cho quân lính san bằng, để lại ba mươi vạn
thủ cấp và bắt đem đi hai mươi vạn nô lệ.
Có thể các nhà viết sử thời ấy đã thêm
thắt thổi phồng để làm vừa lòng nhà vua. Nhưng dù thế nào, cũng
đến non một nửa dân Hời bị bắt và bị giết. Vị vua được coi là anh
minh nhất hóa ra là một kẻ xâm lược tàn bạo.
Sau cuộc chinh phạt, về nước vua liền
xá tội cho các tù nhân bị án tử, đưa họ vào đất Đồ Bàn đầy những
con ma không đầu, coi như tha chết nhưng lại bị lưu đày biệt xứ.
Họ rất có thể là ông cha tổ tiên xa xôi của tôi.
Hình ảnh những thân người gầy còm, cổ
mang gông chân mang xiềng, kết lại thành từng chùm, lê lết qua
đèo qua phá, nhiều đêm lướt qua tâm trí tôi như những oan hồn
trong thập loại chúng sinh của thi hào Nguyễn Du.
Cũng có thể, ông cha tổ tiên tôi là
những dân nghèo từ các ruộng đồng chiêm trũng, từ những vùng sơn
cước hay từ những miền nắng gió bão bùng ở châu Hoan châu Ái, bị
vua quan ép buộc phải rời bỏ quê hương để vào nam khai phá vùng
đất vừa mới chiếm được.
Họ cũng giống như những cư dân ở các
thành phố miền nam bị chính quyền cộng sản đưa đến các vùng rừng
thiêng nước độc với mỹ danh rất kêu là đi kinh tế mới.
Số phận của ông cha tổ tiên tôi phải
nói là cực cùng bi thảm. Không kể chết đường chết sá, chết bờ
chết bụi, chết sông chết biển, nếu đem được tấm thân tàn tới được
Đồ Bàn còn tanh mùi máu, thì còn phải chết vì đói, vì bị dân Hời
nửa đêm mò tới cắt cổ để trả thù.
Trong số hàng vạn những con người cùng
khổ ấy may ra chỉ còn sống sót được vài ngàn người.
Suốt ngày, dưới cái nắng cháy da cháy
thịt hay trong cái lạnh thấu xương họ phải chôn lấp những xác
chết đang thối rữa, thu nhặt những xương trắng phơi đầy đồng, rồi
từ đó làm ra hạt lúa củ khoai, sống còm cõi trong nỗi nhớ quê da
diết.
Đồ Bàn
xưa cũng như Sài Gòn nay, một khi đổi chủ là bị thay tên đổi họ.
Đã không còn là Chà Bàn của Chế Bồng Nga mà là Qui Nhơn biên trấn
xa xôi của dòng họ nhà Lê, rồi của chúa Trịnh*.
Nhờ Trạng Trình mách bảo, Nguyễn Hoàng
đã xin ông anh rể Trịnh Kiểm vào trấn thủ đất Quảng Nam, rồi từ
nơi đất chết trở thành chúa Nguyễn chia đôi bờ cõi bắc nam với
chúa Trịnh. Được các chúa hậu duệ chiêu dụ, nhân tài miền bắc lần
lượt trốn vào nam, biến Qui Nhơn trở thành nơi đất lành chim đậu.
Trong số đó có Đào Duy Từ, người đã xây lũy Thầy và lũy Trường
Dục bên bờ sông Gianh và Hồ Phi Phúc lập nghiệp ở Tây Sơn thượng
đạo, sản sinh ra Tây Sơn tam kiệt.
Khi đại binh của vua Quang Trung tiến
ra đất Bắc, chắc thế nào cũng có cháu con của những người tù biệt
xứ. Dù đã trải qua bao đời, nhưng cái giấc mộng về thăm cố hương
cũng vẫn còn, nếu không muốn nói là cháy bỏng hơn bao giờ. Có lẽ
nhờ vậy mà cuộc hành quân trở nên thần tốc: chỉ mới năm ngày mà
đã vào đến Thăng Long. Được bước đi trên đất cố đô giữa lúc máu
quân thù chảy thành sông, xác thù chất thành gò, trong khí xuân
thơm mùi thuốc súng, là cả một thoáng huy hoàng của họ.
Tôi nói một thoáng, vì sau đó Tây Sơn
sụp đổ, đất Qui Nhơn lại máu chảy đầu rơi, còn hơn cả lúc vua Lê
chiếm được Đồ Bàn.
Thành Qui Nhơn lại bị đổi tên thành
Bình Định và ấp Tây Sơn của Nguyễn Huệ bị đốt phá san bằng, chỉ
sót lại một cây me con nay đã trở thành cổ thụ.
Nguyễn Ánh và triều Nguyễn sau đó đã
tiến hành một cuộc trả thù tàn khốc và dai dẳng. Ngoài việc truy
lùng những danh tướng như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân và tất cả
những ai cầm giáo theo Tây Sơn, còn cấm tiệt không được ai nhắc
nhở đến họ.
Mãi 200 năm sau, bà tôi vẫn còn sợ hết hồn khi đứa cháu nhỏ là
tôi, lúc học bài sử đã “rống” lên thật to: “Vua Quang Trung
Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh...”.
“Gọi là ngụy chớ sao dám gọi là vua”,
bà tôi khẽ khàng dặn cháu.
Cái từ “ngụy” đầy hận thù và khinh miệt
ấy sau này được bên thắng cuộc tròng lên đầu lên cổ bên thua
cuộc, xuất phát là từ đó.
Khi tôi được sinh ra và lớn lên, cái
nỗi đau nhớ quê của tổ tiên cũng đã phai mờ dần. Và dân Hời cũng
không còn một người nào sinh sống ở đất Đồ Bàn nữa. Nhưng cái
tiếng Hời vẫn không mất đi. Nào hời hời khi mẹ ru con, nào ma
Hời, mả Hời, vàng Hời, giếng Hời...
Tuy chưa hề trông thấy những con ma Hời
sờ soạn dắt nhau đi như Chế Lan Viên đã thấy, nhưng tuổi thơ tôi
vẫn luôn ám ảnh về bóng dáng của dân Hời. Tôi như thấy họ đang
đóng gạch xây tháp, xuống sông lấy nước đi thành hàng dài, và mỗi
lần soi mặt xuống giếng vuông của họ, tôi đều giật mình tưởng
chừng như họ đang trốn núp đâu dưới đó...
Một đôi khi, có một vài người da nâu
thẫm, mặc toàn đồ trắng, quấn khăn trắng đến các phiên chợ ngồi
bán thuốc làm bằng rễ cây. Họ cười nói chào mời, nhưng trong đôi
mắt họ vẫn chất chứa một nỗi buồn sâu thẳm, nỗi buồn của những kẻ
đã bị cướp mất quê hương.
Không ai viết lại được lịch sử, có
nghĩa rằng, không ai có thể thay vua Lê trả lại thành Đồ Bàn cho
họ. Nhưng sao không ai dám, như chính phủ Tân Tây Lan và Úc Đại
Lợi có một lời xin lỗi chân thành với thổ dân, vì ông cha họ đã
tàn sát và xâm chiếm đất đai bạt ngàn của người bản xứ.
Chẳng những chúng ta nợ họ một lời xin
lỗi, mà còn chịu ơn họ đời đời.
Chịu ơn những ngọn tháp, những tượng
Chàm. Chịu ơn những những nỗi buồn và cả những nỗi nhục.
Để không bị như họ, chúng ta phải rút
ra bài học mạnh mẽ hơn.
Rằng, đừng khóc cho quê hương, mà phải
đứng dậy.
Lúc
này, khi bọn Tàu phù đang lăm le xâm chiếm vùng trời vùng biển
nước ta, ai có súng thì dùng súng, ai có dao thì dùng dao. Ai
không có gì hết thì xuống đường và già như tôi, thì dùng bút.
Khuất Đẩu
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: phong cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MĐ Huỳnh Lương Thọ chuyển
Đăng ngày Thứ Ba,
September 15, 2020
thư ký dù
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang