Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tin CĐNVQGTNCS/HN
Chủ đề: Mậu Thân 1968
Tác giả: Liên Thành
Mục Lục
Thư gửi
Bài 1
Bài 2
Bài 3
Bài 4
Về cuộc “Tổng tiến công Tổng nổi dậy”
bất thành
Những bài liên hệ...
Bấm vào đây để in ra giấy (PDF)
ỦY BAN TRUY TỐ TỘI ÁC ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
Trung Tâm Điều Hợp Trung Ương
Orange
County, Calif. USA. Ngày 6/2/2018
Kính Gởi:
-Đồng bào Quốc Nội, Hải Ngoại.
-Quý Chiến Hữu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
-Quý chiến Hữu Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.
XIN PHỔ BIẾN RỘNG RÃI VÀ CHUYỂN TIẾP
NHIỀU LẦN ĐẾN NGUYỄN PHÚ TRỌNG, TRẦN ĐẠI QUANG, NGUYỄN XUÂN
PHÚC.
XIN VUI
LÒNG POST LÊN FACEBOOK
THƯ CỦA NHÂN CHỨNG SỐNG MẬU THÂN 1968
TẠI HUẾ: LIÊN THÀNH
-CỰU THIẾU TÁ QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG
HÒA VÀ CẢNH SÁT QUỐC GIA VIỆT NAM CỘNG HÒA.
1. NGUYÊN PHÓ TRƯỞNG TY CẢNH SÁT ĐẶC
BIỆT TY CẢNH SÁT QUỐC GIA THỪA THIÊN-HUẾ 1966-1969
2. CHỈ HUY TRƯỞNG BỘ CHỈ HUY CẢNH SÁT
QUỐC GIA THỪA THIÊN- HUẾ 1969-11/1974
3. TỔNG THƯ KÝ ỦY BAN PHƯỢNG HOÀNG
TỈNH THỪA THIÊN VÀ THỊ XÃ HUẾ 1968-11/1974
HIỆN TẠI:
TRUNG TÂM TRƯỞNG TRUNG TÂM ĐIỀU HỢP
TRUNG ƯƠNG ỦY BAN TRUY TỐ TỘI ÁC TÊN TỘI ĐỒ DÂN TỘC HỒ CHÍ MINH,
VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ TỘI ÁC CHIẾN TRANH VÀ TỘI ÁC DIỆT
CHỦNG VÀO TẾT MẬU THÂN 1968 TẠỊ HUẾ, RA TÒA ÁN QUỐC TẾ.
GỞI:
1. ÔNG NGUYỄN PHÚ TRỌNG, TỔNG BÍ THƯ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM,
2. ÔNG TRẦN ĐẠI
QUANG, CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG SẢN VIỆT NAM,
3. NGUYỄN XUÂN PHÚC, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ CỘNG SẢN VIÊT NAM.
Ba ông Nguyễn Phú Trọng, Trần Đại
Quang, và Nguyễn xuân Phúc,
Đáng lý theo phép lịch sự khi gửi thư
đến ba ông, mở đầu tôi phải dùng chữ nghĩa lịch sự của người
Việt Quốc Gia là:
Thưa ba ông Nguyễn Phú Trọng, Trần Đại
Quang và Nguyễn Xuân Phúc...
Thế nhưng tôi chỉ gọi tên ba ông có
nghĩa các ông không xứng đáng được gọi bằng lời lẽ lịch sự đó,
bởi lẽ các ông là những tên bán nước hại dân, tên quỷ đỏ Hồ Chí
Minh và bè lũ các ông, đảng cướp cộng sản Việt Nam, là loại quỷ
dữ, là tội đồ, đã tàn sát 5327 thường dân vô tội Huế và bắt đi
mất tích 1200 người, vào Tết Mậu Thân 1968 tại Huế.
Hồ chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam
đã phạm Tội Ác Chiến Tranh, và Tội Ác Diệt Chủng.
Vừa qua, vào ngày 31 tháng 1 năm 2018,
với Chủ đề:
“Bản hùng ca xuân Mậu Thân 1968” để kỷ niệm 50 năm cuộc Tổng
Công Kích Tổng Nổi Dậy của tên đồ tể Hồ Chí Minh và đảng cướp
cộng sản Việt Nam các ông, tại hội trường Thống Nhất thành phố
Sài Gòn. Theo đám thuộc hạ báo chí đảng cộng sản của các ông,
thì buổi lễ có sự tham gia của Nguyễn Phú Trọng Tổng bí thư đảng
cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Chủ tịch quốc
hội Nguyễn thị kim Ngân cùng nhiều lãnh đạo cao cấp khác trong
đảng cộng sản Việt Nam.
Thật là hài hước và thật là đảo lộn
luân thường đạo lý: ăn mừng một chiến bại toàn diện và ăn mừng
đã tàn sát dã man trên 5000 thường dân Huế vô tội.
Trong buổi lễ, Bí thư Thành ủy thành
phố Hồ chí Minh, Nguyễn Thiện Nhân đã tuyên bố:
“Cuộc tổng tiến công và nổi dậy
mùa xuân Mậu Thân 1968 là một đỉnh cao chói lọi, là đường lối
đúng đắn của đảng, mãi mãi là chinh chứng sinh động của tư duy
và nghệ thuật quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.”
Đại Tá cộng sản Nguyễn văn Tàu tự Tư
Can người tham dự trong trận đánh vào Sài Gòn vào Mậu Thân 1968
thì nói:
“Mậu
Thân 1968 mang tính cách thắng lợi chiến lược của chiến tranh
Việt Nam, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán Paris”
Thế nhưng, tôi, cựu Thiếu tá Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa, và Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, cựu
phó Trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt, và sau đó là Chỉ Huy Trưởng Bộ
Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, là một chứng nhân
và tác nhân trong suốt 22 ngày diễn ra trận đánh Mậu Thân 1968
tại Huế và đã từng chứng kiến tận mắt cảnh 5327 thường dân vô
tội tại Huế bị người cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ
Chí Minh sát hại bằng những hình thức dã man nhất trong lịch sử
nhân loại.
Để
sự thật được sáng tỏ, lịch sử không bị bôi xóa:
Tôi sẽ chứng minh: (xem
Bài 1)
1. 5327 thường dân vô tội tại Huế đã
bị Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Viết Nam sát hại.
2. 1200 nạn nhân Huế đã bị lực lượng
cộng sản bắt đi mất tích.
3. Về cuộc “Tổng tiến công Tổng nổi
dậy” trong dịp Tết Mậu Thân 1968, đảng cộng sản Việt Nam hoàn
toàn thất bại nặng nề về cả 4 mặt trận:
a. Quân Sự
b.
Chính Trị
c. Ngoại Giao và
d. Tình Báo.
Ngoài ra điểm then chốt của bức thư
này là việc tôi chính thức yêu cầu đảng cộng sản Việt Nam và
chính phủ cộng sản Việt Nam của các ông thành lập một phái đoàn
để cùng tranh luận với Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt
Nam do tôi đại diện, tại bất cứ nơi đâu và bất cứ thời gian nào,
với sự tham dự của thân nhân nạn nhân, đồng bào hải ngoại và báo
chí, truyền thanh truyền hình quốc tế.
Tôi mong các ông nhận lời yêu cầu này.
Liên Thành
Trung Tâm Trưởng
Trung Tâm Điều Hợp
Trung Ương
Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng
Cộng Sản Việt Nam
Địa chỉ:
P.O.Box 6147
Fullerton, Ca 92834, USA
Phone:
(626)257-1057
Email:
ubtttadcsvn68@gmail.com
HUẾ THẢM
SÁT MẬU THÂN 1968
Bài số 1
ĐIỂM
MẶT THỦ PHẠM TÀN SÁT
5327 THƯỜNG DÂN VÔ TỘI HUẾ
VÀ BẮT ĐI
MẤT TÍCH 1200 NGƯỜI
Chúng
chính là Hồ Chí Minh, là đảng cộng sản Việt Nam, và những tên
tay sai cơ sở, nằm vùng tại Huế.
Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam
là những kẻ chủ mưu, đưa ra sách lược cho bọn thừa hành là cán
binh Bắc Việt và những cơ sở nằm vùng tại Huế trong Phật giáo,
trong học sinh, trong sinh viên, giới trí thức, tiểu thương,
v.v. Tất cả bọn chúng là thủ phạm trực tiếp nhúng tay vào vụ
thảm sát 5327 thường dân vô tội và bắt đi mất tích 1200 người
trong vòng 26 ngày, khi bọn chúng tấn công chiếm Huế kể từ 2 giờ
33 phút sáng ngày mồng hai Tết năm Mậu Thân 1968.
Đây là một cuộc tàn sát đẫm máu kinh
hoàng nhất trong lịch sử Việt Nam. Những kẻ nội tuyến nằm vùng
tại Huế và đạo quân phương bắc dường như không phải là người mà
là những ác quỷ mang hình dạng người. Chúng thẳng tay tàn sát
hàng loạt dân lành vô tội cũng là người Việt Nam như chúng bằng
những phương cách dã man chưa từng có trong lịch sử đất nước.
Chúng có khác gì Pol Pot, Ieng Sary của Khmer Đỏ?
Cuộc tàn sát đẫm máu Mậu Thân 1968 tại
Huế đã trôi qua đúng nửa thế kỷ [1968-2018]. Vậy mà hằng năm mỗi
độ xuân về Tết đến, vết thương Mậu Thân lại tái phát, rỉ máu đau
nhức trong lòng người dân Huế, cho dù họ đang ở quê nhà hay đang
mang thân phận tỵ nạn lang thang khắp mọi nơi trên quả địa cầu
này. Vết thương đó đã 50 năm trôi qua mà vẫn còn như quá mới.
Thời gian dài như thế vẫn không thể chữa lành vết thương trong
lòng người dân Huế nói riêng và người dân Miền Nam nói chung.
Ông trời có
mắt không? Thần linh có mắt không? Sao không trừng phạt bọn
chúng? Sao đám người gây ra tội ác tày trời này vẫn nhởn nhơ,
vẫn hãnh diện với cái mà bọn chúng cho là chiến thắng Mậu Thân,
và rồi còn chối tội vu khống cho “Mỹ ngụy” gây ra tội ác này chứ
không phải bọn chúng.
Vừa qua, vào ngày 31 tháng 1
năm 2018, Chủ đề:
"Bản
hùng ca xuân Mậu Thân 1968" đã được sử dụng
để kỷ niệm 50 năm cuộc Tổng Công Kích Tổng Nổi Dậy của tên đồ tể
Hồ Chí Minh và đảng cướp cộng sản Việt Nam tại hội trường Thống
Nhất, thành phố Sài Gòn. Theo đám thuộc hạ báo chí đảng cộng sản
của các ông, thì buổi lễ có sự tham dự của Nguyễn Phú Trọng,
Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam; chủ tịch nước Trần Đại
Quang; chủ tịch quốc hội Nguyễn thị kim Ngân cùng nhiều lãnh đạo
cao cấp trong đảng cộng sản Việt Nam.
Trong buổi lễ, Bí thư Thành ủy thành
phố Hồ chí Minh, Nguyễn Thiện Nhân đã tuyên bố: "Cuộc tổng tiến
công và nổi dậy mùa xuân Mậu Thân 1968 là một đỉnh cao chói lọi,
là đường lối đúng đắn của đảng, mãi mãi là chinh chứng sinh động
của tư duy và nghệ thuật quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.”
Còn nhớ mật lệnh của Hồ Chí Minh đọc
vào đêm giao thừa ra lệnh tổng tấn công Huế năm 1968. Đó chính
là bài thơ “chúc tết” Miền Nam sau đây:
“Xuân
này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin
vui khắp mọi nhà
Nam bắc thi đua đánh
giặc Mỹ
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta”
Khi Hồ Chí Minh đọc dứt câu mật lệnh
cuối cùng “Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta” cũng chính là lúc bọn
cộng sản bắt đầu tấn công.
Tên ác quỷ Hồ Chí Minh đã chúc tết và
tặng quà đồng bào Miền Nam và đồng bào Huế bằng súng đạn xả vào
dân chúng, bằng búa liềm đập vào đầu nạn nhân, phá sạch di tích
lịch sử tại Cố Đô Huế.
Những năm gần đây, đám sát
nhân còn sống chối tội:
Bộ Chính Trị đảng cộng sản Việt Nam,
Lê Văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ
Ngọc Phan, Nguyễn Thị Đoan Trinh, v.v. chúng nói như sau: “Chúng
tôi không có mặt trong trận đánh. Chúng tôi ở tuyến sau của mặt
trận”.
Đại tá Việt Cộng Bùi Tín, đồ tể Nguyễn Đắc Xuân cũng như Hoàng
Phủ Ngọc Tường, thay mặt đảng Cộng sản cho rằng: “Số người bị
chết ở Huế là do bom đạn của Ngụy Quân, Ngụy Quyền và đế quốc Mỹ
sát hại... Do đế quốc Mỹ, Ngụy Quân, Ngụy Quyền giết đồng bào
Huế rồi đổ tội cho Đảng và quân đội nhân dân, hầu làm giảm bớt
lòng thương mến của dân chúng Huế đối với Đảng và quân đội nhân
dân”.
Sự thật là sự thật. Cộng sản Việt Nam
không cách chi có thể che dấu sự thật tội ác tày trời của mình.
Sự thật đó là chính là tội ác đập đầu chôn sống 5327 người dân
vô tội của Hồ Chí Minh và Chính Trị Bộ đảng cộng sản Việt Nam
trong biến cố Mậu Thân 1968.
Bằng mắt thấy tai nghe, tay cầm súng
trực chiến chống trả lại địch quân trên khắp cùng thành phố, rồi
sau đó phải điều tra tội phạm và tìm kiếm các mồ chôn tập thể
trong nhiều năm; có thể nói tôi là nhân chứng sống rành rọt
trong toàn bộ vụ Thảm Sát Mậu Thân của bọn cộng sản. Tôi cố gắng
ghi lại những gì đã xảy ra trong 22 ngày kinh hoàng và tất cả
công cuộc điều tra tìm kiếm nạn nhân sau đó, kiểm chứng với đồng
đội và những người bạn đồng minh cũ những chi tiết quan trọng
hoặc những chi tiết nhớ không kỹ lắm, với niềm ước mong để lại
cho thế hệ sau và cho những ai muốn nghiên cứu tìm hiểu về Thảm
Sát Mậu Thân, một biến cố đau thương kinh hoàng nhất của dân
tộc, khi mà Hồ Chí Minh, đảng Cộng Sản Việt Nam và tay chân cơ
sở nằm vùng của chúng đã thi hành triệt để chính sách “Bạo Lực
Đỏ”, một chính sách tiêu biểu và nòng cốt của chủ nghĩa cộng
sản, để ép buộc trấn áp dân chúng Huế “hưởng ứng” cuộc “Tổng Nổi
Dậy” do hắn và đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trương hầu tạo một
phản ứng dây chuyền là sẽ tạo ra một cuộc “Tổng Nổi Dậy” trên
toàn cõi Miền Nam như chúng đã hoang tưởng trong thời gian quân
cộng sản chiếm Huế vào mùa xuân 1968.
NGUYÊN DO CUỘC TỔNG CÔNG KÍCH,
TỔNG NỔI DẬY MẬU THÂN 1968.
Cuộc “Tổng Công Kích”
và “Tổng Nổi Dậy” trên toàn cõi Miền Nam Việt
Nam vào mùa xuân năm 1968, do Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt
Nam thực hiện, khởi đầu từ chiến lược vừa đánh vừa đàm, vừa đàm
vừa đánh, hỗ trợ cho đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị
của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn đầu
của cuộc hòa đàm Paris.
Theo tài liệu giải mật của Hà Nội cho
thấy: Tại hội nghị Trung ương lần thứ 13, kể từ ngày 23 đến ngày
26 tháng 11 năm 1967; bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Duy Trinh của
Hà Nội trình bày đề cương báo cáo về công tác đấu tranh ngoại
giao đã nói rằng: “Để đánh bại kẻ thù hết sức ngoan cố vào xảo
quyệt là Đế Quốc Mỹ xâm lược, ta phải giữ vững quyết tâm cao độ,
nắm vững phương châm chiến lược, đồng thời phải biết cách đánh
thắng địch, vận dụng sách lược khôn khéo, giành thắng lợi từng
bước...” Vì thế, từ những tháng đầu năm 1967, Quân ủy Trung ương
và Bộ Tư Lệnh quân đội nhân dân Việt Nam lập tức khởi thảo kế
hoạch chiến lược Đông-Xuân 1967-1968 để tận dụng tình thế mới
(Hòa Đàm Paris). Tháng 5/1967, Bộ chính trị Trung ương đảng cộng
sản đã họp dưới sự chủ tọa của Hồ Chí Minh để đánh giá tình hình
và xem xét dự thảo kế hoạch Đông-Xuân 1967-1968.
Cuộc họp
ngày 28 tháng 12 năm 1967 của Hồ Chí Minh và bộ chính trị khóa
III nhằm chính thức thông qua chiến dịch Mậu Thân.
Phiên họp của những ác quỷ lịch sử
triệu tập lần thứ 2 vào tháng 6/1967, cũng để thảo luận kế hoạch
chiến lược này. Tháng 7/1967, trong phiên họp lần này chính Lê
Duẩn và Quân ủy Trung ương quyết định hướng tấn công mới là:
“xuất phát từ rừng núi, nông thôn, đánh thẳng vào sào huyệt. Đầu
não hiểm yếu nhất của địch là các thành phố, căn cứ, trung tâm.
Đánh vào đó sẽ tạo được bất ngờ lớn, giành thắng lợi lớn”. Từ
ngày 20 đến ngày 24 tháng 10 năm 1967, trong 5 ngày, Văn Tiến
Dũng trình bày dự thảo kế hoạch chiến lược Đông-Xuân-Hè
1967-1968. Quyết định cuối cùng của hội nghị như sau: Chiến dịch
Đông-Xuân-Hè 1967-1968: bắt đầu mở cuộc tấn công và nổi dậy là
vào dịp Tết Mậu Thân 1968.
Ngày 28 tháng 12 năm 1967, bộ chính
trị họp phiên họp đặc biệt dưới sự chủ tọa của Hồ Chí Minh và Lê
Duẫn tại “phủ chủ tịch” chính thức thông qua kế hoạch “tổng tấn
công, tổng nổi dậy”.
Tháng 1 năm 1968, hội nghị Ban Chấp
Hành Trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 14 họp tại Hà Nội
thông qua nghị quyết tháng 12/1967 của Bộ chính trị quyết định
tổng công kích, tổng nổi dậy vào dịp Tết Mậu Thân.
Theo kế
hoạch của Quân ủy Trung ương và Bộ Tư Lệnh Quân Đội Nhân Dân thì
sẽ có 2 mặt trận: (1) Quân chủ lực sẽ phụ trách
chiến trường chính là đường số 9 Khe Sanh, nhằm thu hút và cầm
chân lực lượng chiến lược của địch. Trong khi đó thì (2)
chiến trường thứ hai nòng cốt được mở ra là tấn công toàn diện
các thị xã, thành phố tại Miền Nam Việt Nam, kết hợp với cuộc
tổng nổi dậy của quần chúng nông thôn và đô thị. Chiến trường
chính là Sài Gòn, Trị Thiên-Huế. Trọng điểm là thành phố Sài
Gòn, Trị Thiên-Huế và các thành phố lớn.
Thời gian tiến hành cuộc Tổng Công
Kích, Tổng Khởi Nghĩa được chọn vào dịpTết Mậu Thân 1968.
Tuy nhiên đến ngày 21 tháng 1 năm
1968, thời điểm bắt đầu nổ súng tấn công mới xác định là đúng
vào đêm giao thừa.
Cũng cùng ngày 21 tháng 1 năm 1968,
một mật điện của Bộ Chính Trị gởi cho Phạm Hùng chỉ huy Trung
ương Cục Miền Nam, Võ Chí Công chỉ huy Khu ủy Khu 5, và Thiếu
tướng CS Trần Văn Quang, Khu ủy Trị-Thiên, chỉ thị các đương sự
thành lập mặt trận thứ hai lấy tên là “Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ
và Hòa Bình”. Hãy nghe chúng định nghĩa:
“Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa
Bình là một tổ chức tranh thủ và tập hợp thêm những lực lượng,
những cá nhân chống Mỹ và Thiệu- Kỳ, tranh thủ các tầng lớp
trung gian ở đô thị, đồng thời cũng để tranh thủ sự đồng tình và
ủng hộ rộng rãi của nước ngoài”.
Thiết nghĩ cần nói trước và nói rõ,
lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình Tại Huế được đảm
trách bởi Đám cơ sở nội thành Việt Cộng nằm vùng trong tôn giáo,
trong sinh viên, học sinh và trong giới trí thức cũng như những
thành phần lao động ít học. Lực lượng này phối hợp với ban An
Ninh Khu ủy Trị-Thiên, ban An Ninh Tỉnh Thị ủy Thừa Thiên-Huế.
Tất cả bọn chúng là thủ phạm đã tạo nên cuộc thảm sát ghê rợn
tại Huế.
Và
quan trọng nữa là qua lời khai của tên Trung tá Hoàng Kim Loan,
cán bộ tình báo của cục Tình Báo cộng sản Hà Nội, thì chỉ huy
cuộc Tổng nổi dậy tại Huế vào Mậu Thân 1968 đã bị Bộ Chỉ Huy
Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế bắt vào tháng 5/1972. Chính y
đã xác nhận chúng là thủ phạm, đã âm mưu hoạch định và ra lệnh
cho thuộc hạ thi hành theo lệnh của Bộ Chính Trị đảng Cộng sản
Việt Nam qua Lê Chưởng ủy viên Chính trị của Bộ Tư Lệnh Hành
Quân Quân Khu Trị-Thiên-Huế./.
Bài số 2
HUẾ, ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN CÓ THẬT
Hai
giờ 33 phút sáng ngày mồng hai Tết Mậu Thân 1968 là giờ khởi đầu
của 624 giờ đau thương kinh hoàng của cuộc tàn sát của bầy ác
quỷ, của lũ người man rợ từ rừng núi phía tây tràn vào Huế. Bọn
quỷ khát máu này là ai?
Bọn chúng là quân “Giải Phóng”, là
quân đội “Nhân Dân”, là Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa
Bình, là những giáo sư, sinh viên, học sinh đã theo Thích Trí
Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Thiện Siêu, và Thích Chánh Trực
trong cuộc phản loạn vào tháng 6/1966 tại Miền Trung.
Khi phong trào tranh đấu phản loạn bị
chính phủ VNCH dẹp tan, bọn chúng đào thoát lên mật khu. Nay bọn
chúng theo chân quân cướp man rợ trở lại Huế với gươm đao, búa
liềm, với mã tấu, với AK, với B40 thẳng tay chém giết, chôn sống
đồng bào, bắn sập thành phố, và bắn sập đền đài miếu vũ của tổ
tiên.
Và Huế
trong 624 giờ đồng hồ đã trải qua từng giây một, từng phút một,
từng giờ một, từng ngày một, những tang tóc thê lương, những máu
và nước mắt của hằng chục ngàn dân Huế nhỏ xuống trên mảnh đất
thân yêu của quê hương.
Kêu trời không thấu, kêu đất không
nghe, cầu khẩn thần linh phù trợ, thần linh ngoảnh mặt. Huế ôm
nhau trong vòng tay run rẩy, dìu nhau chạy trốn Việt cộng, khập
khễnh bước thấp bước cao với nỗi kinh hoàng tột độ.
Người Huế chết quá nhiều, chết tức
tưởi, chết oan ức, chết không hiểu tại sao phải chết, tội tình
chi mà phải chết. Huế mỗi thước đất là một thây người, là mỗi
vũng máu tươi còn chưa kịp đổi màu. Người Huế chết từ trong nhà
ra đến sân, sân trước đến sân sau, thây người nằm chết âm thầm
lặng lẽ trên đường phố, nơi vỉa hè. Thây người sình thối trong
lùm cây bụi cỏ. Thây người nằm co quắp trong đường hẻm, nơi bờ
ao, nơi tường thành. Thây người trong trường học, trong sân
chùa. Một rừng xác chết, một bãi thây ma. Người Huế chết nằm,
chết đứng, chết ngộp thở vì bị chôn sống, chết vì bị cuốc xẻng
đập vào đầu, Năm ngàn ba trăm hai mươi bảy [5327] người chết,
1200 bị bắt đi mất tích.
Hỡi trời hỡi đất, hỡi Chúa hỡi Phật,
hỡi hồn thiêng sông núi, hỡi anh linh tiền nhân, quý vị ở đâu
sao không ra tay cứu vớt dân Huế? Họ đã làm gì nên tội? Hay là
Phật, Chúa, thần linh cũng phải đành bó tay trước loài quỷ cộng
sản để mặc bọn chúng thẳng tay say sưa chém giết đồng bào vô
tội!
Năm giờ
30 sáng, trong ánh sáng lờ mờ của ngày mùng 2 Tết Mậu Thân 1968,
cộng quân tràn ngập khắp mọi nơi trong thành phố và vùng giáp
ranh các quận Hương Thủy, Hương Trà, Phú Vang rồi bọn chúng bắt
đầu một cuộc tàn sát đồng bào Huế còn dã man hơn thời trung cổ.
Cuộc tàn sát dân chúng Huế
được Việt Cộng chia làm 2 giai đoạn.
Giai đoạn I:
Bắt và giết người theo danh sách trong
hồ sơ đen mà cơ quan An Ninh Khu, Tỉnh, Thị ủy Việt Cộng đã
thiết lập từ trước cuộc tấn công. Khi lực lượng quân sự tràn vào
Huế thì ngay lập tức lực lượng Công An Khu ủy của Tống Hoàng
Nguyên, lực lượng Công An Thừa Thiên-Huế của tên Đại tá Nguyễn
Đình Bảy tự Bảy Lanh, phối hợp chặt chẽ với các đội An Ninh Tự
Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân truy lùng, bắt bớ, và hạ sát các
mục tiêu ngay. Đó là thời điểm sau 2 giờ 33 phút sáng ngày Mùng
2 Tết, và kéo dài một ngày sau đó.
Giai Đoạn II:
Ngay trong ngày Mùng 2 Tết, vào buổi
sáng sau cuộc tụ họp đồng bào tại hai Quận I và II, chúng công
bố thành lập Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Quận I và II, và Ủy Ban
Nhân Dân Cách Mạng Tỉnh Thừa Thiên-Huế, đồng thời cũng công bố
thành phần tổ chức của Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa
Bình. Những vụ bắn giết bắt bớ dân chúng trong giai đoạn này quy
mô hơn, có tổ chức hơn, và quá sức tàn bạo.
Giai Đoạn I bắt đầu từ 2 giờ 33 phút
sáng ngày mùng 2 Tết Mậu Thân 1968:
Trời chưa sáng hẳn, một số lớn các gia
đình trong ba quận thị xã Quận I, II, và III, và ba quận giáp
ranh Hương Trà, Phú Vang, và Hương Thủy đã bị đám Công An Thành
ủy, lực lượng An Ninh và Bảo Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân, đám
chỉ điểm, đám cơ sở nội thành xông vào từng nhà lục soát bắt
người. Bọn chúng đã có sẵn hồ sơ lý lịch, tên tuổi từng người mà
bọn chúng gọi là Công An Cảnh Sát Ngụy, binh lính Ngụy, công
chức chính quyền Ngụy, nhân viên tình báo “Xê-I-A”. Không cần
biết đúng sai, bọn chúng thỏa thích nổ súng vào những người
trong bảng “ phong” thần này.
Bảy giờ sáng ngày Mồng 2 Tết Mậu Thân
1968, dân chúng Huế bắt đầu chạy giặc. Họ bỏ lại tất cả để chạy
trốn Việt cộng. Nhà cửa tài sản bỏ lại đã đành, thức ăn thức
uống, áo quần cũng không kịp mang theo, miễn sao tránh xa bọn
cộng sản tìm về vùng Quốc gia đang kiểm soát. Già trẻ, lớn bé,
cha mẹ, con cái, dắt dìu nhau tìm đường chạy trốn Việt cộng.
Nhưng khốn thay, họ biết chạy đi đâu vì khắp nơi đều là Việt
Cộng. Bọn Việt cộng xả súng bắn vào đoàn người đang hốt hoảng và
hỗn loạn chạy tìm nơi bình yên trú ẩn. Thây người ngã gục, máu
đào tuôn rơi nhuộm đỏ màu cờ đỏ sao vàng của Hồ Chí Minh, của
đảng cộng sản Việt Nam, và cờ 3 mảnh của lực lượng Liên Minh Dân
Tộc Dân Chủ Hòa Bình.
- Nhân viên cao cấp của chính quyền
Thị xã Huế hy sinh đầu tiên là ông Trần Đình Thương, Phó Thị
Trưởng Thị xã Huế. Vì không nắm vững tình hình nên trời chưa
sáng hẳn ông đã phóng xe khỏi nhà với ý định là đến nhiệm sở Tòa
Hành Chánh Tỉnh và Thị Xã xem tình hình thế nào, ông đã bị cộng
quân bắn hạ ngay trước cổng nhà, đối diện với công viên Bến Ngự,
ngay ngã tư Nguyễn Hoàng-Nguyễn Huệ thuộc Quận III Thị xã Huế.
Thật tội nghiệp, mãi hơn 12 ngày sau,
khi khu vực này được giải tỏa, thân nhân mới lấy được xác đem về
mai táng. Lúc đó thi thể ông đã sình thối.
- Tại vùng Bến Ngự, Nam Giao, Từ Đàm,
dân chúng kéo nhau chạy trốn lên vùng nhà máy nước Vạn Niên, gần
chùa Từ Hiếu, cạnh đồi thông Quảng Tế, hoặc cố gắng băng qua cầu
Bến Ngự chạy về hướng trường Quốc Học hoặc bệnh viện Trung Ương
Huế. Tất cả hai hướng đều bị cộng quân hoặc bằng súng nhỏ, hoặc
bằng súng cối pháo kích và bắn bừa bãi vào đoàn người chạy loạn
để ngăn chận không cho dân chúng trốn thoát khỏi vùng bọn chúng
đang kiểm soát. Tất cả đều phải quay trở lại nhà để bọn chúng có
thể sử dụng làm con tin, làm khiên đỡ đạn, và làm chùn bước quân
đội VNCH muốn tấn công chúng.
Dân chúng vùng Nam Giao, Từ Đàm, dốc
Bến Ngự, bị thương khá nhiều và nhiều gia đình bắt đầu đói vì đã
hết gạo. Cha tôi, Hoàng Thân Tráng Cử, cùng với một người bạn
chí thân là Bác Võ Thành Minh, hai ông là những trưởng Hướng Đạo
thâm niên nhất cùng một thời với Tạ Quang Bửu, Hoàng Đạo Thúy,
trưởng Trần Điền của phong trào Hướng Đạo Việt Nam, chạy chỗ này
sang chỗ kia, băng bó cứu giúp cho những đồng bào bị thương. Phụ
thân tôi và bác Võ Hoàng Minh vào những nhà vắng chủ tìm gạo nấu
cơm tiếp tế cho nhiều gia đình có trẻ thơ đang bị đói, và cuối
cùng họ thành lập một đoàn cứu thương tải thương những người bị
thương quá nặng để đưa về bệnh viện Trung Ương Huế.
Sau này cha tôi kể lại với chúng tôi:
Có 4 người bị thương rất nặng cần phải vào bệnh viện mới mong
cứu sống. Cha tôi và bác Võ Thành Minh cuốn 4 cái mền làm võng
cùng một số thiếu nhi khiêng 4 người này định đưa về bệnh viện
Trung Ương Huế. Đi đầu là bác Võ Thành Minh với miếng vải trắng
cột vào một khúc tre làm biểu tượng cho cờ cứu thương, đi giữa
hàng cán bệnh nhân là cha tôi. Đoàn mới ngang dốc Bến Ngự thì bị
một toán Việt cộng chận đoàn cứu thương lại. Một tên Việt cộng
hỏi bác Minh và cha tôi:
- Chúng mày treo cờ trắng đi đầu hàng
địch hả?
-
Chúng tôi đưa 4 người bị thương quá nặng vào bệnh viện.
Hai tên khác dí mũi súng AK vào cha
tôi và bác Minh:
- Đi lui! Không thì chúng tao bắn tan
xác bây giờ.
Cả đoàn đành đi lui. Chỉ mấy giờ sau 4 nạn nhân tắt thở vì ra
máu quá nhiều.
Cha tôi và bác Võ Thành Minh trở lại
nhà Cụ Phan Bội Châu gần chùa Từ Đàm. Khoảng nửa giờ sau. Một
toán Việt cộng đến nhà Cụ Phan để bắt cha tôi và bác Minh. Cha
tôi may mắn chạy thoát bằng cửa sau sang nhà hàng xóm lẩn trốn.
Bác Võ Thành Minh bị bọn chúng bắt dẫn đi và sau đó giết bác.
Sau này thân nhân của bác Võ Thành Minh tìm được xác của bác
trong một hố chôn tập thể. Tưởng cũng cần nhắc lại, năm 1954
hiệp định Geveva giữa Việt Cộng và Pháp chia đôi đất nước lấy vĩ
tuyến 17 làm lằn ranh Quốc-Cộng, thì bác Võ Thành Minh chính là
người đã dựng lều bên bờ hồ Geneva thổi sáo cầu nguyện cho hòa
bình Việt Nam. Bác Võ Thành Minh, suốt đời giữ lời hứa của một
Hướng Đạo sinh là:
Trung thành với Tổ quốc - Giúp ích mọi
người - Tuân theo luật Hướng Đạo.
Bác có tội tình chi mà bọn chúng đem
chôn sống bác? Chẳng lẽ vì đi cứu người dùng mảnh vải trắng làm
cờ mà bị giết? Trong lửa đạn tìm đâu ra sơn đỏ để làm thành cờ
hồng thập tự, đành dùng vải trắng làm cờ cứu thương cho hai bên
đừng bắn vào đoàn tải thương. Vậy mà bọn ngu dốt man rợ kia cho
là kéo nhau đi đầu hàng địch, để rồi cuối cùng thì những người
bị thương phải chết vì không được cứu chữa, còn người tải thương
thì bị bắt và bị chôn sống! Lịch sử nào tha được tội ác của bọn
cộng sản tàn bạo này?
Cũng tại ngôi nhà của Cụ Phan Bội
Châu, sau khi bắt bác Võ Thành Minh, bọn chúng lại bắt hai người
cháu nội của Cụ Phan Bội Châu đem đi chôn sống, đó là anh Phan
Thiện Cầu, Đại úy Quân Cảnh Tư Pháp VNCH, và anh Phan Thiện
Tường, Giáo Sư. Trong khi đó thì anh ruột của hai anh Phan Thiện
Cầu và Phan Thiện Tường lại là Đại tá Việt Cộng “Quân Đội Nhân
Dân” Phan Thiện Cơ (!) và thời điểm đó Phan Thiện Cơ là Tư Lệnh
chiến trường Tây Nguyên! Đau lòng thay cho cụ Phan Bội Châu.
Cụ Phan Bội Châu và gia đình tôi có
quan hệ rất mật thiết. Cụ là một nhà tiền bối cách mạng phụ tá
cho ông nội tôi là Kỳ Ngoại Hầu Cường Để trong phong trào Đông
Du và trong Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội. Cụ và cha tôi,
Hoàng Thân Tráng Cử, có một mối giao tình khắng khít vì công
việc cách mạng chống Pháp chống cả Việt Minh liên quan đến ông
nội tôi là Kỳ Ngoại Hầu Cường Để.
Không hiểu Đại tá Phan Thiện Cơ nghĩ
gì khi hay tin hai người em của mình bị chính các đồng chí của
mình đem đi chôn sống? Hay ông Đại tá Việt Cộng này cũng học tập
gương của đồng chí kính yêu Trường Chinh đem cả cha mẹ mình ra
đấu tố và giết hại để làm gương cho các anh hùng nhân dân noi
theo? Phải chăng đó chính là chân lý là nguyên tắc Đấu Tranh
Giai Cấp của Bác và Đảng?
Năm 1973, Đại tá Phan Thiện Cơ là một
thành viên cao cấp trong phái đoàn quân đội Bắc Việt tại Ủy Ban
Kiểm Soát Đình Chiến 4 bên (Việt Nam Cộng Hòa, Mỹ, Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam, và cộng sản Hà Nội) đóng tại phi trường Tân Sơn
Nhất Sài Gòn.
Tại vùng Nam Giao, Cộng quân bắt sinh
viên Lê Hữu Bôi tại chùa Tường Vân, nơi tu đạo của Hòa Thượng
Thích Tịnh Khiết. Lê Hữu Bôi, sinh viên trường Quốc Gia Hành
Chánh, Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn bị bắt và sau đó đem
đi chôn sống, vì bị nghi là “Xê-I-A”. Sinh viên Lê Hữu Bôi gọi
Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết là cậu ruột, gọi bà nội tôi là dì.
Tôi gọi sinh viên Lê Hữu Bôi là bác.
Sau này chúng tôi tìm ra xác sinh viên
Lê Hữu Bôi. Tội nghiệp, ông ra Huế vừa nghỉ Tết và cũng để đi
hỏi vợ thì bị Việt cộng bắt đi chôn sống.
Trong suốt thời gian chiếm Huế, Bộ Chỉ
Huy An Ninh của cơ quan Thành ủy Huế đặt tại Chùa Từ Đàm. Do đó,
tất cả các thành phần Dân, Quân, Cán, Chính, và Cảnh Sát Quốc
Gia mà bọn an ninh Thành ủy cũng như lực lượng An Ninh và Bảo Vệ
Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân bắt được tại 3 quận thị xã I, II,
III và các quận ven thành phố Huế đều bị giải về và giam giữ tại
Chùa Từ Đàm. Tại đây họ bị thẩm vấn, đánh đập hành hạ thân xác,
một số bị xử bắn ngay tại chùa. Số còn lại lần lượt bị giải đi
chôn sống tại vùng gần chùa Tường Vân, Vạn Niên, vùng lăng vua
Tự Đức, Đồng Khánh. Bốn trăm tám chục xác chết được tìm thấy ở
Khe Đá Mài thuộc vùng núi Nam Hòa. Đó là những thanh niên trong
Lực Lượng Tự Vệ của làng Phủ Cam.
Tại Nam Giao, Từ Đàm, Bến Ngự, lực
lượng an ninh của Tống Hoàng Nguyên và Nguyễn Đình Bảy, và đám
cơ sở nằm vùng, đội An Ninh Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân, lục xét
từng nhà một, bắt và dẫn đi rất nhiều người. Dân chúng sau này
làm chứng khai đã nhận diện rõ những tên nằm vùng thật nguy hiểm
và sắt máu như tên Nguyễn Tú, một võ sư môn phái Thiếu Lâm, nhà
ở gần lăng Vua Tự Đức gần đồi Vọng Cảnh. Nguyễn Tú là cơ sở quan
trọng của cơ quan an ninh Tỉnh ủy Thừa Thiên. Tên thứ hai là Cửu
Diên nhà ở vùng Cầu Lim, gần Đàn Nam Giao. Ngoài ra còn có con
trai của Cửu Diên, nguyên là Thiếu úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
đào ngũ trước Tết Mậu Thân, Nay y cũng ở trong toán an ninh của
Việt Cộng đang truy bắt Dân Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa
trong vùng Nam Giao, Từ Đàm, Bến Ngự. Trong số những người bị
hai tên Tú và Cửu Diên bắt đi tại vùng Từ Đàm có ông Tôn Thất
Hậu, chủ tiệm ảnh Tự Do, và ông Nguyễn Văn Nhẫn, chủ tiệm hớt
tóc ngay cạnh chùa Từ Đàm. Hai ông Tôn Thất Hậu và Nguyễn Văn
Nhẫn là bạn chí thân của tên Tú và Cửu Diên vậy mà bọn chúng
cũng không tha. Thế mới biết đã là Việt Cộng thì không bao giờ
kể gì đến tình nghĩa. Sau này tìm được xác của hai ông Tôn Thất
Hậu và Nguyễn Văn Nhẫn ở vùng lăng vua Đồng Khánh. Họ chết trong
tình trạng bị chôn sống vì không có vết tích bị trúng đạn.
Tại Làng Phủ Cam: Rạng sáng ngày mùng
2 Tết, Phủ Cam đã bị lực lượng cộng quân bao vây, nhưng bọn
chúng vẫn chưa tấn công vì e ngại lực lượng phòng thủ của giáo
xứ. Giáo dân làng Phủ Cam có truyền thống lâu đời từ thời kỳ
quân đội viễn chinh Pháp là họ tự tổ chức đội ngũ, xin phương
tiện vũ khí của chính phủ, tự đứng ra canh gác gìn giữ an ninh
ngày đêm cho bà con thân thuộc trong làng. Lần này Mậu Thân
1968, Cộng quân bao vây tứ bề, thời gian vây hãm quá lâu, đã
nhiều ngày qua mà chẳng thấy có một hy vọng nào sẽ có viện binh
tiếp cứu. Dân chúng và ngay cả những thanh niên trẻ trong đoàn
tự vệ bắt đầu có dấu hiệu nản lòng. Đại đa số dân chúng trong
làng đêm đêm kéo nhau vào trú ngụ trong nhà thờ Phủ Cam, trước
là để tránh đạn pháo của cộng quân, sau là nhờ sự che chở bảo vệ
của các Cha trong giáo xứ.
Tôi nhớ không lầm vào khoảng 1 giờ
khuya ngày 18/2 âm lịch, tại Bộ Chỉ Huy, tôi nhận được báo cáo
cuối cùng của toán Cảnh Sát Đặc Biệt phụ trách xã Thủy Phước
đang bí mật hoạt động trong làng Phủ Cam: “Cộng quân đã tấn công
vào làng, chiếm nhà thờ Phủ Cam và bắt đi rất nhiều đồng bào
đang trú ngụ trong nhà thờ Phủ Cam.” Những ngày sau chúng tôi
nhận được báo cáo rõ ràng hơn là khoảng trên 300 thanh niên
trong làng bị bắt đi.
Kết quả tàn khốc về số phận của hơn
300 thanh niên bị bắt trong nhà thờ Phủ Cam là: Sau khi bị bắt,
họ được dẫn lên giam tại Chùa Từ Đàm, nơi đặt bộ Chỉ Huy An Ninh
của Thành ủy Huế. Ngay tại đây đã có một số bị xử bắn ngay tại
sân chùa. Sau đó đại đa số còn lại bị trói tay và dẫn lên vùng
núi phía tây, và cuối cùng thân xác của trên 428 người được phát
hiện nằm dọc bờ khe Đá Mài, phía tây quận lỵ Nam Hòa. Đó là số
phận của những người bị bắt tại nhà thờ Phủ Cam.
Tại Dòng Chúa Cứu Thế, nằm gần khu An
Cựu trên đường Nguyễn Huệ, rạng sáng ngày mồng 2 Tết cho đến
ngày mùng 3, lúc đó có khoảng trên năm trăm đồng bào trong vùng
đến trú ẩn ngay trong nhà thờ, nhưng con số này mỗi ngày mỗi
tăng và những ngày sau số lượng đồng bào vào ẩn trốn trong nhà
thờ của Dòng Chúa Cứu Thế đã lên đến gần ba ngàn người. Đây là
thời điểm mà bọn Công An Khu, Thành ủy Huế và đám nằm vùng, tổ
chức An Ninh và Bảo Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân ra tay, dưới
sự chỉ huy của Nguyễn Đình Bảy tự Bảy Lanh, Đại tá Trưởng Ty
Công An Thừa Thiên-Huế. Phụ tá cho hắn là cha con ông Thiên
Tường, chủ tiệm thuốc Bắc ở gần chợ An Cựu. Cũng cần nói thêm
Nguyễn Đình Bảy là con nuôi của Thiên Tường từ nhỏ. Ngoài đám
nằm vùng của cha con Thiên Tường còn có tổ chức An Ninh và Bảo
Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân cùng đám chỉ điểm. Sau khi bọn
chúng bao vây chặt chẽ khu nhà thờ Phủ Cam, lực lượng an ninh
của bọn chúng tràn vào, tập họp mọi người, phân loại và thanh
lọc.
Hơn ba
trăm người bị bắt sau đó, bị trói tay dẫn đi về hướng Lăng Xá
Bầu, Lăng Xá Cồn thuộc quận Hương Thủy, trong số này có thượng
nghị sĩ Trần Điền.
Sau này, trong số xác của hơn 300
người vô phúc này có xác của Thượng Nghị Sĩ Trần Điền. Tất cả
được tìm thấy rải rác trong hai vùng Lăng Xá Bầu và Lăng Xá Cồn
thuộc quận Hương Thủy. Họ chết trong tình trang bị trói tay vào
nhau, bằng dây kẽm gai, hoặc dây điện chết chùm trong những hố
chôn tập thể. Một số chết vì bị vật cứng đập vào đầu, đa số chết
vì bị chôn sống.
Theo như lời tường thuật của thanh
niên tên Phan Văn Tuấn, kẻ bị Việt Cộng bắt đi làm nhân công đào
hố chôn người, thì khi anh ta và những người khác đào hố xong,
anh ta tận mắt chứng kiến bọn Việt cộng dắt những tù nhân đến.
Những kẻ bất hạnh này bị cột từng chùm một, từ hai mươi đến ba
mươi người. Tất cả đều đứng ngay miệng hầm dài nhưng không sâu.
Bọn chúng chỉ bắn một hai người đứng đầu hàng, những người chết
ngã ngục xuống hầm kéo những người còn sống vì mất thăng bằng
phải rớt xuống theo. Bọn Việt cộng ra lệnh cho anh Tuấn và những
“nhân công” khác lấp đất chôn sống những người còn sống. Những
ai vùng vẫy thì bọn chúng dùng cuốc, xẻng đập vào đầu. (Anh Tuấn
là người đã may mắn chạy thoát trước khi bị bọn Việt cộng giết).
Tưởng cũng cần nói thêm: Thượng nghị
sĩ Trần Điền là một giáo sư, một trưởng Hướng Đạo ngay từ hồi
phong trào Hướng Đạo Việt Nam mới thành lập, ông còn là cựu Tỉnh
Trưởng tỉnh Quảng Trị, và đương thời là một thượng nghị sĩ của
Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa.
Ngoài ra, trường trung học Thiên Hựu
ngay ngã tư Nguyễn Huệ-Lý Thường Kiệt, là nơi đặt bộ chỉ huy nhẹ
của Đại tá VC Nguyễn Đình Bảy, trưởng Ty Công An Thừa Thiên-Huế.
Có khoảng một đại đội cộng quân canh giữ nơi này. Đây là nơi
giam giữ những tù nhân quan trọng mà Nguyễn Đình Bảy đã lập danh
sách từ trước khi bọn chúng tấn công Huế. Theo anh Lê Đình
Nguyên, một trung sĩ cảnh sát đào thoát được khi trực thăng Hoa
Kỳ oanh kích vào trường Thiên Hựu, thì tại đây đã có những vụ xử
bắn rất rùng rợn. Số lượng người bị Việt cộng bắt giam trong
trường Thiên Hựu khoảng gần 400 người. Bọn chúng dùng 2 lớp học
vừa làm pháp trường đồng thời cũng là kho chứa xác. Hàng giờ,
bất kể ngày đêm, hàng loạt súng nổ trong hai phòng học đó. Tội
nhân bị dẫn đến căn phòng tràn ngập xác chết vừa tươi vừa thối
rữa. Thây người mới chồng chất lên thây người cũ mỗi ngày mỗi
cao, mỗi nhiều. Mùi tanh của máu tươi trộn lẫn mùi hôi thối dòi
bọ của xác chết đã sình thối. Cảnh tượng vừa ghê rợn vừa truyền
nhiễm, khó thấy nơi nào trên thế giới có cảnh tượng kinh hoàng
như thế. Ngay cả phòng hơi ngạt của Đức Quốc Xã cũng không có
cảnh vừa là pháp trường vừa là hầm mộ tích lũy như vậy. Có thể
nói trong lịch sử Việt Nam và trong lịch sử thế giới khó có một
cảnh giết người một cách rùng rợn và dơ bẩn kinh rợn đến thế.
Một trong những tù nhân quan trọng mà
bọn chúng bắt giữ là ông Bảo Lộc, Phó Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa
Thiên. Lực lượng công an của Nguyễn Đình Bảy đã đến bắt ông Phó
Tỉnh Trưởng tại tư dinh của ông trên đường Lý Thường Kiệt, đối
diện với Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ. Sau đó bọn chúng đem ông ta về
giữ tại trường Thiên Hựu, nơi đặt bộ chỉ huy an ninh của bọn
chúng.
Những
ngày gần thua trận, bọn chúng dẫn ông lên núi, theo dãy Trường
Sơn, thời gian đầu ông bị giam tại vùng núi giáp ranh Thừa
Thiên-Lào cùng với hai bạn tù là ông Hoàng Liên Nguyễn Văn Đãi,
Đại Biểu Chánh Phủ (Hành chánh) Vùng I, và một lãnh tụ Quốc Dân
Đảng của Thừa Thiên-Huế là Ông Tứ. Sáu tháng sau, cả 3 bị giải
ra Bắc, giam ở trại tù Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Đông (Hà Nội).
Sau nhiều lần di chuyển đổi trại, 1973 hiệp định đình chiến
Paris ký kết, cả ba ông được chuyển về Trại Ba Sao chờ ngày trao
trả tù dân sự, nhưng sau đó bọn chúng lại đổi ý định không trao
trả 3 ông cho chính phủ VNCH. Họ bị tiếp tục giam giữ mãi cho
đến 1980.
Điều đáng nói là, trong 12 năm tù tội từ 1968-1980 thì ông đã bị
biệt giam gần cả 12 năm.
Trong năm 1980 ông Bảo Lộc nhận được
điện tín: “Chị vừa mất”, bọn chúng cho phép ông xuất trại về Huế
dự đám tang. Có lẽ ông trời đã rủ lòng thương một chiến sĩ quốc
gia vì Tổ Quốc điêu linh mà phải trả một giá quá nặng cho một
đời người như ông Phó Tỉnh Bảo Lộc, nên trời đã che mắt bọn cộng
sản mà cho phép ông về Huế dự đám tang. Thật ra người qua đời là
phu nhân của Trung tá Bảo Định, anh ruột ông Bảo Lộc, trưởng
Phòng 4 Sư Đoàn I/BB. Gia đình Trung tá Bảo Định đã định cư tại
Hoa Kỳ từ năm 1975 chứ đâu còn ở Huế vào năm 1980. Sau khi có
mặt tại Huế, chỉ 3 ngày sau gia đình bí mật chuyển ông phó tỉnh
trưởng vào Sài Gòn. Tại Sài Gòn, với sự giúp đỡ của thân nhân và
bạn bè, vài tuần sau đó ông đã có mặt tại trại tỵ nạn ở
Indonesia...
Mấy tháng sau, ông đã đoàn tụ với phu nhân của ông và gia đình
người anh ruột là cựu Trung tá Bảo Định tại thành phố San Diego
nam California Hoa Kỳ. Ông mất tháng 5/2006. Gần một năm sau thì
phu nhân Bảo Lộc đã nối gót theo ông.
Tại trường trung học Kiểu Mẫu, ngay
tối ngày Mùng 2 Tết, rạng ngày Mùng 3, một số đồng bào quanh
vùng Đội Cung, Hàng Me, Chợ Cống, và vùng trường trung học
Nguyễn Tri Phương rời khỏi nhà chạy đến trú ẩn tại đó. Và cứ như
thế mỗi ngày dân chúng kéo đến đây tỵ nạn mỗi ngày mỗi tăng, con
số đã lên trên hai ngàn đồng bào trong khu vực nhỏ bé này.
Tôi điều động hai trung đội Cảnh Sát
Dã Chiến bảo vệ an ninh cho số đồng bào ở tại đây. Cộng quân
cũng đã tấn công 3 lần vào địa điểm này nhưng đã bị lực lượng
Cảnh Sát Dã Chiến đẩy lui. Trường trung học Kiểu Mẫu nằm bên này
bờ sông Hương đối diện với chợ Đông Ba bên kia bờ sông Hương,
nên ngày cũng như đêm Cộng quân đặt súng cối pháo kích từ bên
chợ Đông Ba pháo sang, gây nhiều thương vong cho đồng bào trong
trại tỵ nạn.
Tôi còn nhớ vào buổi sáng ngày Mùng 7 Tết, tôi đang đứng nói
chuyện với ông chủ tiệm sách Nam Hưng tại ngay sân trường Trung
học Kiểu Mẫu thì Cộng quân bắt đầu pháo, quả đạn đầu tiên rơi
ngay gần chỗ ông ta và tôi đứng. Tôi may mắn chỉ bị mảnh đạn nhỏ
làm rách áo giáp phía trước ngực, nhưng ông chủ tiệm sách không
may mắn như tôi. Thật tội nghiệp, một mảnh đạn súng cối đã xé
tan bụng, ông ta chết ngay chẳng nói được lời nào.
Điểm lại một số tội ác trời không dung
đất không tha của bọn cộng sản, chúng ta thấy đối với các trẻ
thơ Miền Nam trong các trường tiểu học Cai Lậy, Qui Nhơn chúng
cũng không tha, pháo kích và ném lựu đạn gây thương vong cho
hàng trăm trẻ thơ, nay đồng bào khốn khổ trong trại tỵ nạn Kiểu
Mẫu chúng cũng không từ, tội ác vô lương tâm này biết bao giờ
bọn cộng sản mới rửa cho sạch?
Quận II (Tả Ngạn) Thị xã Huế là nơi mà
cộng quân tàn sát dân lành vô tội nhiều nhất. Quận II với địa
thế bao bọc bởi dòng sông Hương, mặt tiền từ cầu Bạch Hổ về đến
vùng chợ Đông Ba, Gia Hội, Thế Lại, Bãi Dâu, Phú Mậu. Vùng phía
tây và tây bắc được bao bọc bởi sông đào vùng An Hòa và dãy
trường thành của Hoàng Cung. Dân số Quận II rất đông vì là trung
tâm thương mại của thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên. Dân đông,
đất chật, địa thế bị chướng ngại bởi sông và Hoàng Thành ngăn
chận, vì vậy khi cộng quân tiến vào Quận II thì quả thật dân
chúng đã như nằm trong chiếc lưới cá của bọn chúng rồi, chạy đi
đâu thì cũng nằm trong chiếc lưới mà thôi.
Ngoài một số dân chúng làm thương mại,
đại đa số cư dân trong vùng là công chức, quân nhân, cảnh sát,
cán bộ chính quyền, họ không có nơi an toàn để ẩn nấp hoặc trốn
tránh nên hầu như tất cả đều trốn ở nhà. Nhờ có đám chỉ điểm,
đoàn An Ninh Bảo Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc
Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Thị Đoan Trinh, tên thợ nề
Nguyễn Văn Bé, chủ tịch Khu Phố của chính quyền Cách Mạng mới
thành lập, tên thầy bói Diệu Linh, tên Gù bán thuốc cẩm lệ, v.v.
tất cả bọn chúng giở danh sách, đi từng nhà tìm kiếm, lục soát
bắt người hằng loạt. Bắt được, chúng đem ra xử bắn ngay tại chỗ,
hoặc đem đi chôn sống. Xin nêu ra một vài trường hợp điển hình
hành động giết người man rợ của bọn này:
Cái chết của Thiếu tá Từ Tôn Kháng.
Ông là Tỉnh Đoàn Trưởng Xây Dựng Nông Thôn. Nhà của Thiếu tá Từ
Tôn Kháng ở trên đường Bạch Đằng gần cầu Đông Ba. Toán An Ninh
và Bảo Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân sau khi bao vây nhà xong
bọn chúng lôi hết vợ con Thiếu tá Từ Tôn Kháng ra đứng ngoài sân
và kêu gọi Thiếu tá Kháng phải ra nộp mình cho bọn chúng ngay,
bằng không bọn chúng sẽ tàn sát hết vợ con của ông ta. Thiếu tá
Kháng trốn trong nhà sợ vợ con bị chúng bắn chết nên phải ra nộp
mình.
Bọn
chúng trói ông lại bắt đầu tra tấn xẻo tai và cắt mũi ông ta,
cuối cùng kết liễu đời ông bằng một loạt đạn AK.
Nhiều nhân chứng nhận diện sau này
tường thuật với Thiếu úy Nguyễn Trọng, Trưởng Ban Cảnh Sát Đặc
Biệt Quận II Thị xã Huế rằng: Họ nhận diện trong toán bắt bớ,
tra tấn, xẻo thịt, và hành quyết Thiếu tá Từ Tôn Kháng có:
Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Thị Đoan Trinh, tên
Nguyễn Bé thợ nề, trưởng khu phố, tên thầy bói Diệu Linh, và tên
Gù cùng một số khác nữa. Hành động này của các tên Phan, Trinh,
Diệu Linh, Bé, Gù có khác gì bọn Polpot Khmer đỏ?
Điều đáng nói ở đây là trong danh sách
khát máu trên có tên một đàn bà, Nguyễn Thị Đoan Trinh. Hành
động cắt tai xẻo mũi Thiếu tá Từ Tôn Kháng của y thị y hệt hành
động của Lã Hậu đốt tai xẻo mũi Thích Phu Nhân, Thứ Phi của Lưu
Bang, quả là lịch sử có một không hai. Cho đến Mậu Thân 1968 thì
rõ ràng Nguyễn Thị Đoan Trinh tàn ác cũng không thua gì Lã Hậu.
Tại đường Chi Lăng, bọn chúng bắt hai
ông Trần Văn Cư, Phó Giám Đốc CSQG Vùng I, và ông Lê Văn Phú,
nguyên Trưởng Phòng Hành Chánh ty Công An Thừa Thiên VNCH, thời
điểm đó Ông Lê Văn Phú là Quận Trưởng Quận II Thị xã Huế. Cả hai
đều bị bắn chết và chôn ngay trên đường gần nhà.
Ông Vĩnh, sĩ quan CSQG, bị bọn chúng
bắn ngay tại nhà ở đường Võ Tánh.
Ông Dự, Trưởng Ty CSQG tỉnh Ninh
Thuận(?) về thăm gia đình tại đường Chi Lăng cũng bị bắn chết
tại nhà.
Ông
Hồ Đắc Cam, nhân viên nhà máy phát điện Kho Rèn, bị bắt và cũng
bị bắn ngay tại nhà.
Trần Văn Nớp, phụ tá trưởng phòng hành
chánh BCH/CSQG Thừa Thiên, cũng bị bắn tại nhà.
Ông chồng bà bún bò Mụ Rớt là một nhân
viên cảnh sát đã ra trình diện bọn chúng, nhưng chúng không tha,
xử tử hình ngay.
Danh sách những người bị bắt và bị
hành hình có đến trên 800 người thuộc Quận II trong giai đoạn I,
kể sao cho hết?
Tôi xin tạm dừng ngay đây.
Về Quận I, tức Quận Thành Nội Thị xã
Huế.
Ngay giờ
đầu của cuộc tấn công, cộng quân đã chiếm toàn bộ quận Thành
Nội, ngoại trừ khu Mang Cá nơi đặt Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh
của Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, khu vực Tàn Thơ, khu Hồ Tịnh
Tâm.
Các khu
khác như Tây Linh, Tây Lộc, phi trường Tây Lộc, dọc đường Cường
Để đến trường Trần Cao Vân, khu Hòa Bình Đại Nội, Kỳ Đài, qua
cửa Thượng Tứ, khu tòa án, ngã tư Anh Danh ra đến cửa Đông Ba,
tất cả đều lọt vào tay cộng quân. Cộng quân chiếm một khu vực
quá rộng như vậy nên bọn Công An Khu ủy Trị-Thiên, Công An Tỉnh
Thị ủy Thừa Thiên-Huế phối hợp với các toán An Ninh và Bảo Vệ
Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Thị
Đoan Trinh, Nguyễn Đóa (Cha của Nguyễn Thị Đoan Trinh), Tôn Thất
Dương Tiềm, Hoàng Văn Giàu, Nguyễn Thiết, cùng với đám cơ sở nằm
vùng, và những kẻ chỉ điểm đã gây kinh hoàng chết chóc cho đồng
bào quận Thành Nội trong suốt 22 ngày. Số nạn nhân bị bọn này
giết chết trong giai đoạn I, theo thống kê của Cảnh Sát Đặc Biệt
Quận Thành Nội cho biết khoảng gần 700 nạn nhân.
Sau này ty CSQG đã lấy được rất nhiều
lời khai của rất nhiều nhân chứng chứng kiến nhiều vụ xử bắn
trong Quận I. Xin đơn cử một vài trường hợp giết người man rợ và
tàn bạo của bọn chúng như sau:
Một vụ xử bắn xảy ra trong khu vực
Quận Thành Nội mà mọi người dân Huế đều biết, nay nhắc lại mọi
người vẫn còn kinh tởm.
Đó là vụ Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn
Thiết, Nguyễn Thị Đoan Trinh xử bắn Trần Mậu Tý và chồng của bà
thương gia Nội gần cửa Đông Ba vào sáng ngày mồng 2 Tết Mậu Thân
1968.
Trong
giới học sinh, sinh viên, và những ai đã từng tham gia phong
trào Phản Loạn Miền Trung vào mùa xuân, hè năm 1966 ai cũng biết
đến các đoàn Sinh Viên Quyết Tử do Nguyễn Đắc Xuân thành lập và
chỉ huy. Lực lượng này có 3 đại đội, một trong những đại đội
trưởng của đoàn Sinh Viên quyết tử này là Trần Mậu Tý, bạn chí
thân của Nguyễn Đắc Xuân. Khi Nguyễn Đắc Xuân được lệnh tên thủ
lãnh phong trào phản loạn Miền Trung Thích Trí Quang đem lực
lượng sinh viên quyết tử tăng viện cho lực lượng phản loạn và
chùa Tỉnh Hội tại Đà Nẵng, Nguyễn Đắc Xuân đã đem đại đội của
Trần Mậu Tý theo, xem như là đại đội chủ lực của Nguyễn Đắc
Xuân. Nguyễn Đắc Xuân và Trần Mậu Tý là đôi bạn chí thân tương
đắc, giới sinh viên quyết tử của Nguyễn Đắc Xuân thường gọi hai
người này là “cặp bài trùng”.
Vào cuối tháng 6/1966 khi phong trào
phản loạn của sư hổ mang Thích Trí Quang bị chính phủ trung ương
dẹp tan, Nguyễn Đắc Xuân từ chùa Ông sau lưng Chùa Diệu Đế chạy
trốn lên Chùa Tường Vân đợi giao liên Thành ủy của điệp viên
Trung tá Hoàng Kim Loan đến đưa lên mật khu, thì người vào ra
chùa Tường Vân để giúp đỡ tiếp xúc với Nguyễn Đắc Xuân về mọi
mặt không một ai khác hơn là Trần Mậu Tý. Chỉ có Trần Mậu Tý mới
có thể vượt vòng vây của CSQG Thừa Thiên-Huế để vào Chùa Tường
Vân tiếp xúc với Nguyễn Đắc Xuân được. Cho đến tháng 7/1966 khi
giao liên của Thành ủy đến chùa Tường Vân đưa Nguyễn Đắc Xuân
lên mật khu thì cũng có Trần Mậu Tý tháp tùng.
Tình sâu nghĩa nặng như thế, vậy mà
ngay sáng ngày Mùng 2 Tết Mậu Thân, khi trận tấn công mới bắt
đầu thì công tác đầu tiên của đoàn An Ninh và Bảo Vệ Khu phố của
Nguyễn Đắc Xuân là phải bắt cho được Trần Mậu Tý, và... Trần Mậu
Tý đã sa lưới Nguyễn Đắc Xuân. Theo như Nguyễn Đắc Xuân tuyên bố
ngay khi bắt được Trần Mậu Tý, tội của Trần Mậu Tý là: Đảng viên
đảng Đại Việt, tình nghi hợp tác với CIA.
Thế là Trần Mậu Tý bị trói tay cùng
với một thương gia tại đường Phan Bội Châu. Ông thương gia này
là chồng bà Nội, cũng bị tình nghi là đảng viên đảng Đại Việt.
Cả hai người bị Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn
Thiết đẩy đứng sát vào bờ tường gần cửa Đông Ba. Nguyễn Đắc Xuân
là người bắn loạt đạn AK đầu tiên vào người thằng bạn chí thân
của mình là Trần Mậu Tý. Kế tiếp y quay mũi súng bắn vào ông
thương gia tên Nội. Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Thiết bồi thêm
hai băng AK vào thi thể Trần Mậu Tý và ông Nội đang nằm gục nơi
góc tường thành. Máu hai người tuôn ra xối xả trước sự chứng
kiến của nhiều đồng bào và vợ của ông Nội.
Anh Trần Mậu Tý là con trai độc nhất
của Tri Phủ Trần Mậu Trinh, một người nổi tiếng chống cộng triệt
để. Anh Trần Mậu Tý là sinh viên Đại Học Huế trong thời gian
phong trào phản loạn 1966 của Thích Trí Quang.
Về mặt tình cảm, vì cộng tác bên nhau
rất lâu nên Trần Mậu Tý thật sự có cảm tình riêng với Nguyễn Đắc
Xuân, đối đãi với Nguyễn Đắc Xuân rất chí tình. Thế nhưng kẻ
xung phong xả băng đạn đầu tiên để giết người bạn thân tử tế với
mình như bát nước đầy lại là Nguyễn Đắc Xuân. Thế thì, theo lẽ
thường tình, Nguyễn Đắc Xuân còn có tư cách gì mà viết chuyện
nhân nghĩa ở đời? Đã vậy ngày hôm nay đây y còn lại tự xưng là
nhà Huế Học? Nguyễn Đắc Xuân học gì ở Huế và dạy gì về Huế?
Ngoài một thành tích giết người, giết bằng hữu không gớm tay?
Đất trời nào dung dưỡng cho tên vô nghì Nguyễn Đắc Xuân này?
Trong đám đồ tể tàn sát đồng bào Huế,
cần phải nói đi nói lại về tên ma nữ giết người rất tàn bạo, say
máu đồng loại y như loài quỷ dữ cần phải có mùi tanh của máu
người thì thị mới có thể thở, mới có thể sống đó là Ma Nữ Nguyễn
Thị Đoan Trinh.
Ma Nữ Nguyễn Thị Đoan Trinh là sinh
viên Dược Khoa Đại Học Sài Gòn, trước Tết Mậu Thân y thị được
cha là Nguyễn Đóa gọi về Huế để tham gia tắm máu Huế.
Nguyễn Đóa và Tôn Thất Dương Tiềm, con
rể của Nguyễn Đóa, là cán bộ nội thành hoạt động cho cộng sản từ
trước 1954. Theo hồ sơ văn khố của BCH/CSQG Thừa Thiên Huế thì
Tôn Thất Dương Tiềm, Lý Kiều, Nguyễn Đóa đã từng hoạt động cho
Việt Minh và trong ngày đình chiến 1954, cả 3 đương sự từ vùng
Tỉnh Thanh Hóa thuộc liên khu 4 trở vào Huế. Nguyễn Đóa làm giám
thị trường Quốc Học, sau là giáo sư trường Bồ Đề, Tôn Thất Dương
Tiềm, Lý Kiều, giáo sư trường Trung học Bồ Đề. Cả 3 tái hoạt
động trở lại trong ban Trí Vận của cơ quan Thành ủy Huế, và đều
có chân trong phong trào Hòa Bình của Thích Trí Quang, bác sĩ Lê
Khắc Quyến, Tôn Thất Dương Kỵ.
Có lẽ Nguyễn Thị Đoan Trinh, con gái
của Nguyễn Đóa, có bản chất sát máu tàn bạo của Nguyễn Đóa từ
khi y thị còn nằm trong bụng mẹ, bởi vì nếu không, thì tại sao y
thị lại có hành động độc ác man rợ còn hơn loài thú dữ với đồng
bào hàng xóm láng giềng cùng nơi chôn nhau cắt rốn với mình? Y
thị tên là Đoan Trinh nhưng tên lại trái ngược với người, hành
động của y thị là của đám man rợ côn đồ khát máu.
Trong suốt thời gian 22 ngày cộng quân
chiếm Huế, Ma Nữ Nguyễn Thị Đoan Trinh với bộ đồ màu hồng, vai
mang AK 47, lưng mang súng lục, cỡi xe Honda tảo thanh khắp cùng
đường phố, từ đường nhỏ đến đường lớn, lùng sục từ quận Thành
Nội ra đến Quận II tức Tả Ngạn, sang đến Quận III tức Hữu Ngạn,
và ngay cả những vùng giáp ranh thành phố, để bắt bọn “Ngụy
quân, Ngụy quyền, Công An, Cảnh Sát Ngụy ác ôn”. Gặp ai thị cũng
hỏi giấy tờ tùy thân, nếu đúng là những thành phần quân nhân,
công chức, cán bộ chính quyền, cảnh sát quốc gia, y thị không
cần hỏi câu thứ hai mà nổ súng bắn chết ngay.
Rất nhiều đồng bào trong các vùng trên
là nhân chứng hành động sát nhân tàn bạo của y thị. Điển hình là
những vụ giết người tàn bạo dưới đây:
Tại đường Cường Để thuộc vùng Tây Lộc,
anh Võ Văn Tửu là phó Thẩm Sát Viên Cảnh sát, đồn trưởng đồn
Cảnh Sát Ga, đêm Mùng 2 Tết khi Việt Cộng tấn công, anh Tửu bị
kẹt tại nhà. Anh trốn tránh từ nhà này sang nhà kia đâu được 7
ngày, qua ngày thứ 8 đang di tản với gia đình thì Ma Nữ Nguyễn
Thị Đoan Trinh bất thần xuất hiện, không cần hỏi giấy tờ mà chỉ
hỏi: - Ông Tửu Đồn Trưởng đồn Cảnh Sát Ga phải không? - Dạ phải.
Lập tức một loạt AK nổ dòn, ông Võ Văn
Tửu gục ngã trước sự bàng hoàng, kinh hãi ngơ ngác của vợ con.
Nữ Ma đầu Nguyễn Thị Đoan Trinh lên xe rồ máy chạy xem như
chuyện bình thường.
Một trường hợp điển hình thứ hai, Ma
Nữ Nguyễn Thị Đoan Trinh giết người tại đường Hàm Nghi vùng giáp
ranh Quận III, làng Phủ Cam thuộc Quận Hương Thủy. Bà Thái Hòa
vào Mậu Thân 1968 là Sinh Viên Trường Nữ Cán Sự Điều Dưỡng Huế.
Bà Thái Hòa có ba người anh:
Nguyễn Xuân Kính sinh viên Y Khoa
Nguyễn Xuân Lộc sinh viên Luật Khoa và
Nguyễn Thanh Hải sinh viên Văn Khoa.
Nguyễn Thanh Hải bị Hoàng Phủ Ngọc
Phan bắn chết ngay tại giảng đường của trường Văn Khoa. Trước đó
Nguyễn Thanh Hải và Văn (sinh viên Văn Khoa, bạn của Hải) chạy
từ đại học Văn Khoa sang Đại Học Y Khoa để trốn trong phòng thí
nghiệm thì bị Hoàng Phủ Ngọc Phan phát giác, bắt Văn và Hải chạy
trở về Văn Khoa để tải thương, nhưng khi vừa đến giảng đường Văn
Khoa thì bắn ngay Hải. Văn trốn thoát nhờ đang đi vào phòng vệ
sinh. Ngay sau đó có tiếng nổ lớn nên bọn Phan và Trinh liền
phóng xe chạy mất. Vì vậy mà Văn tạm thoát chết lúc đó. Hai
người anh kia là Nguyễn Xuân Lộc và Nguyễn Xuân Kính đang trốn
tại nhà. Hoàng Phủ Ngọc Phan và Ma Nữ Nguyễn Thị Đoan Trinh bắt
bà Thái Hòa và Văn dẫn Phan và Ma Nữ Nguyễn Thị Đoan Trinh về
nhà bà Thái Hòa tại số 24 đường Hàm Nghi, giáp ranh Quận III và
làng Phủ Cam để tìm hai người anh của bà Hòa. Tại đây Ma Nữ Đoan
Trinh và Hoàng Phủ Ngọc Phan dùng bà Hòa làm áp lực buộc hai
người anh ruột là Kính và Lộc đang trốn trên trần nhà phải xuống
trình diện bọn chúng, nếu không thì bọn chúng sẽ bắn bà Hòa. Vì
sợ bọn chúng bắn chết em gái mình, Kính và Lộc từ trần nhà tuột
xuống chân chưa chạm đất đã bị Phan và Ma Nữ Đoan Trinh nổ súng
hạ sát ngay. Ông Nội của hai người này là ông Nguyễn Tín, 70
tuổi, thấy hai cháu nội của mình bị bắn chết trước mắt, mất bình
tĩnh kêu gào chửi bới Hoàng Phủ Ngọc Phan và Ma Nữ Nguyễn Thị
Đoan Trinh, liền bị Phan quay mũi súng AK bắn một loạt đạn vào
người ông Nguyễn Tín. Ông Tín ngã xuống chết tức tưởi. Sau đó
Văn, bạn học của Lộc và Hải xin phép Phan và Trinh được chôn xác
bốn ông cháu ở vườn sau, Phan và Trinh nhất quyết không cho. Mãi
đến khi xác chết bốc mùi thối rồi chúng mới đồng ý cho Văn đào
hố chôn 3 bạn mình Kính, Hải và Lộc và ông Tín. Khi hố chôn vừa
đào xong, thây người vừa bỏ xuống thì bà Thái Hòa nghe tiếng
súng nổ sau vườn. Bọn Phan và Trinh đã bắn luôn Văn và đạp luôn
xuống hố chôn luôn. Thế là 4 người bạn của họ đã chết chung một
nấm mồ.
Như
vậy bà Thái Hòa đã chứng kiến cả thảy 5 cái chết của người thân
và bạn mình do chính Hoàng Phủ Ngọc Phan, và Ma Nữ Nguyễn Thị
Đoan Trinh là thủ phạm.
Những hành động giết người trên đây
của Nguyễn Thị Đoan Trinh, cặp đôi với Hoàng Phủ Ngọc Phan tham
gia cắt tai xẻo mũi Thiếu tá Từ Tôn Kháng chứng minh Nguyễn Thị
Đoan Trinh có thể dẫn đầu trong danh sách đàn bà độc ác nhất của
lịch sử Việt Nam và có thể sánh ngang hàng với sự độc ác của
những người đàn bà khác trên thế giới như Lã Hậu, Từ Hy, Võ Tắc
Thiên.
Liên Thành
Bài số 3
NGUYỄN
THỊ THÁI HÒA, NHÂN CHỨNG, NẠN NHÂN,
TỐ
CÁO TỘI ÁC QUỶ ĐỎ HỒ CHÍ MINH VÀ
ĐẢNG
CƯỚP CỘNG SẢN VIỆT NAM
VÀO MẬU THẤN
1968 TẠI HUẾ
Cần lưu ý với ba ông:
Nguyễn Phú Trọng, Trần Đại Quang, Nguyễn xuân
Phúc
Đối với luật pháp quốc tế,
Mọi hành
động bắt cóc, ám sát, như việc các ông đã sai đám công an đặc
công sang Đức để bắt cóc tên Trịnh Xuân Thanh là một hành động
thiếu văn minh, mọi rợ, hoàn toàn không hiểu biết về luật pháp
quốc tế.
Bà
Nguyễn Thị Thái Hòa là một nhân chứng trước phiên tòa quốc tế xử
tội ác chiến tranh và tội ác diệt chủng của Ác quỷ Hồ Chí Minh
và đảng cướp cộng sản Việt Nam do Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng
cộng sản Việt Nam đứng ra tố cáo và đệ nạp đơn kiện.
Nước Mỹ là một quốc gia Pháp trị. Luật
Pháp Hoa Kỳ xem đó là hành động khủng bố, của một tổ chức khủng
bố. Tuyệt đối sẽ bị luật pháp Hoa Kỳ chế tài nặng nề.
Bà Nguyễn thị Thái Hòa là một nhân
chứng, Là thân nhân của những nạn nhân đã bị tên ác quỷ Hồ Chí
Minh và đảng cướp cộng sản Việt Nam vô cớ sát hại trong Tết Mậu
Thân 1968 tại Huế. Bà đã tận mắt chứng kiến cảnh ông nội, hai
người anh và bạn bị những tên cộng sản Việt Nam khát máu, mất
nhân tính, sát hại một cách hãi hùng và man rợ.
Vì lẽ đó, nếu các ông có hành động bịt
miệng nhân chứng, Luật sư của Ủy Ban chúng tôi sẽ tố cáo hành
động đó trước dư luận Quốc Tế, trước Ủy Ban Tư Pháp Hạ Viện,
Thượng viện Hoa Kỳ và nộp đơn khởi tố các ông trước tòa án tối
cao pháp viện Hoa Kỳ về tội Khủng Bố.
Rõ chưa?
Liên Thành
***
Kính thưa Ông Liên Thành,
Tôi xin tường thuật lại chi tiết những
cái chết đau thương của ông nội tôi, ba người anh, cùng một
người bạn của họ, như là một nhân chứng còn sống sót sau tết Mậu
Thân, như là tiếng kêu oan cho gia đình tôi, cho linh hồn của
những người thân trong gia đình, gia tộc tôi cách riêng, và cho
những người dân Huế nói chung, thay cho tất cả những ai bị sát
hại trong tết Mậu Thân 1968 bây giờ còn kẹt lại Việt Nam không
có cơ hội để nói lên những oan khiên mà họ đã gánh chịu bởi Đảng
Việt Gian cộng sản, và bè lũ tay sai khát máu giết hại dân lành
vô tội như anh em Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh,
v.v.
Thưa
Ông,
Năm
1968, tôi đang là sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều
Dưỡng Huế. Ngoài những giờ học lý thuyết chung tại trường, bọn
sinh viên chúng tôi được chia thành nhiều toán. Mỗi toán từ 8
đến 10 người, luân phiên thực tập ở các trại bệnh trong Bệnh
Viện Trung Ương Huế.
Có những trại bệnh sinh viên thực tập
theo giờ hành chánh. Có một vài nơi như phòng cấp cứu, phòng
bệnh nội thương... thì giờ thực tập được chia làm ba ca, sáng,
chiều và đêm... Ca sáng từ 7giờ đến 2 giờ chiều, ca chiều từ 2
giờ đến 9 giờ tối, và ca đêm từ 9 giờ tối cho đến 7giờ sáng hôm
sau. Mỗi một nơi chúng tôi được thực tập từ 2 đến 3 tuần lễ.
Hai tuần trước tết, toán của tôi được
chia phiên thực tập ở phòng cấp cứu. Ngày mồng hai, tôi và hai
anh bạn vào ca đêm.
Tết năm nay ba tôi bận đi hành quân xa
không về kịp ăn tết.
Thường thì mấy anh em tôi năm nào cũng
vậy, đều phải về nhà ông bà nội từ trước ngày 30 tết, ở luôn cho
hết ngày mồng một, rồi sau đó mới được tự do đi chơi, thăm viếng
bạn bè...
Sau
bữa cơm tối mồng một tết, khoảng 8 giờ 30, Anh hai lấy xe Honda
của anh đưa tôi tới bệnh viện, và nói sáng mai anh sẽ đến đón.
Tối mồng một tết phòng cấp cứu hơi
vắng, chúng tôi, mấy anh sinh viên y khoa và hai người nhân viên
phòng cấp cứu nói đùa với nhau rằng hôm nay tụi mình... hên!
Chúng tôi mang một ít mứt bánh ra vừa ăn vừa nói chuyện, vừa
thay nhau thăm chừng những bệnh nhân mới nhập viện từ đêm qua
chưa được chuyển trại.
Nhưng qua nửa đêm thì bắt đầu nghe có
tiếng súng. Tiếng súng lớn, nhỏ, từ xa rồi mỗi lúc một gần.
Chúng tôi thốt giựt mình, băn khoăn nhìn nhau, hoang mang lo sợ.
Bầu không khí bắt đầu căng thẳng, mấy anh sinh viên y khoa thì
nghe ngóng bàn tán, thắc mắc không biết tiếng súng từ đâu vọng
lại...
Lúc
đầu chúng tôi tưởng là thành phố Huế và bệnh viện bị pháo kích,
nhưng không ngờ, chừng 3, 4 giờ sáng, bất thần không biết từ ngõ
ngách nào có chừng mười mấy người tràn vào phòng cấp cứu, họ
xưng "chúng tôi là quân giải phóng", đa số mặc áo quần đen, súng
mang vai, bị rết ngang hông. Họ bắt tất cả chúng tôi băng bó cho
một số người bị thương, đồng thời hò hét chia nhau lục soát, vơ
vét, và lấy đi một số thuốc men, bông băng, dụng cụ y khoa, v.v.
Họ lấy sạch không chừa lại một món nào, kể cả những bánh mứt
chúng tôi để trong phòng trực.
Trong lúc bọn họ đang tranh nhau lục
lọi, thì ầm một cái, một tiếng nổ rớt rất gần, đâu đó trong bệnh
viện, rồi tiếng thứ hai, thứ ba... rớt ngay con đường phía trước
cổng chính bệnh viện, kề phòng cấp cứu... Điện trong phòng cấp
cứu vụt tắt. Thừa lúc bọn chúng nhốn nháo kéo nhau đi, chúng tôi
mạnh ai nấy tìm đường chạy thoát thân.
Ra khỏi phòng cấp cứu tôi cắm đầu
chạy, tôi không định hướng được là mình đang chạy đi đâu. Súng
nổ tứ bề, cứ nằm xuống trốn đạn, rồi đứng lên chạy, cứ thế mà
chạy. Chạy bất kể tả hữu. Cho tới khi tôi đâm sầm vào một người,
định thần ngó lại mới biết đó là cha Trung, tuyên úy của bệnh
viện. Cha từ phía một trại bệnh nào đó tình cờ chạy về phía tôi.
Nét mặt cha cũng thất thần, đầy vẻ lo âu, nhận ra tôi, cha hỏi
“con ở mô chạy lại đây?” Tôi nói “từ phòng cấp cứu”. Vừa nói vừa
theo cha, chạy về phía nhà nguyện của bệnh viện và cũng là chỗ ở
thường ngày của cha. Đến đó thì đã có hai bà xơ dòng áo trắng và
vài người nữa không biết từ trại bệnh nào cũng chạy lại đây. Tôi
nhận ra trong số đó có xơ giám thị suốt trong sáu năm tôi nội
trú tại trường trung học Jeane d’ Arc.
Cha Trung quen biết ông nội và ba mạ
tôi, thỉnh thoảng ngài có ghé đến thăm ông nội nhà ở đường Hàm
Nghi, nên ngài biết tôi. Không biết chạy đi đâu nữa tôi ở lại đó
với cha, hai bà xơ, và mấy người nữa.
Bốn năm ngày liền chúng tôi chui rúc
trong nhà nguyện, không dám chạy ra ngoài và cũng không liên lạc
được với một ai từ những trại bệnh khác. Súng nổ tứ bề nên ai ở
thì cứ đâu ở đó.
Sau khi đám người xưng là “quân giải
phóng” ở Cấp Cứu kéo nhau đi, chúng tôi không gặp không thấy bọn
Việt Cộng nào nữa, hay chúng đang lẩn trốn trong những trại bệnh
khác thì tôi không biết.
Tới ngày thứ năm, ruột gan như lửa
đốt, không biết ông bà nội, mạ và mấy anh em tôi trên đường Hàm
Nghi ra sao. Tôi nói với cha Trung, cha ơi con muốn về nhà. Cha
bảo, không được, súng đạn tứ bề, nguy hiểm lắm, cứ ở đây với cha
và mấy xơ đi đã, khi mô có lính mình xuất hiện thì mới đi được.
Tôi hỏi, khi mô thì lính mình mới tới, cha nói không sớm thì
muộn họ cũng sẽ phản công thôi, cha nói như để trấn an tôi và
mọi người thôi chứ trên mặt cha thì vẫn đầy vẻ lo âu...
Không biết nghe tin từ đâu mà một
người trong nhóm nói người ta chạy vô ở trong nhà thờ Phủ Cam
đông lắm. Tôi nghe càng nóng lòng muốn chạy về nhà. Muốn đi phần
vì sốt ruột muốn gặp mạ với mấy anh em tôi, phần vì đói. Đã mấy
ngày không có gì ăn ngoài mấy ổ bánh mì cứng còng của Caritas
còn sót lại ở nhà nguyện chúng tôi chia nhau gặm... cầm hơi!
Tôi quyết định chạy về tìm gia đình.
Tôi liều. Trên người tôi chỉ có bộ đồ đồng phục dính đầy máu,
tôi chạy ra phía sau cổng bệnh viện, tìm đường về nhà. Vừa chạy
vừa lo, ngó tới, ngó lui không một bóng người, nhưng tiếng súng
thì nghe rất gần. Không biết mấy lần vấp, tôi té xuống. Té rồi
lồm cồm bò dậy, vài bước lại vấp té. Tôi lạnh run, hai hàm răng
đánh bò cạp, nhìn cảnh tượng xác người nằm đây đó, máu me đóng
vũng, không biết họ bị thương đâu đó ở bên ngoài chạy vào gục
chết ở đây. Quá sợ hãi, tôi định chạy trở lại nhà nguyện thì bất
thần thấy anh Văn hớt ha hớt hải từ cổng sau bệnh viện chạy vô.
Văn là bạn của anh Hải, anh kế tôi,
hai người cùng học ở Văn Khoa. Nhà Văn ở miệt trên, gần dòng
Thiên An. Mặt mày Văn xanh xao, hai mắt thất thần, trủm lơ, gặp
tôi Văn lắp bắp, nói không ra hơi. Ti ơi thằng Hải bị bắn chết
rồi. Hắn bị bắn ở bên Văn Khoa.
Toàn thân run rẩy, tôi khuỵu xuống.
Văn đỡ tôi đứng lên. Lại có tiếng nổ rất gần. Văn hoảng hốt kéo
tôi chạy lại ngồi xuống bên trong bức tường sát cánh cổng sau
bệnh viện. Hai đứa tôi run rẩy ngồi sát vào nhau.
Lát sau, tiếng được tiếng mất, anh lắp
bắp kể. Văn nói mấy đêm rồi Văn với mấy người anh của tôi trốn
đạn trong nhà thờ Chánh Tòa (nhà thờ Phủ Cam), nhưng rồi đêm qua
có mấy sinh viên của mình dắt một toán Việt Cộng vô nhà thờ đọc
một lô danh sách, họ lùa người đi đông lắm, không biết họ đưa đi
đâu. Văn kể một hơi mấy tên “sinh viên của mình” nhưng bây giờ
tôi không còn nhớ nổi. Khi đám người bị lùa đi, thân nhân của họ
khóc la thảm thiết.
Sau đó Văn, anh Hải cùng mấy người bạn
rủ nhau trốn ra khỏi nhà thờ và mạnh ai nấy tìm đường trốn. Ra
khỏi nhà thờ, không biết trốn chui, trốn nhủi, chạy quanh, chạy
co, làm sao mà Văn với anh Hải lại tới được trường y khoa. Anh
Lộc, anh Kính đi lạc hướng nào không biết. Hai anh hè nhau chui
vô phòng thí nghiêm trốn thì thấy có vài người đã bị bắn chết từ
bao giờ mà những vũng máu đọng dưới họ còn tươi lắm. Văn và anh
Hải hoảng hồn chạy trở ra. Chưa ra khỏi cửa thì gặp Hoàng Phủ
Ngọc Phan và Nguyễn thị Đoan Trinh cùng mấy sinh viên khác nữa
Văn không biết tên, chỉ biết họ đồng bọn với Hoàng Phủ Ngọc
Phan. Văn biết mặt Phan là vì Văn có người anh học y khoa cùng
lớp với Phan.
Gặp Văn, Phan nạt nộ, tụi mi chạy trốn
đi mô? Khôn hồn thì chạy qua bên Văn Khoa tập trung ở đó để đi
tải thương! Hải và Văn biết không thể nào thoát khỏi sự kiểm
soát của bọn Hoàng Phủ Ngọc Phan nên vội vàng chạy bộ xuống Văn
Khoa, hy vọng bị bắt đi tải thương chứ không bị giết.
Bọn Trinh, Phan chạy xe Honda nên họ
tới trước, và cũng đã bắn trước một số người khác rồi. Hải và
Văn không biết nên lúc thúc chạy đến. Anh Hải chạy vô trước,
nghĩ là sẽ gặp được một số bạn bè khác, cùng đi tải thương với
nhau như lời Hoàng Phủ Ngọc Phan nói.
Vừa vô tới giảng đường thì anh Hải bị
Hoàng Phủ Ngọc Phan bắn gục ngay.
Văn mắc đi cầu, tìm chỗ phóng uế nên
chạy vô sau anh Hải. Mới tới cửa thì nghe tiếng súng, tiếng hét
của anh Hải, Văn quay đầu bỏ chạy. Chưa kịp rượt theo Văn thì
bỗng ầm, một tiếng nổ đâu đó, trong sân trường đại học, khiến
Hoàng Phủ Ngọc Phan và đồng bọn hoảng hốt leo lên xe Honda tháo
chạy. Văn thoát chết, chạy như điên, như khùng, chạy vô bệnh
viện, và tình cờ gặp tôi trong đó.
Nghe anh Hải bị bắn trong sân đại học
Văn Khoa, tôi bỏ ý định về nhà, tôi muốn chạy qua Văn Khoa tìm
anh tôi, hy vọng anh chưa chết, tôi nghĩ sẽ tìm cách đưa anh vô
bệnh viện cấp cứu. Tôi khóc nói với Văn, em tới chỗ anh Hải. Văn
can, Ti đừng đi, tụi nó có thể trở lại.
Tôi mặc kệ Văn ngồi đó, vừa khóc vừa
chạy. Một lát nghe tiếng chân Văn sau lưng, miệng thì nói, Ti
ơi, vô bệnh viện trốn đi, Hải nó chết thiệt rồi, mà chân vẫn
bước theo tôi.
Tôi như người mất hồn, vừa đi, vừa
chạy, vừa khóc. Trời ơi, thật là khủng khiếp, chỉ một đoạn đường
từ cổng sau bệnh viện tới sân trường Văn Khoa mà không biết bao
nhiêu là xác người, áo quần vung vãi khắp nơi.
Chúng tôi chạy mới tới trường trung
học Jeane d’Arc, thì gặp bọn Hoàng Phủ Ngọc Phan lấp ló trước
cổng trường với một nhóm bộ đội Bắc Việt. Người nào mặt mày đằng
đằng sát khí. Gặp lại Phan, Văn run rẩy, Phan chưa kịp nói thì
Văn đã lắp bắp phân trần: em qua bệnh viện kiếm con Ti chớ em
không có trốn mô, và xin xỏ, anh cho em với con Ti đem xác thằng
Hải về nhà rồi em trở lại đi... tải thương!
Phan không trả lời Văn, hắn nhìn tôi
ác độc, mi về nhà kêu thằng Lộc, thằng Kính xuống đây mà đem
thằng Hải về.
Tôi líu lưỡi, em không biết hai anh em
ở mô mà kêu.
Trước đây tôi không hề biết mặt Hoàng Phủ Ngọc Phan, mà cũng
chưa hề nghe nói tới tên người này vì trước năm 68 tôi còn là
học sinh trung học. Có thể các người anh của tôi thì biết, vì họ
là những lớp sinh viên đàn anh, đã từng qua những khó khăn đối
đầu với đám sinh viên theo phe “tranh đấu, lên đường xuống
đường” của những năm trước.
Hoàng Phủ Ngọc Phan to nhỏ gì với
những người đồng bọn rồi quay lại ra lệnh cho tôi với anh Văn
đem xác anh Hải về nhà. Chưa biết nghĩ cách nào để đem xác anh
Hải về thì Văn thấy một chiếc xích-lô của ai bị bể bánh xe sau,
nằm chơ vơ cạnh vách tường trường Jeane d’Arc.
Văn gọi tôi theo anh. Chúng tôi đẩy
chiếc xích-lô sứt cọng gẫy càng về phía Văn Khoa. Có chừng 10
xác người trong đó. Tôi không dám nhìn lâu. Chúng tôi hè hụi
khiêng Hải bỏ lên xích-lô. Xác anh đã cứng, đùm ruột lòi ra
ngoài trông rất khủng khiếp, hai mắt vẫn còn mở trừng, miệng vẫn
còn há ra...
Hoàng Phủ Ngọc Phan vừa đánh anh Văn bằng báng súng vừa chửi.
Chuyến ni mi trốn nữa, mi gặp lại tau là mi chết! Văn run rẩy
lắp bắp, dạ lạy anh, em không dám nữa mô.
Rồi chúng tôi hè hụi đẩy chiếc xích-lô
mang xác người anh xấu số của tôi nhắm hướng cầu Kho Rèn đi lên.
Nhà tôi ở trên đường Hàm Nghi, qua
khỏi cầu một chút. Suốt quãng đường từ đó về đến nhà, có rất
nhiều đám lính bộ đội Bắc Việt đứng tụm năm, tụm ba. Chúng tôi
không bị bắt giữ lại vì có Hoàng Phủ Ngọc Phan chạy đi trước ra
dấu cho họ để cho chúng tôi đi.
Khúc đường ngang trường Thiên Hựu cũng
có rất nhiều xác người nằm rải rác. Nhiều vũng máu cũng như xác
người bị ruồi bu đen. Đã mấy ngày không có gì trong bụng, tôi
vừa đi vừa ói khan. Văn cũng vậy. Chúng tôi ráng sức đẩy chiếc
xích-lô, trong lúc Hoàng Phủ Ngọc Phan cùng hai người đàn bà nữa
cứ chạy xe đảo tới, đảo lui hối chúng tôi mau lên. Tôi nghe
chúng nó hỏi nhau, bên Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ còn ai nữa
không?
Có mấy
chiếc xe Honda chở gạo, bánh tét, đã tịch thu của nhà ai đó chạy
thẳng vô trường Thiên Hựu.
Lúc đó bỗng dưng có mấy chiếc trực
thăng xuất hiện trên trời nhả đạn xuống, Văn nói như reo bên tai
tôi, Ti ơi, máy bay của mình. Mừng chưa kịp no thì trời ơi, từ
những cửa sổ trên lầu của trường Thiên Hựu những họng súng lớn
nhỏ nhả đạn, nhắm hai chiếc trực thăng mà bắn, lúc đó chúng tôi
mới biết là Việt Cộng đang ở trong trường Thiên Hựu quá nhiều.
Hoảng hồn tôi, Văn chạy lại ngồi sụp xuống bên tường rào của
trường tránh đạn. Phan và đồng bọn biến đâu mất. Tụi nó như ma,
khi ẩn, khi hiện. Nhưng chỉ được một lát, hai chiếc trực thăng
bay đâu mất. Chúng tôi thất vọng, khi thấy Phan với đồng bọn lại
xuất hiện hối chúng tôi đi.
Lên tới cầu Kho Rèn, thấy một đám
người, đàn ông, đàn bà, con nít bị bắt trói chung với nhau ngồi
trên đầu cầu. Họ ngồi gục đầu xuống hai đầu gối. Tiếng con nít
khóc, tiếng mấy bà mẹ dỗ con, nín đi con ơi. Đi ngang qua họ mà
chúng tôi không dám nhìn. Có tiếng người trong đám gọi tôi Ti
ơi, quay lại tôi nhận ra chị giúp việc của mẹ tôi và vợ của một
chú cùng đơn vị với ba tôi ở Tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Tôi
đoán họ là những người từ trên Phủ Cam, chung quanh cầu Kho Rèn,
Hàm Nghi và những con đường chung quanh đó chạy xuống tìm đường
trốn lên Phú Lương thì bị bắt giữ.
Tôi định dừng lại hỏi thăm thì Hoàng
Phủ Ngọc Phan trờ xe tới nạt nộ “đi, mau ngó chi!”
Trên đoạn đường từ Văn Khoa ngang qua
trường Thiên Hựu, cầu Kho Rèn, lên tới nhà nội chúng tôi thấy
nhiều người bị trói dính chùm vào với nhau đi trước mấy người
mặc đồ đen đi dép râu, mang súng.
Súng nổ tứ bề mà sao không thấy bóng
dáng lính mình ở đâu cả. Chỉ thấy lính bộ đội Bắc Việt khắp nơi.
Trên đường Hàm Nghi, Nguyễn thị Đoan
Trinh chạy ngang nhà nào mà y thị gật đầu là y như rằng trong
nhà đó có người bị bắt đem ra, người thì bị bắn tại trước nhà,
người thì bị dắt đi, mấy ông bà cụ trong nhà chạy theo nằm lăn
ra đường khóc la thảm thiết... Bọn lính Bắc thì cứ chửi thề luôn
miệng, "đéo mẹ câm mồm, ông bắn bỏ mẹ bây giờ..."
Hai chúng tôi cứ nghiến răng, cúi mặt,
lầm lũi đẩy chiếc xích-lô mang xác Hải đi tới.
Khi gần tới nhà tôi ở số 24 đường Hàm
Nghi thì Hoàng Phủ Ngọc Phan và con hồ ly Trinh rà xe lại gần
bảo tôi, “không được đẩy vô nhà mi. Đẩy lên trên tê!”
Đẩy lên trên tê, tôi hiểu đây là đẩy
lên nhà ông bà nội tôi. Cũng trên đường Hàm Nghi nhưng nhà nội
tôi ở trên dốc, hướng đi lên Phủ Cam. Nhà ba mạ tôi thì ở gần
cầu Kho Rèn.
Tôi cũng không hề biết mặt Nguyễn thị Đoan Trinh trước đó. Trong
hoàn cảnh này tôi mới biết mặt y thị là nhờ anh Văn nói. Tội
nghiệp anh Văn, cứ tưởng khi Hoàng Phủ Ngọc Phan biểu cùng tôi
đẩy xác anh Hải về là được tha chết. Anh Văn và tôi cũng không
ngờ rằng đoạn đường từ Văn Khoa lên tới nhà nội trên đường Hàm
Nghi là đoạn đường sau cùng chúng tôi đi chung với nhau trong
cuộc đời này.
Lên tới nhà nội, chúng tôi đẩy Hải vô
bên trong hàng rào chè tàu, bỏ Hải ngoài sân tôi với Văn chạy
vào nhà, nhà vắng ngắt, đi từ trước ra sau bếp gọi ông ơi, mệ
ơi. Nghe tiếng ông nội yếu ớt từ trong buồng vọng ra, ai đó, đứa
mô đó? Con đây, ông nội.
Nghe tiếng tôi, ông tôi hấp tấp chạy
ra, bước chân xiêu xiêu, ông tôi chạy lại ôm tôi, ông khóc, ông
nói, lạy Chúa lạy Mẹ cháu tui còn sống. Tôi không khóc được, tôi
run rẩy trong tay ông nội. Ông tưởng tôi sợ nên an ủi, con còn
sống mà về được đây là phúc lắm rồi, ở đây với ông nội, không
can chi mô! Nghe nói mạ mi đưa ba thằng em mi chạy lên Phú Lương
rồi, không biết đi tới mô rồi, có thoát được không? Lạy Chúa,
lạy Mẹ phù hộ.
Tôi không nói vì quá mệt, kéo tay ông
nội ra ngoài, thấy Văn ngồi bệt dưới nền nhà, ông hỏi, đứa mô
giống thằng Văn rứa bây? Văn òa khóc, tôi khóc theo, kéo ông nội
ra sân. Nhìn thấy xác Hải ông nội tôi khuỵu xuống, miệng thì kêu
trời ơi, trời ơi, răng mà ra nông nỗi ni...
Chúng tôi đem Hải vào nhà, đặt anh
trên divan. Ông nội lấy mền đắp lên xác Hải.
Hai người anh tôi đang trốn trên trần
nhà đòi xuống nhìn mặt Hải. Ông nội không cho. Anh Lộc giở nắp
trần nhà sát góc tường, thò đầu xuống vừa khóc vừa nói, Ti, đẩy
cái ghế đẩu qua cho anh.
Tôi nghe lời ra đằng sau bếp lấy cái
ghế đẩu mang lên để ngay góc phòng cho anh Lộc nhảy xuống. Ông
nội ngó lên, quơ quơ hai tay, giọng ông lạc đi, đừng xuống, ông
nội lạy con, đừng xuống, ở trên đó đi mà!...
Anh Kính đang ở trên đó, cũng đang
khóc. Lộc chưa kịp nhảy xuống thì nghe tiếng nói, tiếng chân
người ngoài sân. Anh vội vàng đóng miếng ván lại thì bọn Hoàng
Phủ Ngọc Phan cũng vừa vào đến.
Thấy Phan bước vô, mặt Văn biến sắc,
anh lắp bắp nói với ông nội, anh Phan cho tụi con đem xác về đó
ông ơi.
Ông
nội đứng im không nói.
Hai mắt cú vọ của nó ngó ông nội hỏi,
thằng Lộc, thằng Kính ở mô?
Ông nội nói tui không biết.
Phan gằn giọng, ông thiệt không biết
tụi hắn ở mô? Tụi hắn năm mô cũng về ăn tết ở đây mà ông không
biết răng được?
Ông nội nói, ba ngày tư ngày tết, ăn
xong thì tụi hắn đi chơi, đi thăm bà con họ hàng chứ chẳng lẽ ở
nhà hoài răng? Chừ thì tui biết tụi hắn ở nhà mô mà chỉ!
Mắt Phan ngó láo liên khắp nơi, chợt
thấy cái ghế đẩu ngay góc phòng, nó cười khan một tiếng.
Tôi đứng núp sau lưng ông nội.
Hoàng Phủ Ngọc Phan hung hăng bước
tới, xô ông nội qua một bên, nó nắm lấy tóc tôi kéo tôi ra về
phía hắn. Ngó lên trần nhà la lớn, Lộc, Kính, Hiệp, tụi mày
không xuống tau bắn con Ti!
Nó vừa nói, vừa xoáy mái tóc dài của
tôi trong tay, nó đẩy tới, đẩy lui. Tôi đau điếng, tôi sợ, tôi
run lẩy bẩy, nước mắt ứa ra nhưng không dám la thành tiếng. Ông
nội tôi chắp tay lạy nó như tế sao, tui lạy anh tha cháu tui,
con gái con lứa, hắn biết chi mô.
Thằng Phan càng la lớn, tau biết tụi
mi trên đó, có xuống không thì nói, tau bắn con Ti.
Phan xô tôi té xuống, lấy chân đạp lên
lưng. Chĩa mũi súng lên đầu tôi hô một, hai, ba...
Lập tức anh Lộc mở nắp trần nhà thò
đầu xuống la to, đừng, đừng bắn em tau, tau xuống, để tau
xuống...
Ông
nội tôi chạy lại giữ cái ghế cho anh bước xuống, hai chân ông
run, ông té sấp, đang lúc Anh Lộc tìm cách tuột xuống, thò hai
chân xuống trước, hai tay còn vịn trần nhà, khi đôi chân vừa
chạm chiếc ghế đẩu thì Hoàng Phủ Ngọc Phan đã nổ súng, đạn trúng
ngay chính giữa cổ, máu phọt ra, Lộc lăn xuống sàn nhà toàn thân
anh dẫy dụa mấy cái rồi nằm im.
Mặc ông nội tôi la hét thất thanh,
Phan chĩa súng bắn lên trần nhà, nghe tiếng anh Kính lăn tới
đâu, nó bắn tới đó, bắn nát trần nhà, hết đạn nó dành lấy cây
súng của một thằng khác bắn tiếp, cho tới khi anh Kính tôi rớt
xuống theo mấy miếng ván.
Anh Văn ngồi bệt xuống đất, nhắm mắt,
bịt tai, run lẩy bẩy, ngồi kề bên cạnh anh người tôi tê cóng,
đái ỉa ra cả quần.
Ông nội tôi nhào tới ôm anh Kính, hai
mắt trợn trừng, anh đang thều thào những lời sau cùng.
Ông khóc, ông chửi rủa thằng Phan, nó
say máu, bắn luôn ông nội tôi.
Ông tôi đổ xuống bên cạnh anh Kính.
Bắn ông tôi xong chúng kéo nhau đi,
bắt anh Văn theo.
Còn lại một mình, tôi bò lại ôm lấy
ông nội, tôi khóc không ra tiếng, tôi thở không ra hơi, hai bàn
tay tôi ướt đẫm máu, máu của ông nội tôi, tôi bò sang anh Lộc,
bò sang anh Kính, tôi lay, tôi gọi, tôi gào, không ai nghe tôi
hết, anh tôi không trả lời tôi, hai con mắt, bốn con mắt, sáu
con mắt đều mắt mở trừng, ông nội tôi nằm im, máu trong ngực ông
vẫn tuôn ra từng vòi. Tôi gục đầu xuống xác ông lịm đi.
Không biết bao lâu thì tôi tỉnh lại,
nhưng không ngồi dậy nổi. Cứ nằm ôm lấy xác ông nội. Tóc tôi bết
đầy máu, toàn thân tôi, máu, phân và nước tiểu đẫm ướt. Tôi
không còn sức để ngồi lên.
Không biết tôi nằm bên cạnh xác ông
tôi với ba người anh như vậy là bao lâu, khi tỉnh dậy thì thấy
hai vợ chồng bác Hậu, vài người lối xóm nữa của ông nội đang ở
trong nhà.
Họ
dọn dẹp, khiêng bộ ngựa trong nhà bếp ra trước phòng khách, đặt
xác ông nội cùng với ba người anh tôi nằm chung với nhau.
Hai bác gái đem tôi vào phòng tắm, phụ
nhau tắm rửa cho tôi như một đứa con nít, bác Hậu lấy áo quần
của bác mặc cho tôi. Tâm trí tôi hoàn toàn tê liệt. Tôi không
còn khóc được, không còn mở miệng nói được câu nào.
Ngày cũng như đêm ngồi rũ rượi bên
cạnh xác của ông tôi, các anh tôi. Tôi không còn sợ chết. Nhưng
sao tụi nó không giết luôn tôi? Trời hỡi, trời ơi!
Nhìn thấy tôi tiều tụy, mỗi ngày bác
Hậu gái khuấy cho tôi vài muỗng bột bích chi ép tôi uống. Thiệt
ra nhà nội cũng chẳng còn chi. Gạo cơm, bánh mứt thì bị tụi nó
khiêng đi hết rồi. Bác Hậu còn dấu được ít gạo, ít than nấu cháo
uống cầm hơi với nhau.
Ngày hôm sau thằng Phan trở lại. Bác
Hậu xin phép được chôn ông tôi và mấy người anh sau vườn nhà
nhưng nó không cho, nói cứ để đó.
Đã hơn bảy ngày, xác đã bắt đầu sình
lên và nặng mùi. Mà Phan không trở lại.
Một buổi tối tụi bộ đội Bắc Việt đến
lục lọi kiếm gạo. Bác Hậu xin chúng nó đào huyệt sau nhà để chôn
ông nội và ba người anh tôi. Chúng nó bảo ừ thối quá rồi thì
chôn đi, nhưng chỉ được đào một lỗ huyệt.
Vợ chồng bác Hậu khóc lóc năn nỉ, mấy
anh ơi, người chết rồi biết chi, anh cho tụi tui đào 4 huyệt.
Chúng không cho. Chúng nó phụ bác Hậu đào huyệt. Bảo đem cả bốn
người bỏ xuống chung một lỗ. Lấp lẹ đi, thối quá. Bác Hậu với
mấy người trong nhà không ai muốn làm, ngó nhau mà khóc...
Chiều tối hôm đó Văn trở lại với Phan
và mấy thằng bộ đội. Chúng nó bắt Văn phụ với mấy thằng bộ đội
khiêng từng người ra bỏ xuống huyệt.
Hai vợ chồng bác Hậu theo ra vườn. Tôi
kiệt sức nằm vùi một chỗ nhưng tai tôi vẫn nghe rõ những lời đối
thoại trong nhà. Tôi không đủ can đảm theo ra vườn chứng kiến
cảnh vùi lấp những người thân yêu của tôi. Nằm trong buồng ông
bà nội nhưng tôi nghe rõ từng tiếng cuốc xẻng đang đào đất. Tâm
trí tôi quay cuồng, ruột gan tôi đòi đoạn. Trời ở đâu, đất ở
đâu? Tôi gọi ông tôi, gọi anh Lộc, anh Kính, anh Hải, không ai
nghe tôi hết...
Khi bốn cái xác người được bỏ xuống,
miệng lỗ chưa được lấp, thì tôi nghe tiếng súng nổ, tiếng kêu
gào của vợ chồng bác Hậu, nhưng không nghe tiếng của Văn. Tiếng
bác Hậu kêu Văn ơi, Văn ơi giọng bác đòi đoạn, thì tôi biết
chuyện gì đã xảy ra cho Văn.
Toàn thân tôi lẩy bẩy, tôi cảm thấy
khó thở, một lần nữa phân và nước đái trong người tôi túa ra.
Tôi nghe tiếng mấy thằng bộ đội hò hét
bảo lấp đất lại. Bác Hậu và những người hàng xóm của nội tôi
đành phải làm theo. Khi tụi bộ đội VC bỏ đi, bác Hậu chạy vào
buồng vò đầu, bức tai, giọng tức tưởi, thằng Văn nằm chung với
ba thằng anh mi rồi con ơi! Trời ơi, là trời ơi, bác Hậu đấm
ngực, không biết thằng Văn đã chết chưa mà hắn bắt tui lấp. Văn
ơi là Văn ơi, con tha tội cho bác, trời ơi người mô mà ác như
rứa...
Tôi
lặng người, nghe bác Hậu khóc anh Văn.
Sau lần đó không đứa nào trong bọn
chúng trở lại, kể cả tụi bộ đội. Chắc nhà ông tôi chẳng còn
người để mà giết, chẳng còn của cải chi để mà cướp nữa.
Hơn hai mươi ngày, tôi nằm liệt lào
trong nhà nội. Bên ngoài súng đạn vẫn tứ bề.
Hai vợ chồng bác Hậu không nỡ bỏ tôi
lại một mình, trong lúc bác nghe ngóng và biết đa số dân Phủ Cam
đã tìm đường chạy thoát được xuống Phú Lương. Bác năn nỉ tôi
ráng ăn uống thêm một chút để có sức mà chạy, không lẽ con nằm
đây chờ chết? Con không muốn tìm mạ con răng?
Hôm sau nữa tôi theo gia đình bác Hậu
tìm đường chạy lên Phú Lương vì nghe nói lính Mỹ, lính mình đã
thấy xuất hiện chung quanh đây rồi. Đi xuống ngã cầu Kho Rèn thì
cầu đã bị sập, bác theo đoàn người đi hướng khác, tôi đi theo
như người mất hồn, họ đi đâu tôi theo đó, tôi không còn nhớ là
mình đã đi qua được những nơi đâu. Có điều tôi lấy làm lạ, trên
đường chạy giặc, mỗi khi đạn pháo bắn khắp nơi mà người ta cứ
gồng gánh nhau mà đi, không ai chịu dừng lại kiếm chỗ tránh đạn,
người ta nói với nhau, khi mô mà có mọc-chê hay đạn pháo chi đó
thì bọn VC chui vô nhà dân để trốn đạn, chúng nó không ra đường
để chặn bắt dân lại, vì vậy người ta cứ chạy bất kể, dưới lằn
mưa đạn người ta càng chạy đi đông hơn. Ôi những người dân tội
nghiệp của xứ Huế thà chết dưới bom đạn còn hơn để bị lọt vô tay
quân sát nhân ác độc.
Cuối cùng thì tôi cũng về đến được Phú
Lương gặp mạ và ba đứa em trai của tôi. Quá đau khổ, Mạ tôi bị
phát điên khi hay tin cái chết của ba người anh và ông nội. Ít
lâu sau ba tôi trở về sau một đợt hành quân nào đó của Tiểu đoàn
12 Pháo Binh Phú Bài. Thấy mạ tội như vậy, biết không thể trở
lại đường Hàm Nghi ông mướn nhà ở tạm tại Phú Lương.
Sau khi Huế được giải thoát. Ba tôi
nhờ bà con lối xóm cải táng Văn, ba người anh, và ông nội tôi.
Tang lễ được cử hành tại nhà thờ Phủ Cam do cha Nguyễn Phùng Tuệ
chủ tế. Gia đình anh Văn đồng ý cho anh Văn được nằm lại trong
miếng vườn nhà ông nội tôi cùng với ba người anh của tôi.
Ba tôi được giải ngũ khoảng giữa năm
69. Mạ tôi vẫn trong cơn điên loạn không thuyên giảm. Ba tôi
quyết định bỏ Huế đem hết gia đình vào Long Khánh sinh sống. Nhà
nội giao lại nhờ hai bác Hậu coi chừng. Nhà ở 24 Hàm Nghi (gần
đường rầy xe lửa) thì bán cho ai đó tôi không rõ.
Thưa ông Liên Thành,
Đó là những cái chết oan khiên của
những người ruột thịt thân yêu mà tôi phải chứng kiến tận mắt
với muôn ngàn đau đớn. Trong bà con thân tộc nội ngoại hai bên
của tôi có rất nhiều người bị bắt đi ở nhà thờ Phủ Cam, một số
bị bắt ở nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Số người bị chôn sống, mất
tích lên tới 70 người. Tất cả đều là học sinh, sinh viên, thường
dân, nông dân, buôn bán ở chợ An Cựu.
Sau Tết Mậu Thân, những người bà con
còn lại của tôi quá đau khổ, sợ hãi, họ đã âm thầm bỏ Huế, tản
mác khắp nơi, thay tên đổi họ mà sống...
Sau biến cố tháng 4 đen 75, gia đình
tôi lại là những nạn nhân của lũ Việt Gian cộng sản ác độc, vô
luân. Ba tôi và những đứa em trai còn lại cũng đã chết sau mười
mấy năm bị đày đọa trong lao tù cộng sản.
Đã 40 năm qua, những vết thương đó vẫn
còn tươi rói trong tôi. Nỗi đau mỗi ngày một đầy. Đó là những
cái chết oan khiên trong muôn ngàn cái oan khiên của người dân
Huế.
Tôi là
người con duy nhất trong gia đình còn sống sót sau tết Mậu Thân
cũng như sau những ngày mất nước. Nay viết lại những cái chết
thương tâm của những người Thân Yêu trong Gia đình tôi với tư
cách là một nhân chứng và nạn nhân, để tố cáo Tội Ác Của Việt
Gian cộng sản, có như thế, oan hồn của ông nội và anh em tôi mới
có thể siêu thoát.
Tôi sẵn sàng ra làm nhân chứng trước
tòa án quốc tế, cũng như xuất hiện trước các phương tiện truyền
thông khi cần thiết.
Xin trình ông tên tuổi ông nội
tôi, và của ba người anh bị sát hại:
Tên ông nội: Nguyễn Tín, 70
tuổi.
Ba người anh:
Nguyễn Xuân Kính, sinh viên y khoa,
sinh năm 1942
Nguyễn Xuân Lộc, sinh
viên luật, sinh năm 1946
Nguyễn Thanh
Hải, sinh viên Văn Khoa, sinh năm 1949
Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn Khoa, bạn của anh Hải tôi.
Maryland, USA. Ngày 15/2/2013
Nguyễn thị Thái Hòa
Bài số 4
NHỮNG
KẺ SÁT NHÂN CHỐI TỘI
ĐẠI TÁ CỘNG SẢN
BÙI TÍN
LÊ VĂN HẢO
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN
NGUYỄN THỊ ĐOAN
TRINH
1. ĐẠI TÁ CỘNG SẢN BÙI TÍN
Ngày 24/1/2008, trong cuộc phỏng vấn
trên đài BBC, cựu Đại tá cộng sản Bùi Tín, cựu Phó Tổng Biên Tập
báo Quân Đội Nhân Dân năm 1968, một đảng viên thuộc loại trung
kiên lâu năm lâu đời, có thể là trá hồi chánh? nằm vùng trong
cộng đồng Người Việt Quốc Gia tại hải ngoại? hiện đang sống tại
Pháp lên tiếng bênh vực và chối tội cho Đảng, Bác, và Quân đội
Nhân Dân của y trong vụ tàn sát tập thể đồng bào Huế vào Tết Mậu
Thân 1968, vì toàn bộ đảng cộng sản này đã nhúng tay vào Tội Ác
Chiến Tranh và tội diệt chủng dân tộc Việt Nam.
Cựu Đại tá Bùi Tín đã đổi trắng thay
đen:
- “Khi
mở cuộc tiến công vào Huế, bộ đội miền Bắc đã cơ bản chiếm được
thành phố Huế vào đêm 4 tháng 2, ngay lúc ấy đã có 5 ngàn Sĩ
quan, quân nhân đủ loại ra trình diện.
Trong bản quy định kỷ luật chiến
trường có ghi: không được đánh đập tù binh, chỉ có các cán bộ
chỉ huy và chuyên môn mới được hỏi cung tù binh...
Kiểm tra lại thì không một ai, không
một cấp nào ra lệnh thủ tiêu tù binh”.
Thưa ông Đại tá cộng sản, lòng tự
trọng tối thiểu của ông ở đâu khi ông dám cho là có 5 ngàn quân
nhân QLVNCH ra trình diện, trong khi đó sự thật là đa số đồng
bào vô tội bị thảm sát? Và thêm nữa ông bảo rằng không có một
cấp chỉ huy nào ra lệnh thủ tiêu tù binh? Thế thì ai giết đồng
bào đây? Sau Mậu Thân chính phủ VNCH phối hợp với các cơ quan
tình báo đồng minh đã cho điều tra rất chi tiết việc này và
chính phủ VNCH đã biết chính xác chính là Hồ Chí Minh và đảng
cộng sản Việt Nam đã ra lệnh thủ thiêu tàn sát chôn sống đồng
bào Huế, chỉ vì đồng bào đã không đi theo cộng sản không chịu
tổng nổi dậy mà cứ chạy về với “Lính Quốc Gia mình” bất kể bom
đạn.
Ông hẳn
đã nghe bà Thái Hòa nói:
“Có điều tôi lấy làm lạ, trên đường
chạy giặc, mỗi khi đạn pháo bắn khắp nơi mà người ta cứ gồng
gánh nhau mà đi, không ai chịu dừng lại kiếm chỗ tránh đạn,
người ta nói với nhau, khi mô mà có mọc-chê hay đạn pháo chi đó
thì bọn VC chui vô nhà dân để trốn đạn, chúng nó không ra đường
để chặn bắt dân lại, vì vậy người ta cứ chạy bất kể, dưới lằn
mưa đạn người ta càng chạy đi đông hơn. Ôi những người dân tội
nghiệp của xứ Huế thà chết dưới bom đạn còn hơn để bị lọt vô tay
quân sát nhân ác độc”.
Ông thấy đó, hễ có bom đạn nơi đâu là
đồng bào lại tràn ra nơi đó để chạy, vì lúc đó các ông cộng sản
phải đi núp, đó là lúc duy nhất để thoát khỏi bàn tay quỷ dữ các
ông. Người ta thà chết dưới bom đạn còn hơn là để lọt vào tay
quân sát nhân.
Thưa ông Bùi Tín bàn tay ông bao lớn
để có thể che được tội ác tày trời này của tập đoàn cộng sản các
ông? Xương trắng chất đống của đồng bào Huế còn đó, thân nhân
nạn nhân còn đó, những nấm mồ tập thể còn đó, nhân chứng còn đó,
ông chối làm sao đây? Ông đã hỏi Lê Tư Minh tư lệnh mặt trận Huế
trước khi phát biểu về Mậu Thân chưa, hay là ông đang làm công
tác tuyên truyền địch vận một chiều cho Đảng tại hải ngoại? Với
những lời tuyên truyền bảo vệ tội ác cho Hồ Chí Minh và cộng
đảng của ông như thế, trong lúc ông tuyên bố là đã từ bỏ đảng,
thì xin hỏi, chúng tôi có thể gọi ông là Đại tá Nằm Vùng Bùi Tín
được không?
Xin nhắc lại cho ông Đại tá nằm vùng chứng cớ này: Cộng quân tấn
công và chiếm Huế vào 2 giờ 33 phút sáng ngày mùng 2 Tết. Rạng
sáng mùng 2 tháng 2 khi cờ của Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc Dân
Chủ Hòa Bình treo trên kỳ đài Phú văn Lâu, thì cuộc bắt bớ chém
giết đã xảy ra từ mấy tiếng đồng hồ trước và sau đó khi có lệnh
áp dụng biện pháp “Bạo Lực Đỏ” cuộc bắt bớ chém giết lại càng
ngày càng gia tăng tốc độ tàn bạo và lên đến đỉnh điểm cho đến
lúc các cán binh Bắc Việt phải tháo chạy.
Bằng chứng nào mà ông nói rằng có 5
ngàn sĩ quan và binh sĩ chực sẵn vào đêm mùng 4 tháng 2 để ra
đầu hàng? Và chúng tôi, cơ quan điều tra của chính phủ VNCH tại
Huế có đầy đủ bằng chứng rằng 99 phần trăm nạn nhân bị các ông
đập đẩu chôn sống là nhân viên chính quyền và đa số là đồng bào
vô tội bị hại.
Ông thật là một tên đại láo khoét, nói
những nạn nhân dân sự là tù binh chiến tranh. Nạn nhân không mặc
quân phục cũng chẳng cầm súng chiến đấu tại chiến trường, họ là
tù dân sự ông trắng trợn biến đổi họ ra tù binh để đem quy chế
thỏa hiệp quốc tế về tù binh ra nói rằng quân đôi Nhân Dân của
ông tôn trọng thỏa hiệp Geneva về tù binh mà chính phủ Bắc Việt
của ông đã ký để chối bỏ vụ tàn sát 5327 thường dân vô tội. Ông
đổi trắng thành đen 5327 thường dân vô tội thành ra 5 ngàn sĩ
quan và binh lính đủ loại ra đầu hàng, và các ông đã tôn trọng
quy chế thỏa hiệp tù binh, vậy thì tôi Liên Thành Cựu Trưởng Ty
CSQG Thừa Thiên-Huế xin hỏi ông, có bằng cớ nào các ông đã trao
trả 5 ngàn tù binh vụ Mậu Thân mà đã ra đầu hàng cho chính phủ
VNCH dưới sự giám sát của quốc tế không?
Bùi Tín nói “Kiểm tra lại thì không
một ai, không một cấp nào ra lệnh thủ tiêu tù binh”. Vậy thì
những nấm mồ tập thể được khám phá với xương trắng cao như núi ở
đâu ra? Không có sự thủ tiêu? Không có ai ra lệnh?
Không có sự ra lệnh thống nhất tại sao
lại có một kiểu giết người giống nhau như thế? Lại nữa các can
phạm sau này chúng tôi bắt được cũng khai phù hợp với tình huống
rằng đã có sự thống nhất trong kế hoạch giết người, và tại sao
phải giết người bằng cách chôn sống, đó là cách để tiết kiệm
đạn.
Đúng
chưa ông Bùi Tín?
Ông Bùi Tín, lòng tự trọng của ông để
ở đâu? Dưới chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, lòng tự
trọng của ông đã bị nhà nước quản lý rồi phải không?
Ở đâu ra mà có con số 5000 sĩ quan
quân nhân các cấp của QLVNCH ra đầu thú? Nếu quả thật có con số
này tại Huế lúc đó, thì các ông còn lâu mới tấn công được Huế.
“5327 nạn nhân là thường dân vô tội, họ không phải là lính, họ
không là tù binh”.
Chúng tôi khẳng định chắc chắn như
vậy.
Tệ hại
hơn nữa, ông Đại tá nằm vùng còn nói số đồng bào bị sát hại đó
là do bom đạn của Mỹ và của quân lực VNCH. Miệng lưỡi của ông
Bùi Tín y hệt tên giáo sư mạt hạng Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Xin hỏi ông Bùi Tín bom đạn nào của Mỹ
và của Quân Lực VNCH có thể làm cho các nạn nhân bị chết trong
tình trạng bị đập đầu và ngộp thở vì chôn sống?
Phải chăng đó chính là bom đạn của
“Bác Đảng” các ông?
Ông Bùi Tín đã thấy cảnh đồng bào Huế
đi nhận diện thân nhân từ các mồ chôn tập thể? Ít là vài thi thể
trong một hố, nhiều là vài trăm người bị trói xâu tay với nhau
bằng dây kẽm gai chôn chung một hố. Tình trạng chết của nạn nhân
được giảo nghiệm bởi pháp y dưới sự chứng kiến của các giới
truyền thông quốc nội, truyền thông quốc tế và đông đảo đồng bào
và các viên chức chính quyền VNCH và các anh em CSQG Thừa Thiên-
Huế như vậy mà ông cho là do bom đạn của Mỹ và Quân lực VNCH sát
hại? Trời cao đất dày nào chấp nhận sự láo khoét này của ông và
Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân cùng
đại thủ phạm Đảng cộng sản Việt Nam? Hỏi ông, bom đạn Mỹ chỉ cần
nổ vào đầu một người thôi là tất cả những người kia cũng tự động
chết theo luôn dù không bị mảnh đạn nào cả? Chưa hết, bom đạn Mỹ
Ngụy thông minh đến độ biết dùng dây điện thoại, dây kẽm gai
trói chùm cả đoàn người lại và sau đó tự động đào hố chôn?
Chôn đây là chôn sống để giết người mà
khỏi tốn đạn, cách này chỉ có Bác Đảng và thủ hạ là bọn nằm vùng
dùng mà thôi ông Bùi Tín ạ. Cứ nhìn cách giết người thì biết
được thủ phạm là ai phải không ông?
Thưa ông Bùi Tín, “thảm sát Mậu Thân
là do bom đạn Mỹ Ngụy!” ông quả là có năng khiếu hài hước còn
hơn bộ trưởng thông tin Iraq thời Saddam Hussein!
Thật đúng là bản chất láo lường, vô
liêm sỉ của các tên cộng sản trong đó có tên Đại tá cộng sản phó
tổng biên tập báo Nhân Dân, lực lượng Quân Đội Nhân Dân của
chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Người dân Miền Nam thật không sai khi
có thành ngữ: “Nói láo như Vẹm”.
2. LÊ VĂN HẢO
Trước Tết Mậu Thân Lê Văn Hảo đã được
Thành ủy viên Hoàng Kim Loan đưa lên mật khu học tập.
Trót
vì tay đã nhúng chàm.
Dại rồi còn biết
khôn làm sao đây (Kiều) .
Tại đây, Lê Văn Hảo được nhận lãnh hai
chức vụ tối quan trọng mà bộ chính trị đảng cộng sản giao cho y
trong thời gian bọn chúng chiếm Huế:
1. Chủ tịch Ủy ban Nhân Dân
Cách Mạng Tỉnh Thừa Thiên và Thị xã Huế.
2. Chủ tịch Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình.
Đây là một lực lượng Chính trị thứ 2
sau lực lượng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Trong suốt thời gian
Mậu Thân có thể xem Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình
là một mặt trận chính trị quan trọng, nói lên ý nghĩa của cuộc
tổng nổi dậy Mậu Thân bản chất là do sự bất mãn của quần chúng
đối với “Chính quyền bù nhìn Thiệu-Kỳ, và với Đế quốc Mỹ xâm
luợc” mà ra, rằng quần chúng đã tự kết hợp thành một lực lượng
chính trị chống đối mạnh mẽ.
Tôi xin trích một vài đoạn trong buổi
phóng vấn của phóng viên Nguyễn An của ban Việt Ngữ đài phát
thanh RFA với Tiến sĩ Dân Tộc Học Lê Văn Hảo để độc giả thấy tư
cách hèn hạ dối trá của một tên cộng sản nằm vùng bị bọn cộng
sản vắt chanh xong vứt vỏ vào đống rác, nên hắn đã không dám
nhìn nhận quá khứ.
Tôi cũng xin phép độc giả được chú
thích phần cảm nghĩ của tôi sau mỗi câu trả lời của ông Tiến sĩ
Lê Văn Hảo với Biên Tập Viên Nguyễn An của đài RFA.
BTV Nguyễn An:
- Ông vào Mặt Trận bao giờ?
Tiến sĩ Lê Văn Hảo:
- Thật ra tôi không vào Mặt Trận Dân
Tộc Giải Phóng Miền Nam, mà tôi chỉ là một cảm tình viên của mặt
trận ấy thôi. Tôi bắt đầu biết khá nhiều về mặt trận ấy từ biến
cố Tết Mậu Thân.
Tết Mậu Thân, những người lãnh đạo của
mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam ở Huế có mời tôi đi dự cuộc
họp. Và chính cuộc họp này đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng
trong đời tôi, vì họ nói là họ mời tôi đi họp, nhưng mà thực
chất gần như một cuộc bắt cóc vậy đó.
Ghi chú của tác giả:
Là một trí thức khoa bảng, ngay khi
còn du học tại Pháp ông đã có những hoạt động với nhóm cộng sản
và thiên tả tại Pháp, đến khi về nước dạy học tại các trường Đại
Học Đà Lạt, Sài Gòn, và nhất là tại Huế, ông đã hoạt động trong
tổ chức Trí Vận của cơ quan Thành ủy Việt Cộng Đại Học Huế từ
trước 1966 với nhóm giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tôn Thất Hanh,
Ngô Kha, v.v. Ông cộng tác với tờ báo Lập Trường tại Đại Học
Huế. Ngoài ra tờ báo cộng sản “Việt Nam Việt Nam” do ông làm chủ
nhiệm, và Hoàng Phủ Ngọc Tường làm Tổng Thư ký, đã được in ngay
tại phòng ngủ của ông trong Cư Xá Giáo Sư Đại Học Huế để tránh
sự lùng bắt của lực lượng an ninh chúng tôi.
Với những chức vụ, vai trò và những
hoạt động như vậy mà ông nói ông chỉ biết khá nhiều về mặt trận
ấy từ biến cố Tết Mậu Thân? Ông phải nói là ông là một trong
những kẻ nằm trong hệ thống tổ chức của Mặt Trận Giải Phóng Miền
Nam, sau đó là Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình của cộng sản
và đặc biệt là vai trò quan trọng của ông trong vụ Thảm Sát Mậu
Thân.
Ông nói
trước Tết Mậu Thân ông đuợc mời đi họp mà “thực chất gần như một
cuộc bắt cóc”?
Thưa Giáo Sư Hảo, cộng sản nào bắt
buộc ông? Ông là một tên nằm vùng, hoạt động tích cực trong Tổ
Trí Vận tại nội thành. Trước Tết Mậu Thân, Thành ủy viên VC
Hoàng Kim Loan, Phan Nam, Hoàng Lanh bọn chúng đã báo trước cho
ông và tổ chức để ông lên mật khu học tập chính sách đường lối
của quân giải phóng trong cuộc tấn công và nhất là cách thức
phát động cuộc tổng nổi dậy tại đô thị.
Ông đang sống trong thành phố Huế,
vùng an ninh 100% Việt Cộng nào dám bắt cóc ông? Thật là oan cho
Bác Đảng: ty CSQG chúng tôi có thể kết luận thế này: Việt Cộng
đã “bắt cóc” ông với sự đồng thuận của ông, có nghĩa là ông muốn
được bắt cóc đúng không ông? Ông có cả một lực lượng an ninh
khổng lồ của Cảnh Sát Quốc Gia chúng tôi bảo vệ ông, nếu ông yêu
cầu. Ông đã không làm điều đó, ông lặng lẽ từ thành phố Huế đi
cùng với cán bộ giao liên đưa ông lên mật khu để học tập phương
pháp tổng nổi dậy tại Huế vào Mậu Thân. Tại Mật Khu ông đã được
vinh dự nhận một lần hai chức vụ quan trọng mà bọn chúng giao
cho ông đó là:
- Chủ Tịch Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ
Hòa Binh, một lực lượng chủ lực cho cuộc tổng nổi dậy vào Mậu
Thân tại Huế.
- Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng
thành phố Huế, chính quyền đầu tiên và cao nhất trong thời gian
cộng quân chiếm Huế.
Hai chức vụ chủ chốt và quan trọng như
vậy được giao cho ông thì câu hỏi được đặt ra là ông phải là “ai
đó”, và ông đã phải trung thành với chúng đến chừng nào, và nhất
là nếu ông không là người của chúng thì thân xác ông chắc đã
cùng nằm chung với các bác sĩ y khoa các vị giáo sư khác dưới
những hố hầm vô chủ chứ đừng nói gì đến Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân
Cách Mạng, Chủ Tịch Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ! Ông cũng biết
sinh viên Lê Hữu Bôi chúng bắt và giết ngay chỉ vì ông ấy không
là người của chúng, đàng này một giáo sư của chính quyền VNCH mà
Việt Cộng chúng tự nhiên giao cho những chức vụ quan trọng đó
sao?
BTV Nguyễn An:
- Thưa ông, như vậy tức là Mậu Thân
sau khi họ tấn công Huế thì sau đó họ đưa ông về?
Tiến sĩ Lê Văn Hảo:
- Không! Tôi không có về lúc đó lúc
đấy chỉ có mấy anh cộng sản về đánh nhau ở dưới phố thôi, chớ
còn tôi họ đâu dám đưa tôi về. Họ biết rằng khi tôi nhận thì tôi
miễn cưỡng, mà nếu đưa tôi về thì tôi chắc cũng chuồn luôn thì
họ đâu có dám đưa tôi về. Trong tất cả khi nổ ra Mậu Thân tức là
trong 26 ngày đêm, cộng sản chiếm thành phố Huế thì tôi ngồi
trên núi để nghe đài phát thanh suốt ngày, tất cả những gì xảy
ra dưới Huế tôi chỉ biết qua đài phát thanh của Hà Nội và đài
phát thanh giải phóng.
BTV Nguyễn An.
- Tức là cũng không có ai báo cáo với
ông tình hình như thế nào với tư cách là Chủ Tịch Ủy Ban Nhân
dân hết?
Tiến sĩ Lê Văn Hảo:
- Có chứ, tức là trong khi đánh nhau
và chiếm thành phố Huế như vậy thì chúng có điện đài theo dõi
thì cũng nắm được tình hình lắm chớ, chớ đâu có phải là không
biết gì!
Ghi chú của tác giả:
Thưa Giáo sư Hảo, ông nói láo quá
trắng trợn câu sau đá câu trước đó gọi là giấu đầu lòi đuôi: bảo
là chỉ biết theo dõi tình hình Huế qua đài phát thanh Hà Nội và
đài Giải Phóng, rồi khi bị hỏi vặn là làm chủ tịch mà lại không
có ai báo cáo tình hình, thì ông lại nhận ngay “có chứ!”, có
điện đài, có nắm được tình hình lắm chứ!
Xin nói thẳng rằng chúng tôi biết rõ
ông nằm trong ban tham mưu của Tư Lệnh chiến trường Trị Thiên,
Thiếu tướng Việt Cộng Trần Văn Quang và bộ chỉ huy của Tướng
Quang đóng ngay tại làng La Chữ thuộc quận Hương Trà. Làng La
chữ nằm trong một thung lũng phía sau là núi và nằm về phía tây
thành phố Huế. Nếu tôi nhớ không lầm thì làng La Chữ chỉ cách
thành phố Huế khoảng chưa đầy 8km.
Ông là tư lệnh của lực lượng chính
trị, Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình, một lực lượng nòng cốt
của cuộc Tổng Nổi Dậy tại Huế, theo nguyên tắc lãnh đạo và chỉ
huy, ông phải ở với tư lệnh quân sự hay tư lệnh chiến trường là
Thiếu tướng Trần Văn Quang, an ninh cá nhân ông phải được bảo
đảm tối đa để điều hành việc lớn, ông không thể vào Huế trong
tình trạng đang đánh nhau.
Về Quân sự, tư lệnh chiến trường tử
trận thì có tư lệnh phó thay thế ngay, về chính trị tư lệnh lực
lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình kiêm Chủ tịch Ủy ban
Nhân Nhân Thừa Thiên-Huế giáo sư Lê Văn Hảo lỡ bị tử trận thì
lấy ai là người Đảng và Bác tin tưởng để nắm 2 chức đó? Thưa
Giáo sư, nhận được một chức thì đã là nhân vật trọng yếu rồi,
đằng này một lúc được tặng 2 chức “cao quý” như vậy thì phải
biết rằng ông hoạt động mạnh cho chúng cỡ nào và chúng tin ông
cỡ nào. Giáo sư Hảo! Miệng nào mà ông có thể mở ra để nói rằng
vì chúng không tin tưởng ông, vì họ sợ ông trốn nên không cho
ông về thành phố?
BTV Nguyễn An:
- Khi rút ra khỏi Huế rồi, thì ông vẫn
tiếp tục trên núi hay là đi theo họ?
Tiến sĩ Lê Văn Hảo:
Dạ thưa tôi vẫn tiếp tục ở trên núi và
lúc ấy thì quân đội Hoa Kỳ và quân đội VNCH đã phản ứng rất mạnh
bằng cách ném bom rất dữ dội cả vùng giải phóng. Thú thật với
anh là chúng tôi sống toàn trong các hang núi, nếu ra ngoài thì
cũng ăn bom như thường vì tình hình quá căng thẳng, bom đạn quá
sức tưởng tượng, cho nên lệnh ở ngoài Hà Nội là đưa những người
gọi là nhân sĩ theo Cách mạng như là Hòa Thượng Thích Đôn Hậu,
bà Nguyễn Đình Chi (tức bà Đào thị Xuân Yến, tức bà Tuần Chi),
cụ Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm và một số vị khác để đưa các
vị này ra Bắc.
Như vậy chúng tôi bắt đầu lên đường,
nếu tôi nhớ không lầm vào đầu tháng 7 tôi đi theo đường Trường
Sơn (tức đường mòn Hồ Chí Minh), ngày thì ngủ trong hang đêm thì
đi và tôi đến Hà Nội vào ngày mùng 3 tháng 9 năm 1968.
BTV Nguyễn An:
- Dạ thưa, đi cùng với ông có các vị
trí thức mà ông đã nêu trên?
Tiến sĩ Lê Văn Hảo:
- Dạ đúng, có cả phái đoàn như vậy mà
trong đó có nhiều vị phải ngồi võng như Cụ Đôn Hậu phải ngồi
võng cho 2 anh quân giải phóng khiêng, bà Nguyễn Đình Chi và Cụ
Nguyễn Đóa cũng ngồi võng, còn tôi lúc đó mới chỉ 32 tuổi thì
tôi đi bộ như mọi người thôi.
Ghi chú của tác giả:
Thưa giáo sư Hảo lại một lời nói láo
quá dở!
Câu
hỏi dành cho ông: Tại sao trong lúc lâm chiến và nhất là trong
lúc rút quân bọn cộng sản ráo riết giết hàng ngàn đồng bào vô
tội để trả thù về tội không chịu tổng nổi dậy thì hà cớ gì bọn
chúng lại không giết quách đồng bọn các ông như đồng bào Huế cho
gọn mà lại phải cực khổ dẫn và võng các ông đi bộ ra Hà Nội? Các
ông cũng chẳng là viên chức cao cấp của chính phủ VNCH mà chúng
có thể chọn bắt để khai thác hoặc làm con tin trao đổi? Thế thì
không phải điều này nói lên một sự thật là các ông là những nhân
vật trọng yếu trong chính quyền cộng sản hay sao thưa ông? Thậm
chí chúng còn phải võng các ông ra Bắc nữa, thì điều này nói làm
sao hết tầm quan trọng và sự hợp tác chân thành cùa các ông với
cộng sản Bắc Việt?
Cuộc ra đi của ông, ông Đôn Hậu, bà
Đào thị Xuân Yến tức Tuần Chi, Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm,
v.v. không phải như ông nói với BTV Nguyễn An là vì bom đạn của
Hoa Kỳ và Quân Lực VNCH dữ dội quá, nên Hà Nội cho lệnh đưa
“những nhân sĩ theo Cách mạng như ông, ông Đôn Hậu, bà Tuần Chi,
v.v. ra Bắc” mà là đây là một kế hoạch có tính toán sẵn của Bộ
Chính Trị đảng cộng sản. Một điều mâu thuẫn nữa là chính ông đã
xác nhận rằng Tuần Chi, Đôn Hậu, Nguyễn Đóa và trong đó phải kể
thêm ông, là những Nhân sĩ Cách Mạng, thì hiểu một cách rõ ràng
là Đôn Hậu Tuần Chi Nguyễn Đóa, Lê Văn Hảo là Việt Cộng Nằm
Vùng, thế thì ông còn thanh minh thanh nga làm chi cho thêm hài
hước hở ông?
Theo lời khai của tên điệp viên Việt cộng Hoàng Kim Loan thì
cuộc ra đi này đã được tính toán rất kỹ từ Bộ Chính Trị đảng
cộng sản Việt Nam trước Tết Mậu Thân 1968. Điệp viên Hoàng Kim
Loan đã thông báo quyết định này của Bộ Chính Trị đảng với ông
Đôn Hậu, và ông ta đã nhận lời.
Bộ Chính trị đảng cộng sản Việt Nam
cần các ông, những người đại diện cho mọi tầng lớp trong quần
chúng miền Nam nằm trong Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa
Bình tại Huế, ra Bắc xuất ngoại qua các nuớc cộng sản anh em,
trước là truyên truyền cho cuộc chiến xâm lăng Miền Nam của bọn
cộng sản là do “nhân dân Miền Nam tự nổi dậy” chống Ngụy Quyền
Miền Nam và đế quốc Mỹ xâm lược, mà các ông là đại diện cho các
thành phần trí thức, tôn giáo, sinh viên, công chức trong xã hội
Miền Nam, kế đến là dùng các ông để tuyên truyền cho cộng sản
Miền Bắc xin viện trợ. Vì thế, như ông đã nói, khi các ông đến
Hà Nội các ông là khách quý của Trung ương Đảng.
Đó là nhu cầu cần thiết mà đảng cộng
sản Việt Nam cần các ông để lừa bịp dư luận quốc tế, còn bằng
không, tôi xin giáo sư cho tôi được nói một câu rất trần tục
nhưng rất thật và đơn giản rằng: “Nếu các ông không là nhu cầu
cần thiết của bọn chúng thì số mạng của ông, của ông Đôn Hậu,
của bà Tuần Chi trong hang núi tại Khe Trái, Khe Điên ở vùng núi
rừng Thừa Thiên sau Mậu Thân cũng tỷ như số mạng của những con
chó gục chết trong rừng mà thôi”.
Bộ Chính Trị Đảng cộng sản chẳng quan
tâm gì bom đạn dữ dội của Hoa Kỳ và của Quân Lực VNCH có thể làm
thiệt mạng các ông đâu!
BTV Nguyễn An:
- Ông ở đó cho đến năm 1975?
Tiến sĩ Lê Văn Hảo:
- Tôi đến Hà Nội là khách của Trung
ương Đảng cùng với nhóm của chúng tôi là Hòa Thượng Thích Đôn
Hậu, v.v. Trong mấy năm từ 1968 đến 1975 là tôi được học trường
Đảng, tôi được Đảng giáo dục cho mấy năm học nhiều về chính trị
như thế nào là cách mạng, giải phóng dân tộc, đấu tranh giai
cấp.
BTV Nguyễn An:
- Xin ông kể lại giai đọan từ sau
tháng 5/1975 về sau này ạ.
Tiến sĩ Lê Văn Hảo:
- Khi tôi về Huế là trước ngày
30/4/1975. Trước 30/4 thì cộng sản đã chiếm Huế được rồi, chiếm
Huế vào khoảng cuối tháng 3.
Khi tôi về đến Huế thì nó trở mặt ngay
anh ạ. Nó chỉ nói một cách vắn tắt là bây giờ anh không phải làm
chính trị nữa, mà anh trở về nghề cũ của anh là nghề dạy học
thôi. Tức là đùng một cái mình đang là Chủ Tịch thì nó bằng một
câu nói như vây, nó xóa chức vụ của mình đi, nó cho mình trở lại
với anh Lê Văn Hảo trước Tết Mậu Thân, vậy thôi. Kiểu của nó là
kiểu không coi mình ra gì cả.
Sau khi trở lại Huế, thì tôi được một
chức khác, tuy tôi là giảng sư ở đại học, nhưng tôi lại trở
thành phó chủ tịch của Mặt trận Tổ Quốc Bình Trị Thiên. Đối với
quần chúng cũng là một chức oai lắm rồi.
BTV Nguyễn An:
- Đây cũng là điều rất lạ, tức là rất
nhiều người đều bị đưa vào trong một cái giống như màn kịch.
Giống như một vụ bị lừa và rút cục người nào cũng bị kẹt hết.
Tiến sĩ Lê Văn Hảo:
- Đúng, cái đó quá đúng anh ạ. Anh
biết tất cả những người được cộng sản cho những chức vụ này nọ
trong những năm từ Tết Mậu Thân cho đến tháng 4/1975 và về sau
ngày 30/4/1975 thì họ đều bất mãn ghê gớm lắm.
Thí dụ như Hòa Thượng Thích Đôn Hậu ở
Huế cũng bất mãn ghê lắm. Mỗi lần tôi lên chùa Thiên Mụ thăm ông
thì ông cũng than thở. Ông nói rằng chưa thấy đám nào đối xử với
người ta một cách ngạo mạn, rẻ rúng như cộng sản. Cụ Thích Đôn
Hậu nói với tôi như vậy.
BTV Nguyễn An:
- Thưa ông, như vậy cơ duyên nào đã
đưa ông ra khỏi Việt Nam?
Lê Văn Hảo:
- Vào khoảng tháng 5/1989 thì có một
ông giáo sư đại học Pháp tên Emely được cộng sản mời sang nói về
200 cách mạng Pháp. Ông này cũng là một trí thức khuynh tả, ông
cũng có cảm tình ít nhiều với cộng sản cho nên nó mời ông sang
nói chuyện. Tôi với tư cách là phó Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc
Bình Trị Thiên thì tôi cũng đi nghe giáo sư này nói chuyện. Hai
anh em nhìn ra nhau thì mừng quá. Tôi mới nói với ông ta ở đây
không thoải mái, cậu có thể đề nghị với Đại Học Paris 7 cho mình
một giấy mời sang dạy học được không? Để mình thoát ly ra khỏi
bầu không khí ngột ngạt quá.
Với giấy mời dạy học của ông, thì tôi
được sang Pháp và tôi đến Pháp vào ngày 14/7/1989.
Phân tích của cựu Truởng Ty
CSQG VNCH về lời nói của Lê Văn Hảo như sau:
“Khi tôi về đến Huế thì nó trở mặt
ngay anh ạ.”
Ông Lê Văn Hảo, khi ông lên án cộng sản trở mặt với ông, điều
này có nghĩa là ông tự xác nhận đã phục vụ cho quan thầy cộng
sản, nay ông bị chúng quay lưng không cho ông giữ chức vụ Chủ
Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố nữa.
Ông đã tự mình lạy ông tôi ở bụi này
rồi thưa ông Hảo.
Và đây nữa:
“đùng một cái mình đang là Chủ tịch
thì nó bằng một câu nói như vây, nó xóa chức vụ của mình đi nó
cho mình trở lại với anh Lê Văn Hảo trước Tết Mậu Thân, vậy
thôi.”
Rõ
ràng là ông đã đau xót mất chức vụ Chủ Tịch của ông, ông là một
kẻ kiếm danh lợi bằng cách chạy theo cộng sản, chối làm sao đây
ông Hảo?
Lại
nữa, ông tỏ vẻ vui mừng và tự hào khi: “nhưng tôi lại trở thành
phó chủ tịch của Mặt Trận Tổ Quốc Bình Trị Thiên. Đối với quần
chúng cũng là một chức oai lắm rồi”.
Thật khó có ngôn từ nào có thể diễn tả
tốt hơn sự hèn hạ của một kẻ thèm thuồng danh lợi cộng sản của
Tiến sĩ Lê Văn Hảo. Và đó tất cả là lý do đã thôi thúc ông trở
thành kẻ phản bội quốc gia thờ ma cộng sản.
Tóm lại, ông Lê Văn Hảo là một người
hoạt động cho bọn cộng sản, được chúng sử dụng tin tưởng phong
làm chủ tịch tỉnh vậy mà sau này vẫn can đảm nói dối với truyền
thông quốc tế rằng:
“Tôi bị bắt buộc, và trong thời gian
22 ngày lực lượng Cách mạng chiếm Huế tôi ở trên rừng, chỉ nghe
radio để biết tin tức chiến trận ở Huế mà thôi”.
Quả là câu sau đá đít câu trước, cuối
cùng, vì không còn danh vọng không quyền lực, không xơ múi gì
nên ông đành xin sang Pháp rồi bỏ trốn luôn, phải vậy không giáo
sư Hảo?
Lời
cuối cho ông Hảo, nếu như có phải liệt kê một danh sách những
nhân vật hèn hạ đốn mạt chạy theo bã cộng sản, có tội với lịch
sử giai đoạn 1954-1975 thì thiết nghĩ ông sẽ có tên trong danh
sách đó. Và lịch sử sẽ có danh sách đó ông tin đi!
Kết luận về Lê Văn Hảo:
Cho dù Lê Văn Hảo có chối không nhúng tay vào các vụ tàn sát ở
Huế, thử hỏi, 10 ngàn quân cộng sản phục vụ dưới ngọn cờ mà Lê
Văn Hảo là Chủ Soái, cộng vào chức vụ nói theo danh từ VNCH ông
là Tỉnh Trưởng Thừa Thiên-Huế lúc đó, với 5327 thường dân vô tội
Huế bị tàn sát bởi 10 ngàn quân và đám tay sai Việt Gian cộng
sản nằm vùng, xin hỏi, xét về mặt trách nhiệm, lương tâm, về
tình, về lý, về luật pháp về đạo đức, ông có phải là tội nhân
không ông Lê Văn Hảo?
Xin dành câu trả lời cho giáo sư Thạc
sĩ Nhân Chủng Học Lê Văn Hảo, cho quý độc giả và cho hậu thế.
3. HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Chức vụ:
1. Tổng Thư Ký Lực lượng Liên Minh Dân
Tộc Dân Chủ Hòa Bình.
2. Chánh Án Tòa Án Nhân Dân tại Trường
Trung Học Gia Hội Quận II Thị xã Huế, ra lệnh chôn sống 204
thường dân vô tội.
Trong thời gian gần hai năm trở lại
đây, khi cá nhân tôi đưa ra những chứng cớ cụ thể để buộc tội
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những tên sát nhân tàn bạo
nhất trong vụ tàn sát đồng bào Huế, thì ngay lập tức có một số
bạn bè thân thích của tên sát nhân lên tiếng chối rằng Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã không có mặt tại thành phố Huế trong thời gian Mậu
Thân 1968, và ngay chính tên thủ phạm này cũng chối không có
mặt. Sự thật như thế nào? Xin mời quý vị xem những chứng cớ từ
miệng của tên sát nhân Hoàng Phủ Ngọc Tường xác nhận hắn có mặt
tại Huế Mậu Thân như sau:
[Tôi
xin phép anh Nguyễn Văn Lục cho phép tôi được trích vào một đoạn
trong bài viết của anh và đặt vấn đề để độc giả có thể thấy rõ
sự dối trá của Hoàng Phủ Ngọc Tường.]
Bài “Trường hợp Hoàng Phủ Ngọc
Tường” mà tác giả Nguyễn Văn Lục đã phổ biến trên hệ
thống Internet về hai cuộc phỏng vấn:
1. Cuộc phỏng vấn của ký giả Thụy Khê
đài RFI (Radio France International) ngày 12/7/1997 với Hoàng
Phủ ngọc Tường nhân dịp Hoàng Phủ Ngọc Tường được sang Pháp.
2. Cuộc Phỏng vấn Hoàng Phủ Ngọc Tường
cùa Ông Burchett người thực hiện bộ phim tài liệu 13 tập với
nhan đề: “Việt Nam: A television History” vào năm 1982.
(Published as a companion volume to
“Vietnam: A Television History”. a 13-part documentary film
series for the PBS network produce by WGBH Boston, in
cooperation with Central Independent Television/United Kingdom
anh Antenne-2/France, and in associationwith LRE Production).
Cuộc phỏng vấn của Phóng Viên Thụy Khê
đài RFI với Hoàng Phủ Ngọc Tường vào tháng 7/1997 tại Pháp.
Nhân dịp Hoàng Phủ Ngọc Tường được
sang Pháp vào tháng 7/1997, phóng Viên Thụy Khê dài RFI (Radio
France International) đã dành cho Hoàng Phủ Ngọc Tường một cơ
hội để trình bày quan điểm liên quan đến Tết Mậu Thân và nhất là
để biện minh cho việc Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không có mặt tại
Huế, đồng thời ông Tường cho hay những người tố cáo ông là một
tên đồ tể Mậu Thân ở Huế thì đó là một sự bịa đặt mang ý định vu
khống hoàn toàn.
“Sự thật là tôi đã từ giã Huế lên
rừng tham gia kháng chiến vào mùa hè năm 1966 và chỉ trở lại Huế
sau ngày 26 tháng 3 năm 1975. Như thế nghĩa là trong thời điểm
Mậu Thân 1968, tôi không có mặt ở Huế”.
“Điều quan trọng còn lại, tôi xin bày
tỏ ở đây với tư cách là đứa con của Huế đã ra đi và trở về, ấy
là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang
tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải chịu cho hành
động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế vào Mậu Thân.
Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm
dân tộc và nhìn từ quan điểm chiến tranh cách mạng”.
Sự thật thì thế nào?
“Đó là một sai lầm nhìn từ lương
tâm và từ quan điểm cách mạng” Mặc dù đã từng là thầy dạy
Việt Văn cho tôi, nhưng tôi xin nói rằng ông phải viết như thế
này thì mới đúng “Đó là một tội lỗi nhìn từ lương tâm và từ quan
điểm cách mạng”. Từ phát biểu trên của ông, cho tôi được phép
hỏi, vậy thì việc ngồi ghế chánh án xử 204 tại trường Gia Hội,
trong đó có những học trò của mình, tội làm Mỹ Ngụy, CIA, rồi
bản án được thi hành ngay lập tức bằng cách chôn sống ngay trong
sân trường, vậy đứng về mặt lương tâm và quan điểm cách mạng,
Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời sao đây?
Ông có thấy mình hố nặng không Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Và một chuyện hố nữa là chính miệng ông đã xác
nhận rằng ông có mặt tại Huế Tết Mậu Thân, thời điểm ông xác
nhận điểu này là vào năm 1982, thời điểm mà bọn Việt Cộng nằm
vùng hãy còn hãnh diện với những thành tích cách mạng đấu tranh
giai cấp giết người của chúng.
Hãy nghe Hoàng Phủ Ngọc Tường
nói năm 1982:
“Đây là điều tôi muốn nêu rõ vì tôi
biết như là một nhân chứng.” Rất chính xác, Hoàng Phủ Ngọc Tường
là một nhân chứng và là một tác nhân của vụ thảm sát.
Và đây nữa lời của Hoàng Phủ Ngọc
Tường năm 1982.
“Tôi đã đi trên những cái đường hẻm,
mà ban đêm tôi tưởng là bùn thì tôi mở ra, bấm đèn lên, thì thấy
toàn là máu lầy lội như vậy. Và đó là cả khu phố bị bom Mỹ đã
giết thì cái số đó nhất là trong những ngày cuối cùng thì chúng
tôi rút ra và nó đã thâu lại và đem đi chôn...”
Tuy nhiên, khi được Thụy Khê hỏi về
những lời Hoàng Phủ Ngọc Tường tuyên bố trên đài truyền hình Mỹ,
Hoàng phủ Ngọc Tường chối thế này:
“Hồi đó ông Burchett và đoàn làm phim
lịch sử truyền hình tới Huế, chọn tôi để chất vấn về chuyện tang
tóc ở đây. Lâu rồi trả lời ứng khẩu thôi. Tôi không nhớ thật cụ
thể những điều tôi đã nói và càng không có dịp xem lại chuyện
phim như nó được chiếu ở ngoại quốc.”
(Trích Thụy Khuê, “Nói chuyện với
Hoàng Phủ Ngọc Tường về biến cố Mậu Thân ở Huế” RFI ngày
12/7/1997).
Xin hỏi, quý vị có thể chấp nhận lời biện hộ này của tên đồ tể
hay không?
“Giọng điệu năm 1997 của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi được chị Thụy
Khuê phỏng vấn thật khác xa với giọng điệu khát máu của một
Hoàng Phủ Ngọc Tường năm 1982. Hai sự khác biệt này đã tạo nên
bằng chứng dối trá của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ai có thể tin được
hắn?”
“Nếu
quả thực Hoàng phủ Ngọc Tường đã quên thì đây là dịp để ông nhớ
lại từng câu, từng chữ một qua cuộc Phỏng vấn của ông Burchett.
Lên tiếng kết án nặng nề nhất Hoàng
Phủ Ngọc Tường có lẽ là tác giả Liên Thành.
Bên cạnh đó còn có những cảm tình viên
như Đặng Tiến, Tiêu Dao Bảo Cự, Ngô Minh tìm cách lái câu chuyện
Hoàng phủ Ngọc Tường sang chuyện văn học và đặt nhẹ vấn đề trách
nhiệm của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong vụ thảm sát Huế dịp Tết Mâu
Thân.
Những
chuyện bao che, dối trá của Hoàng Phủ Ngọc Tường và đồng bọn trở
thành sự trơ trẽn đáng xấu hổ khi chúng ta cùng nhau nghe lại
cuộc phóng vấn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bộ phim tài liệu 13
tập nhan đề: 'Việtnam: Television History'.
Trong bộ phim này, Hoàng Phủ Ngọc
Tường xuất hiện như một tên đao phủ sắt máu, ngôn ngữ hận thù,
thái độ của một người cộng sản chính hiệu, hơn cả người cộng sản
có thẻ đảng.
Hoàng Phủ Ngọc Tường kể rằng chính anh ta chứng kiến cảnh dội
bom của Mỹ vào một bệnh viện gần chợ Đông Ba làm chết và bị
thương 200 người mà đêm tối anh ta dẫm lên đám đất bùn hòa lẫn
máu người chết.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đương nhiên xác
nhận ông có mặt ở Huế. Ông ta đã lộ nguyên hình.”
Cuộc Phỏng vấn của Ông
Burchett với Hoàng Phủ Ngọc Tường vào 1982 tại Huế:
Hỏi:
- Ông có thể mô tả biến cố nổi dậy ở
Huế, đặc biệt liên quan đến vụ thảm sát. Ở đậy xin đề nghị ông
trả lời cho biết những gì xảy ra ở Huế. Có những vụ trả thù, đàn
áp?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Ông muốn nói đến vụ thảm sát mậu
Thân ở Huế? Đó là một chiến công vĩ đai của nhân dân Huế, nhưng
nhân dân Huế đã phải trả một giá đắt cho chiến thắng này. Đó là
sự trả thù chưa từng thấy của Mỹ và Ngụy sau đó. Vì thế nhân dân
Huế phải trả giá đắt nhất so với các thành phố khác của chúng
tôi. Cũng chỉ vì ở đây người Mỹ đã chịu sự tổn thất nặng nề về
sinh mạng, về vật chất và chính trị tại Huế.
Sự trả đũa vô cùng khủng khiếp. Nhưng
tôi nghĩ rằng chúng tôi đã từng sống qua các thời kỳ chiến đấu
chống lại Pháp, và thời chiến tranh chống lại người Mỹ. Tôi nghĩ
rằng bọn chủ nghĩa thực dân mới thì khôn hơn bọn thuộc địa cũ.
Bọn thuộc địa cũ thì chơi franc jeu hơn là thực dân mới. Nói
khác, bọn chủ nghĩa thực dân mới thường tàn bạo hơn thực dân cũ.
Và điều đó là chắc chắn đúng như vậy trong suốt cuộc tổng công
kích Mậu Thân vừa qua.
Bởi vì tội ác do Mỹ tạo ra được toàn
thể thế giới quan tâm, chúng chuyển tất cả tội ác của chúng và
đổ lỗi cho những người làm cách mạng chống lại nhân dân của họ.
Tôi ám chỉ chúng đã dùng vụ thảm sát như một bửu bối đặc biệt để
bôi nhọ cách mạng Việt Nam trong cuộc hòa đàm Paris.
Đây là điều tôi muốn nêu rõ vì tôi
biết như là một nhân chứng. Tôi sẽ nói cho ông mọi sự một cách
khách quan nhất.
- Thứ nhất riêng những người bị giết,
có nhiều người đã bị giết chắc chắn là do chúng tôi phải thi
hành bản án tử hình. Bởi khi chúng tôi đến nhà họ, họ đã bắn đến
cùng vào những chiến sĩ của chúng tôi, làm bị thương khi chúng
tôi kêu gọi họ đầu hàng. Vì thế những người này đã bị chúng tôi
bắn chết tại chỗ. Trong đám những người này có tên Phó Tỉnh
Trưởng lúc đó hắn đang sống tại Huế.”
Ghi chú của tác giả:
Hoàng Phủ Ngọc Tường nói:
“đồng bào Huế bị thảm sát trong Mậu
Thân là sự trả thù chưa từng thấy của Mỹ và Ngụy.”
Sự thật thì như thế này: Đồng bào Huế
đã bị thảm sát là sự trả thù chưa từng thấy của bọn cộng sản và
bọn nằm vùng. Tại sao ư? Tại vì dân chúng không hưởng ứng cuộc
tổng nổi dậy nên các ông căm thù mà giết họ, vì dân chúng Huế sợ
bầy quỷ đỏ các ông, các ông đi đến đâu thì dân chúng bỏ chạy đến
đó. Họ chạy vắt chân lên cổ, họ chạy dưới làn mưa đạn, càng có
mưa đạn thì họ càng tràn ra ngoài đường để chạy, vì họ biết rằng
đó chính là lúc các ông phải núp trốn, họ bỏ lại tất cả nhà cửa,
của cải quý giá, chỉ để thoát thân. Mà họ chạy đi đâu? Họ chạy
đi tìm vòng tay che chở của người lính VNCH, người lính Mỹ. Từng
đoàn người tỵ nạn kéo nhau chạy, khi họ thấy được bóng dáng
người lính VNCH, thì, nói theo giọng người Huế thường nói, “họ
mừng còn hơn cha chết sống lại” hay là “mừng hơn mạ đi chợ về”.
Xin nghe một vài câu nói và cử chỉ của dân Huế đối với người
lính Việt Nam Cộng Hòa:
Tại Quận I vào sáng mùng 2 Tết:
“Chạy mau đi bà con ơi! Răng Việt Cộng
nhiều rứa! Chạy mau đi, chạy về hướng nớ, có lính của Sư Đoàn I,
có ôn Tướng Trưởng ở đó”.
Tại vùng Đập Đá, Vĩ Dạ, Gia Hội, Tiểu
Đoàn 21 và 39 Biệt Động Quân đổ quân tái chiếm vùng Gia Hội,
Quận II. Họ từ Đập Đá ngang qua thôn Vĩ Dạ, vượt sông Hương qua
Cồn Hến, qua Gia Hội. Đồng bào các vùng đó bất chấp hiểm nguy
bất chấp súng đạn của Cộng Quân họ tuôn ra đường la lớn:
“Chạy mau đi bà con ơi! Răng Việt Cộng
nhiều rứa! Chạy mau đi, chạy về hướng nớ, có lính của Sư Đoàn I,
có ôn Tướng Trưởng ở đó”.
“Lính mình bà con ơi! lính Biệt Động
Quân bà con ơi! Sống rồi bà con ơi!”
Dân chúng nhào ra ôm lấy người lính
Biệt Động Quân, họ vui mừng xúc động đến chảy nước mắt:
“Răng mà đến chậm rứa, tụi Việt Cộng
giết dân mình nhiều quá”.
Đồng bào dúi vào tay những người lính
Biệt Động Quân những đòn bánh tét, những gói mứt nhỏ, và dặn dò:
“Tụi hắn đông lắm, mấy em cẩn thận
nghe”.
Cầu
Trường Tiền trước giờ phút bị CS giật sập không lâu.
Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi tin rằng ông
biết thừa biết đây là sự thật, và mong rằng giờ đây ông phải
thấy thẹn với chính ông và người dân Huế, xin ông đừng nói láo
nữa, không ai tin ông đâu.
Và đây là câu chuyện của người lính
Việt Nam Cộng Hòa đối với dân:
Cán binh cộng sản và chính ông đã coi
sinh mạng đồng bào như rác rến, dùng dân chúng đi đầu làm bia đỡ
đạn khi đụng trận với hai tiểu đoàn 21 và 39 Biệt Động Quân tại
vùng Gia Hội. Hai đơn vị tinh nhuệ của Quân Lực VNCH chấp nhận
mất mát lớn cho chính đơn vị họ, thế mạng sống của họ cho dân
Huế, cứu được dân Huế ta khỏi vòng kìm kẹp của cộng quân sau đó
mới phản công tiêu giệt đại đơn vị của Cộng Quân tại Quận II. Và
trong hai đơn vị Biệt Động Quân anh hùng đó, tôi có người bạn
xuất thân Khóa 19 Võ bị Đà Lạt, Trung úy Trần Tiễn San, con trai
của Thượng Nghị Sĩ Trần Điền. Thượng Nghị Sĩ Trần Điền đã bị đám
An Ninh Thành và Đoàn Vũ Trang Thanh Niên của ông và Nguyễn Đắc
Xuân bắt đi tại nhà thờ Phủ Cam chưa biết sống chết ra sao.
Trung úy Trần Tiễn San may mắn trốn thoát khỏi nhà thờ Phủ Cam,
sinh mạng phụ thân đành cam lòng, Trung úy Trần Tiễn San theo
lệnh quân đội, chỉ huy đơn vị xông vào vùng lửa đạn Gia Hội-Bãi
Dâu cứu thoát đồng bào Huế khỏi bàn tay bạo tàn của Hoàng Phủ
Ngọc Tường và cộng quân.
Những mẫu chuyện đó là sự thật, và để
chứng minh cho đồng bào trong nước và hải ngoại, nhất là đồng
bào Huế, thấy rõ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, những người lính
Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi đã chấp nhận hy sinh mạng sống để
bảo vệ mạng sống của đồng bào. Việc Hoàng Phủ Ngọc Tường nói
rằng “Ngụy quân, Ngụy quyền trả thù đồng bào Huế chưa từng
thấy”, thiết nghĩ quả là quá mất tư cách và là một lời nói dối
đốn mạt thiết nghĩ không nên có ở một nhà giáo thưa ông Giáo sư
đồ tể.
Riêng
về chuyện ông Phó Tỉnh Thừa Thiên bị lực lượng Hoàng Phủ Ngọc
Tường thi hành bản án tử hình vì khi bọn cộng sản đến nhà họ, họ
đã bắn đến viên đạn cuối cùng làm cho người của ông bị thương
nên các ông phải thi hành bản án tử hình là bắn chết họ tại chỗ.
Sự thật ra sao?
Hoàng Phủ Ngọc Tường, người mà ông nói
là tên Phó Tỉnh Trưởng bị các ông xử tử tại nhà, người đó không
phải là Phó Tỉnh Trưởng, mà là ông Trần Đình Thương, Phó Thị
Trưởng Thị xã Huế. Ông ta không có súng lấy gì mà chống cự và
bắn chết đồng chí của ông?
Sự thật là: tư thất của ông Phó Thị
Trưởng Thị xã Huế ở ngay ngã ba Nguyễn Huệ-Nguyễn Hoàng, trước
nhà ông ta là vuờn hoa Bến Ngự. Sáng mùng 2 Tết Mậu Thân, súng
nổ tứ bề ở vùng Bến Ngự, Ông Phó Trần Đình Thương vì không nắm
vững tình hình bên ngoài, cỡi xe Honda phóng chạy ra khỏi nhà có
lẽ để chạy về Tòa Hành Chánh Tỉnh, hoặc định chạy trốn một nơi
nào đó.
Xe
vừa ra khỏi cổng thì bị hằng lọat đạn AK của bọn Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Nguyễn thị Đoan Trinh bắn vào người. Cả xe và người ông
Trần Đình Thương văng qua bên kia đường nơi vuờn hoa Bến Ngự.
Ông Phó Thương nằm gục chết trên chiếc xe Honda. Hơn 15 ngày
sau, khi tình hình khu vực Quận III tạm ổn, gia đình của ông ta
mới đem đuợc thi hài của ông ta vào nhà, khi đó thi thể đã sình
thối.
Đó là
sự thật, rất nhiều người sống ở vùng Bến Ngự đã thấy ông Phó
Trần Đình Thương nằm gục chết trên chiếc xe Honda, lưng mang
nhiều vết đạn, xác bị bỏ hoang nhiều ngày nên đã sình thối.
Hãy nghe Hoàng Phủ Ngọc Tường
nói:
“Trong một ít trường hợp một số bị
giết vì đã từng tra tấn các cư dân gây cho toàn thể gia đình bị
tù tội và đày ra Côn Đảo. Chính nhân dân căm thù quá lâu, họ bị
tra tấn gia đình họ phải trả thù. Vì thế khi cách mạng bùng lên
và lấy lại được thế kẻ mạnh, nhân dân bùng lên và đi lục soát
tìm cho ra những tên bạo nguợc này để trừ khử chúng như trừ khử
những con rắn độc, mà nếu như để chúng sống sót, chúng sẽ tiếp
tục gây ra tội ác hơn nữa trong chiến tranh.”
Hình ảnh Cách Mạng giết rắn độc
“trừ khử chúng như trừ những con rắn
độc, mà nếu như để chúng sống sót, chúng sẽ tiếp tục gây ra tội
ác hơn nữa trong chiến tranh”. Lời Hoàng Phủ Ngọc Tường.
“Mặc dầu chính sách của chúng tôi nhằm
cải tạo và không bao giờ giết bất cứ ai đã đầu hàng chúng tôi,
song khi dân trong thành phố đã nắm công lý trong tay của chính
họ, thì các cấp lãnh đạo cách mạng của chúng tôi không còn có
thể kiểm soát dân chúng trong suốt thời kỳ đang diễn ra, nhưng
tôi phải nói cho ông biết rằng, mỗi một tên bị giết, thì chúng
đã giết ít nhất mười người khác trong các gia đình bị nạn.”
“Chúng giết mười người, bây giờ giết
một người bọn chúng, cái giá đó là rất nhẹ. Giết một người là
công bằng. Nợ máu đó, căm thù và thi hành bản án như vậy là rất
nhẹ và công bằng”.
Ghi chú của tác giả:
Hoàng Phủ Ngọc Tường độc ác, tàn bạo
có thua gì tên lãnh tụ Pol Pot của Khmer Rouge?
5327 thường dân Huế bị giết chết, và
1200 người bị mất tích là những kẻ đã từng tra tấn, gây cho toàn
thể gia đình đám Việt Cộng nằm vùng bị tù tội và đày ra Côn Đảo
sao?
Hai trăm
lẻ bốn người bị ông tòa Hoàng Phủ Ngọc Tường chánh án Tòa Án
Nhân Dân tại trường học Gia Hội ban cho bản án chôn sống chẳng
lẽ họ là những kẻ đã từng tra tấn dân chúng gây cho dân chúng bị
tù tội và đày ra Côn Đảo sao?
Thực chất 204 sinh mạng này là ai? Họ
là những người đàn bà, những góa phụ, những trẻ nhỏ đi quét dọn
nhà cửa, giặt áo quần cho lính Mỹ tại căn cứ Phú Bài, ông tòa
Hoàng Phủ Ngọc Tường kết tội cho họ là tay sai cho đế quốc Mỹ
xâm lược, làm cho tình báo CIA.
Và vì vậy, theo Hoàng Phủ Ngọc Tường,
những người này phải bị trừ khử như trừ khử những con rắn độc,
nếu như để chúng sống sót chúng sẽ còn gây tội ác nhiều hơn nữa
trong chiến tranh?
Hoàng phủ Ngọc Tưởng nhấn mạnh với với
ký giả Burchett rằng những người đó mỗi người đã giết ít nhất là
10 người của cách mạng, bây giờ giết lại chỉ có một người như
vậy là quá nhẹ quá công bằng.
1. Giáo sư Lê Văn Thi và phụ thân của
ông ta bị chôn sống trên vùng xã Thủy Xuân. Giáo sư Thi là đồng
nghiệp của Hoàng phủ Ngọc Tường tại trường Quốc Học. Sau này ông
du học đậu tiến sĩ về nguyên tử lực. Về nước, ông phục vụ tại lò
điện nguyên tử Đà Lạt. Mậu Thân ông ra Huế thăm nhà tại Cầu Lòn
thuộc xã Thủy Xuân, quận Hương Thủy. Đám Vũ Trang Thanh Niên của
nguyễn Đắc Xuân bắt ông tại nhà và dẫn đi, cụ thân sinh của giáo
sư Thi chạy theo năn nỉ cũng bị chúng bắt dẫn đi luôn, và sau đó
cả hai cha con đều bị chôn sống.
Xin hỏi Hoàng Phủ Ngọc Tường, giáo sư
Thi và thân phụ đã giết tên “cách mạng” nào chưa?
2. Linh mục Bửu Đồng, linh mục Hoàng
Ngọc Bang 73 tuổi, sư huynh Agribert, sư huynh Sylvestre, ba sư
huynh dòng Thánh Tâm là thầy Bá Long, thầy Mai Thịnh, thầy
Hermand, ba linh mục người Pháp là Cha Guy, Cha Urbain, cha
Cresssonnier.
Xin hỏi Hoàng Phủ Ngọc Tường, các vị
này đã giết tên nằm vùng nào chưa?
3. Ba bác sĩ người Đức và bà vợ của
một trong 3 bác sĩ đó.
Xin hỏi Hoàng Phủ Ngọc Tường và đảng
cộng sản, 4 người này đã giết tên Việt Cộng nào chưa?
4. Ba anh và một người bạn của bà Thái
Hòa là Sinh viên Đại Học Huế và ông nội của 3 người đó
5. Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn
Lê Hữu Bôi
6.
Thượng nghị sĩ Trần Điền
7. Ông Võ Thành Minh
Và nhiều... ngàn người bị chôn sống
nữa, những người này đã giết tên Việt Cộng nào chưa?
Hoàng Phủ Ngọc Tường nói về tàn sát
Mậu Thân “sự căm thù và sự thi hành bản án như vậy là nhẹ, mà
nếu như để chúng sống sót, chúng sẽ tiếp tục gây ra tội ác hơn
nữa trong chiến tranh”
Hãy nghe Hoàng Phủ Ngọc Tường nói
“Theo tôi nghĩ bất cứ ai tùng theo dõi hoàn cảnh chiến tranh, sự
thể có thể chỉ là một sự trả thù nhỏ nhoi. Sự căm thù và sự thi
hành bản án như vậy là nhẹ. Và theo tôi mọi cuộc cách mạng đều
giống nhau. Bởi vì đó là một cuộc chiến tranh mà sức mạnh quân
sự và trang bị cực kỳ chênh lệch. Nhân dân chúng tôi không sở
hữu được những thứ vũ khí như đế quốc Mỹ có. Song điều ấy cũng
chẳng sao cả.
Còn đa số đã đầu hàng do chúng tôi giữ
lại, thì được đưa lên rừng ở trại cải tạo. Hầu hết đã được trở
về. Vài người tôi biết chịu đựng không nổi vì khí hậu, bị bịnh,
nhưng họ đã trở về với gia đình cả. Nhưng có một số bị giết thật
không đáng kể, còn lại sau ngày giải phóng họ đã được trở về”.
Ghi chú của tác giả:
Sau Mậu Thân số người bị giết chết là
5327 người, và 1200 người bị mất tích, và hoàn toàn không có một
ai bị cộng quân bắt trong Mậu Thân được trả về. Hơn nữa các cơ
quan tình báo của VNCH cũng như đồng minh cũng không ghi nhận có
một trại tù cải tạo nào của cộng sản trong vùng rừng núi tỉnh
Thừa Thiên.
Hãy nghe một sự thật: có 428 người bị bắt trong đó có 300 thanh
niên tự vệ làng Phủ Cam, số người này đã bị giam tại Chùa Từ
Đàm, bị thẩm vấn, tra tấn đánh đập, và sau đó tất cả bị giải lên
rừng. Và gần 1 năm sau họ được trả về, điều này tôi xác nhận
Hoàng phủ Ngọc Tường nói đúng. Nhưng...
Họ được trả về với gia đình là những
bộ xương tay, xương chân, xương sọ người mà lực luợng hành quân
của Quân Lực VNCH và Hoa Kỳ đã phát hiện được. Khi trở về với
gia đình, họ chỉ còn là 428 bộ xương được thu nhặt nằm rải rác
dọc Khe Đá Mài.
Thời gian sau Mậu Thân cộng quân bị
thiệt hại quá nặng, quân số hầu như chỉ còn 10% trước khi tấn
công Huế, khi rút lui không còn lương thực chết đói dọc đường,
lại bị Sư Đoàn Không Kỵ Hoa Kỳ chận đánh tả tơi, phải trốn chạy
tuốt tận biên giới Lào thì hỏi làm gì còn có thể thiết lập trại
tù cải tạo trên rừng?
Hoàng Phủ Ngọc Tường quả thật nói láo
từ đầu đến cuối.
Hãy nghe hắn nói tiếp:
“Phần lớn sự chết chóc đã xảy ra. Một
khối lớn những xác chết đó là ai? Chính nhân dân bị bọn Mỹ làm
chết không biết bao nhiêu trong đợt phản kích này. Những người
này bị giết và được chôn trong thành phố rồi sau đó được khai
quật bởi Mỹ và quay phim tuyên truyền cho Mỹ”.
“Chẳng hạn, nó bỏ bom rơi vào một bệnh
viện nhỏ, gần chợ Đông Ba, nó thả bom làm 200 người vừa chết vừa
bị thương. Tôi đi trên con đường hẻm vào ban đêm, và tôi tưởng
rằng tôi đang dẫm trên đống bùn. Thế mà khi tôi bật cái đèn pin
lên, máu khắp mọi nơi. Cả một khu vực bị bỏ bom bởi bom đạn Mỹ
tàn phá. Và thế rồi, những ngày cuối cùng khi chúng tôi triệt
thoái ra khỏi thành phố, kẻ thù của chúng tôi đã thâu lại và đem
đi chôn”.
“Lý
do thứ hai, những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra thì có
nhiều người đã tham gia cách mạng. Những người này theo lực
lượng cách mạng vào rừng sâu sau cuộc tần công Tết Mâu Thân và
khi đó kẻ thù trở vào thành phố, chúng đã giết những người thân
của những gia đình này, rồi đem chôn trong các hầm tập thể. Cộng
thêm những tù nhân đi theo chúng tôi vào rừng bị giết hại bởi
máy bay Mỹ”.
Ghi chú của tác giả:
Càng nghe những lời nói của hắn, dân
Huế càng kinh tởm về tư cách hèn mạt, ăn nói láo lường của tên
sát nhân Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Xin hỏi Hoàng Phủ Ngọc Tường, khi đám
tàn quân của cộng sản tháo chạy ra khỏi thành phố, đám tay chân
bộ hạ nằm vùng chạy theo lên núi, trong đám đó có những kẻ chủ
chốt vụ tàn sát đồng bào Huế như:
Lê Văn Hảo, Tôn Thất Dương Tiềm, Lê
Hữu Dũng, Nguyễn Thúc Tuân, Nguyễn Đóa, Pham Thị Xuân Quế,
Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Hữu Vấn, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Ngọc
Tường và... cả hằng trăm kẻ sát nhân nữa, theo cộng quân chạy
lên rừng, thử hỏi thân nhân của những kẻ đó có ai sau Mậu Thân
đã bị chính quyền VNCH giết hại rồi đem chôn tập thể hay không?
Xin đưa bằng chứng?
Ông phải biết rằng, miền Nam Việt Nam,
Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia pháp trị, luật pháp phân minh
và rõ ràng, không một ai phạm tội bắt người trái phép, giết
người, mà không bị luật pháp chế tài ngay lập tức. Xin đưa một
ví dụ:
Luật
Pháp VNCH quy định: Quyền hạn của Trưởng Ty Cảnh sát chỉ có
quyền giữ một can phạm, tình nghi, tối đa là 24 giờ. Sau 24 giờ
nếu không xin lệnh Tòa án, lệnh ông Biện Lý, Ông Biện Lý có
quyền tống giam Trưởng ty Cảnh sát ngay lập tức vì tội bắt người
trái phép.
Trong bộ hình luật của VNCH không có một chữ nào quy định rằng
những ai có liên hệ ruột thịt, máu mủ, với những tên cộng sản
đều phải bị bắt, phải bị giết.
Xin hỏi Hoàng Phủ Ngọc Tường Sau Mậu
Thân gia đình ông, cha mẹ anh em ông có ai bị chúng tôi bắt,
giết rồi đem chôn tập thể không? Hoặc bất kỳ thân nhân của những
người tôi vừa nêu tên ở trên có gia đình nào bị hại như ông đã
nói với ký giả Burchett?
Hãy nghe tên đại đồ tể nói
tiếp:
“Trong những năn 1975 đến 1977, trong
khi đào các đường mương và kênh dẫn thủy, chúng tôi khám phá ra
được rất nhiều mồ chôn tập thể, cái được gọi là nạn nhân bị thảm
sát thì chỉ toàn là những người mang đồng phục quân giải phóng
và nón tai bèo của lực lượng giải phóng.
Điều này nói lên mưu mô, quanh co xảo
quyệt của bọn tân thực dân. Cuộc chiến này là ranh mảnh của chủ
nghĩa thực dân mới. Chúng giết hai con chim bằng một hòn đá.
Trước hết là vì chúng muốn tìm cách che dấu tội ác của chúng.
Hơn nữa là chúng muốn đổ lên đầu bộ
đội cách mạng những tội ác của chúng. Đây là điều mà tôi đã
chứng kiến. Và một sử gia người Mỹ sau đó viếng thăm Huế đã nói
cách công khai rằng đây là kế hoạch tuyên truyền vĩ đại của Mỹ,
một chiến dịch tuyên truyền chiến thuật đã làm hao tổn tiền bạc
của Hoa Kỳ cho cân xứng với cái giá về tiền bạc mà tên Kissinger
nhằm bôi nhọ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam về Tết Mậu Thân.
Tôi muốn nhấn mạnh là cả một bộ máy
tuyên truyền của Mỹ với thế giới đã cố dùng tất cả các bộ máy
tuyên truyên để đổi trắng thay đen, để lừa bịp nhân loại.
Sự thật là chỉ có một số xác chết nạn
nhân do sự giận dữ của dân chúng.
Nhưng con số này quá nhỏ so với con số
quá lớn kẻ thù còn sống sót mà chúng đã chạy ra nước ngoài,
chúng tiếp tục nói xấu Việt Nam. Giờ đây họ đã vu khống có tổ
chức nhằm chống lại cách mạng Việt Nam. Thế nhưng, ông phải nhìn
nhận rằng mặc dầu chúng tôi được sự ủng hộ của khắp thế giới khi
chúng tôi chiến đấu chống lại kẻ thù của chúng tôi mà chỉ có dân
của chúng tôi bị bịt mồm và chịu đổ máu trước họng súng của kẻ
thù. Chúng tôi đã phải đổi máu của chúng tôi một cách đơn độc.
Trong suốt cuộc chiến đấu chúng tôi đã
phải đem lại công lý chống lại kẻ thù không đội trời chung của
nhân dân, những kẻ mà thế giới đã nhìn nhận như những tội phạm
chiến tranh. Dân chúng thế giới đã có phiên tòa của Bertrand
Russell là một ví dụ cho rằng nếu đã có tòa án kiểu Nuremberg,
thì đã có hàng ngàn người được tha chết trong Tết Mậu Thân là
những kẻ đáng bị treo cổ sau khi chiến tranh chấm dứt.
Theo như Bertrand Russell đã dẫn
chứng, công lý chẳng bao giờ được thi hành. Vì vậy mà một sĩ
quan Mỹ như Trung úy William Calley đã giết nhiều người ở Sơn Mỹ
mà nó không bị lên án treo cổ.
Và để nhằm mục đích gây chú ý trong
trường hợp tội phạm này, chúng đã ngụy tạo một cuộc thảm sát Tết
Mậu Thân để bôi bẩn cách mạng. Điều này chứng tỏ Mỹ không quan
tâm đến vấn đề danh dự của nước lớn đi đánh một nước nhỏ bé.
Chính quyền Mỹ đã nói láo về trận tấn công Mậu Thân”.
Tên đồ tể mặc dù được giáo dục dưới
chế độ VNCH nhưng tư cách là tư cách của bọn cộng sản hèn mạt.
Hắn đã nói láo một cách đại trơ trẽn y hệt phường cộng sản vô
lại Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa.
Tóm lại, Hoàng Phủ ngọc Tường từ
khoảng thập niên 1990 cho đến nay năm 2010 y đang chối tội bằng
cách nói rằng y không có mặt tại Huế trong thời gian Tết Mậu
Thân 1968, nhưng đã muộn vì chính y vào năm 1982 đã xác nhận y
có mặt tại Huế và rất nhiều nhân chứng là thân nhân của nhiều
nạn nhân đã xác nhận rằng họ nhận diện được Hoàng Phủ Ngọc Tưởng
chính là người ra lệnh giết thân nhân của họ.
Tên Việt Cộng Lê Văn Hảo, Chủ Tịch
Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân
Thừa Thiên-Huế, Phó chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc Bình Trị Thiên,
qua cuộc phỏng vấn của đài BBC cũng đã xác nhận Hoàng Phủ Ngọc
Tường có mặt tại Huế trong thời gian Tết Mậu Thân 1968.
Và mới ngày 16 tháng 12 năm 2010 có
một người vừa gởi Email cho bạn tôi, và bạn tôi lại chuyển cho
tôi, xác nhận Hoàng Phủ Ngọc Tường có mặt tại Huế trong Tết Mậu
Thân 1968.
Tôi xin tác giả bức điện thư cho phép tôi được trích bức thư này
như một phần góp vào sự thật “Hoàng Phủ Ngọc Tưởng đã chối rằng
không có mặt tại Huế trong Mậu Thân 1968”. Xin cảm tạ.
Và nội dung bức điện thư như
sau:
Các
bạn thân mến,
ACE (Anh chị em) Y khoa Huế ở những
năm 1, 2, 3 đều có biết Hoàng Phủ Ngọc Phan (mà LM Cao văn Luận
gọi là Ngọc Phần, cha muốn tránh chữ Phân) Phan em ruột của
Tường. Hai anh em Tường, Phan đều thù người quốc gia qua câu thơ
của Phan viết ngay sau bìa vở của chị Tinh Châu:
Cha con giặc giết đã lâu
Con càng khôn lớn càng căm máu thù.
Tôi mượn vở của chị Tinh Châu mà phát
hiện ra.
Phan
thường đi La Chữ để liên lạc với Việt Cộng vào gần cuối năm
1964. Từ đó tôi không dám nói chuyện hoặc lui tới nhà của Phan
mượn vở của nhau.
Về chuyện Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi
biết được ít nhiều. Hắn là giáo sư lại đem lòng yêu học trò là
em vợ của tôi. Trước khi hắn trốn vào bưng hắn đã đến nhà vợ
tôi, nhắn em vợ tôi là đừng có làm sở Mỹ hoặc lấy người Mỹ.
Tết Mậu Thân 1868 cả hai anh em
Phan-Tường mang súng đến nhà tôi ở Ngự Viên (Sau đổi thành
Nguyễn Du) vào gặp Ba tôi.
Trước đó khi còn học chung Y Khoa 2,
thỉnh thoảng Phan đến nhà tôi để mượn vở, Ba tôi xem như con
cháu, thế mà lần này Ba tôi sợ Phan-Tường như sợ tử thần. Phan
nói:
- Bác,
Thằng Định mô rồi, nói hắn ra giúp băng bó cho nhân dân.
Ba tôi nói là tôi đã ở nhà vợ trong
Thành Nội.
Phan nói:
-
Định lấy vợ rồi à?
Phan vừa nói vừa nhìn khắp nhà, làm ba
tôi gần đứng tim, vì anh tôi đang ở trên trần nhà.
Tường nói dối là đã không về Huế, vào
dịp Tết Mậu Thân. Thật tiếc rằng không có bức ảnh hắn đứng trong
sân nhà Ba tôi.
Về sau 1975 Tường còn đến nhà vợ tôi,
khi biết em vợ tôi đã lấy chồng ở Sài Gòn, hắn tiu ngỉu hỏi về
tôi. Vợ tôi nói tôi đi “học tập”. Hắn giở giọng hách dịch. Phải
học tập mới sáng suốt đường lối chớ.
Đúng là giọng điệu Việt Cộng.
Còn chị Phạm Thị Xuân Quế. Tôi về Huế
thăm các con cháu tôi lúc chúng còn ở lại Việt Nam, tôi gặp chị
Xuân Quế 2 lần, nhưng chị ấy cúi mặt. Việt Cộng mà cũng biết
thẹn! Thẹn vì đồng chí của chị nhốt tù tôi đến 10 năm ròng mà
lại còn tra tấn tôi đến liệt cả hai tay. Chắc là Tôn Thất Kỳ đã
kể lại. Tôn Thất Kỳ có đến thăm tôi ở Bệnh viện Huế khi tôi được
đưa từ trại từ Bình Điền về Huế vì tôi bị tắc ruột.
Kể lại cùng các bạn nghe cho biết
Merry Christmas
Thân mến,
Định.
Bao nhiêu nhân chứng đã quả quyết rằng
Hoàng Phủ Ngọc Tường có mặt tại tết Mậu Thân Huế?
Nhưng tất cả cũng không giá trị bằng
một nhân chứng đặc biệt, đó chính là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Chính
miệng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nói ra rằng hắn đã có mặt tại Huế
tết Mậu Thân với ông Burchett trong bộ Phim Lịch sử gồm 13 tập
mà Ông Burchett đã thực hiện và phỏng vấn Hoàng Phủ Ngọc Tường,
và đã chiếu khắp cùng Hoa kỳ và thế giới. Bộ phim 13 tập này có
tên là:
Viet Nam: A Television History.
Xin quý vị hãy lắng nghe lời Hoàng Phủ
Ngọc Tường nói trong trích đoạn dưới đây:
“Thí dụ là như ở một bệnh viện nhỏ ở
bên phố Đông Ba thì nó đã thả 1 trái bom và đúng 200 người vừa
chết vừa bị thương ở tại chỗ đó. Tôi đã đi trên những cái đường
hẻm mà ban đêm, tôi tưởng là bùn thì tôi mở ra, bấm đèn lên, thì
thấy toàn là máu lầy lội như vậy. Và đó là cả khu phố bị bom Mỹ
đã giết, thì cái số đó nhất là trong những ngày cuối cùng thì
chúng tôi rút ra và nó đã thâu lại và đem đi chôn...”
Ai đã đi trên những con đường hẻm ban
đêm tết Mậu Thân? Ai nói ra lời đó?
Hoàng Phủ Ngọc Tường! Bốn mươi hai năm
trôi qua từ sau Mậu Thân 1968 cho đến nay, bao nhiêu đau thương,
bao nhiêu u uẩn, xót xa trong lòng thân nhân của 5327 thường dân
bị thảm sát và 1200 người bị mất tích do chính ông và các đồng
chí Bác Đảng của ông là thủ phạm, mọi người đều biết điều đó,
nhưng ông đã chối tội, đã nói láo trước công luận là ông không
có hiện diện tại Huế, không nhúng tay vào vụ thảm sát sát đó, và
ông còn ngược ngạo rằng vụ thảm sát đó là do Mỹ Ngụy gây ra rồi
âm mưu đổ cho “cách mạng”. Giờ đây sự dối trá của ông đã trở
thành bỉ ổi, trơ trẽn và đáng xấu hổ, đáng khinh bỉ, vì chính
ông đã xác nhận:
Ông có mặt tại Huế, ông đi trên con
đường hẻm vào ban đêm và ông tưởng rằng ông đang dẫm chân trên
đống bùn. Thế mà khi ông bấm đèn lên thì thấy máu lầy lội khắp
mọi nơi, máu này là do bom Mỹ giết cả khu phố Đông Ba (?!).
Quá đủ để kết luận rằng chính ông có
mặt Tại Huế trong suốt 26 ngày đau thương chết chóc của đồng bào
Huế cũng như chính ông và đồng bọn đã là những tên đồ tể say máu
người qua các sự kiện như ông tặng bản án tử hình “tên phó tỉnh
trưởng”, những giải thích biện hộ rằng thay vì giết đủ 10 người
theo luật công bằng thì các ông chỉ giết lại có 1, như vậy là
quá nhẹ quá khoan hồng, v.v.
Hoàng Phủ Ngọc Tường, ông nói rằng Ông
Burchett nói “công lý chẳng bao giờ được thi hành”. Không! Không
phải như vậy. Ông sẽ thấy trong tương lai cận kề, rất gần “sự
thật và công lý phải được thi hành” để rửa sạch oan khiên cho
5327 thường dân Huế bị chính ông và đồng bọn giết chết, và 1200
người mất tích. Bởi vì chính tôi và thân nhân của các nạn nhân
Mậu Thân Huế đã nộp hồ sơ truy tố ông và các đồng chí của ông
cũng như đảng cộng sản Việt Nam ra tòa án quốc tế về tội ác
chiến tranh và tội ác diệt chủng.
4. NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Tên giết người số 1, trong Tết
Mậu Thân tại Huế.
- Phụ trách trí thức, học sinh, sinh
viên trong Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình.
- Đoàn trưởng đoàn Vũ Trang Thanh Niên
hay gọi là Lực Lượng An Ninh và Bảo Vệ Khu phố.
Hãy đọc hồi ký Nguyễn Đắc Xuân viết:
- “Cuộc tàn sát đồng bào Huế là do
bom đạn của Ngụy Quân và của đế quốc Mỹ xâm lược giết hại, rồi
đổ cho quân Giải Phóng hầu làm giảm lòng thương yêu của dân
chúng Huế đối với quân giải phóng.”
- “CIA thành lập một đạo quân gọi là
Black Tiger để giết dân Huế rồi đổ tội cho quân giải phóng.”
- “Tôi ở tuyến đầu chỉ một hai ngày
tại mặt trận Cánh Bắc, sau đó tôi lui về tuyến sau lo cho thương
binh”.
Vậy thì ai chỉ huy Đoàn Vũ Trang Thanh Niên sắt máu chém giết
đồng Huế trong suốt 22 ngày?
Ai xử bắn 7 người trong đó có anh Trần
Mậu Tý và ông thương gia Nội tại cửa Đông Ba?
Ai bắn giết đồng bào khắp cùng mặt
trận Cánh Bắc tức là Quận I và Quân II Thị xã Huế?
Ai nhúng tay vào vụ bắn 100 đồng bào
cùng với hai vợ chồng ông Trần Ngọc Lộ và chôn họ chung vào một
hố tại Cồn Hến?
Ai Chỉ Huy Đoàn Vũ Trang Thanh Niên đi
từng gia đình trong quận Thành Nội và Quận Tả Ngạn bắt dân chúng
treo cờ của Ôn lên (cờ lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa
Bình) nếu không có cờ của Ôn (Thích Đôn Hậu) thì lấy cờ Phật
giáo treo lên?
Và còn quá nhiều điều tàn ác, kể thêm
vài trăm trang giấy nữa vẫn không hết. Câu trả lời của hằng trăm
nhân chứng chứng kiến cảnh Nguyễn Đắc Xuân hành quyết nạn nhân,
của thân nhân nạn nhân là:
Kẻ giết người, giết thân nhân họ chính
là Nguyễn Đắc Xuân, Đoàn Trưởng Đoàn Thanh Niên Vũ Trang của
Việt Công trong Tết Mậu Thân Tại Huế.
5. HOÀNG PHỈ NGỌC PHAN VÀ
NGUYỄN THỊ ĐOAN TRINH
Hoàng Phủ Ngọc Phan em ruột Hoàng Phủ
Ngọc Tường, Nguyễn Thị Đoan Trinh con gái của Cán Bộ cộng sản
Nguyễn Đóa, đôi này phải ghép chung vì chúng là một cặp bài
trùng song hành với nhau. Hai tên sát nhân này nằm trong bộ phận
“Giết Người Lưu Động”.
Cưỡi xe Honda, súng AK-47 đeo vai,
súng lục đeo ngang hông, nữ sát thủ Nguyễn Thị Đoan Trinh và tên
hung thần Hoàng Phủ Ngọc Phan cùng nhau lục soát khắp mọi nơi
trong thành phố, đặc biệt là vùng Quận III, khu vực có trường
Đại Học Y Khoa, khu phố Huế vùng Quận II, thứ đến là vùng Quận I
Thành Nội.
Hành động của 2 tên Phan, Trinh này rất dã man: chúng chận bất
kỳ ai trên đường hỏi giấy tờ, chỉ cần phát hiện người đối diện
là quân nhân, công chức, chính quyền VNCH, Cảnh Sát Quốc Gia,
lập tức nổ súng bắn chết ngay không cần hỏi câu thứ hai. Giết
xong mặt chúng lạnh như tiền, hành xử thật điệu nghệ như dân
giết người chuyên nghiệp trong phim ảnh.
Gần đây, Hoàng Phủ Ngọc Phan sợ sẽ bị
truy tố ra tòa án quốc tế về tội ác chiến tranh và tội diệt
chủng, phần vì nhục nhã ê chề nên đã đưa lên hệ thống internet
để chối tội như sau:
“Tôi không giết người, nếu ai có thể
đưa ra một tấm hình của tôi giống như hình Nguyễn Ngọc Loan bắn
đồng chí Bảy Lốp, tôi sẽ tự tử ngay”.
“Còn tôi thì có theo chiến dịch về
hoạt động ở Thành nội Huế nhưng tôi không hề giết ai cả, suốt
gần 10 năm đi kháng chiến cũng không hề làm thiệt mạng một con
thú trên rừng chứ đừng nói là con người. Vì lẽ:
Chúng tôi theo cách mạng trước tiên là
vì không thể sống chung với cái ác. Nếu chịu làm ác thì cứ nhảy
vào các binh chủng rằn ri của Thiệu-Kỳ hay đầu quân dưới trướng
của Liên Thành thì thiếu gì cơ hội?”
Xin hỏi tên sát nhân Hoàng Phủ Ngọc
Phan, ai dám đứng chụp hình mi đang xử bắn nạn nhân trong bối
cảnh Huế năm 1968, khi mi và Nguyễn Thị Đoan Trinh và bọn Vệ
Binh Đỏ của Nguyễn Đắc Xuân và đám Cán Binh Bắc Việt đang thống
trị Huế?
Mi
chưa giết ai ngay cả đến thú vật trong rừng? Vậy mi hãy đọc
những lời tường thuật trên của các nạn nhân và lo trả lời trước
tòa án quốc tế, còn lương tâm của mi là thứ lương tâm của tên Hồ
Chí Minh, tức là lương tâm của quỷ đỏ, xin miễn bàn hai chữ
lương tâm với mi.
Hoàng Phủ Ngọc Phan khỏi cần thề độc,
khỏi cần tự tử, vì một số nhân chứng là thân nhân của những nạn
nhân đã bị mi và Nguyễn Thị Đoan Trinh sát hại đã đệ đơn lên tòa
án quốc tế rồi. Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh,
hãy lo đối chất với các nhân chứng và tòa án quốc tế. Còn bây
giờ một lời thách thức nhảm nhí không thể gỡ gạc và che đậy nhân
phẩm cho mi, một tên Việt Cộng nằm vùng hạng bét chuyên nghề
giết mướn nay đã bị chủ vất ra khỏi vòng danh lợi.
Liên Thành
Về cuộc “Tổng tiến công Tổng nổi dậy” bất thành
MẬU
THÂN 1968 TẠI HUẾ
HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG
CỘNG SẢN
THUA CẢ 3 MẶT TRẬN: QUÂN
SỰ,CHÍNH TRỊ, TÌNH BÁO
Trong
vụ Tổng Công Kích nhân dịp Tết Mậu Thân 1968 vào Huế, cộng sản
Việt Nam hoàn toàn thất bại về tất cả mọi phương diện. Từ quân
sự, chính trị, tình báo, tuyên truyền... không những tại quốc
nội mà ngay hải ngoại. Mọi người thấy rõ bộ mặt gian manh xảo
quyệt tàn ác thô bạo của bọn đầu trộm đuôi cướp cộng sản Việt
Nam.
- Cộng
sản Việt Nam là một bọn Đại Khốn Kiếp: phỉnh gạt lệnh hưu chiến,
lợi dụng giờ phút thiêng liêng của cả một dân tộc, giờ Giao
Thừa, xé bỏ thỏa uớc hưu chiến mà chính bọn chúng đã tự đưa ra
trước với Chính phủ VNCH và Hoa Kỳ, xua quân tấn công toàn cõi
lãnh thổ miền nam Việt Nam trong đó có Thừa Thiên-Huế.
- Chủ trương của Hồ Chí Minh, Lê Duẩn
và Chính Trị bộ đảng cộng sản Việt Nam là chiếm Huế và vĩnh viễn
giữ Huế dùng Huế làm Thủ Đô cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam,
khi đó bọn Bắc Bộ Phủ mới có quyền lực để nghiêm chỉnh ngồi vào
bàn hội nghị tại Paris. Thế nhưng bọn chúng chiếm Huế không xong
mà giữ Huế cũng không được.
Chúng ta thử lần lượt xét qua
một số sự kiện:
1. MẶT TRẬN QUÂN SỰ
Trong suốt 22 ngày tấn công,với mười
ngàn quân [10,000] gồm có quân chủ lực của sư đoàn 324 B thuộc
Quân Khu Trị-Thiên, tăng cường Đoàn 31, ngoài ra còn các Trung
đoàn địa phương như trung Đoàn 4, Trung Đoàn 5 Đặc Công và Trung
Đoàn 6.
Đồng
thời có khoảng hai ngàn bảy trăm [2,700] quân, gồm quân du kích
của các Huyện Hường Trà, Phú Vang, Hưởng Thủy và đám sơ sở nội
thành Huế. Bọn chúng có 22 mục tiêu trong thành phố Huế cần
thanh toán:
- Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh tại Mang Cá thuộc Quận Thành Nội.
- Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Thừa Thiên.
- Quân Trấn Huế.
- Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa
Thiên-Huế.
-
Sân bay Thành Nội (Tây Lộc).
- Bộ Chỉ Huy MACV của quân đội Hoa Kỳ.
- Thiết Đoàn 7 tai An Cựu. Đơn vị Quân
Cụ tại Quận III. Đơn vị Công Binh ở Nam Giao, và khoảng 13 Cuộc
Cảnh sát.
Mặc
dầu bất thần tấn công, thế nhưng 22 mục tiêu mà bọn chúng đã
hoạch định bọn chúng đã bị quân trú phòng đẩy lui. Cộng quân đã
thiệt hại nhân mạng quá lớn lao mà không chiếm giữ được một mục
tiêu quân sự nào cả.
Trong suốt 22 ngày bọn chúng chỉ chiếm
được một số vị trí trong thành phố mà hoàn toàn không quan trọng
về mặt quân sự như các cửa ra vào nội thành, hay khu Đại Nội.
Ngược lại với cái giá nhân mạng phải trả là: Khoảng trên 8000
cộng quân đã bỏ mạng: Giờ đầu (2 giờ 33 phút sáng ngày mùng
2/2/1968) là 10 ngàn quân tấn công Huế, khi bắt đầu tháo chạy
vào đêm 25 rạng ngày 26/2 chỉ còn lại không quá 4 ngàn quân. Số
tàn quân này lại bị Sư Đoàn 101 Nhảy Dù Hoa Kỳ đợi sẵn ngoài
vòng đai phía tây bắc Huế giáng một đòn nặng nề nữa. Tàn quân
của bọn chúng chỉ còn không quá 2 ngàn, thất thểu, đói khát,
chạy thoát về hướng Hạ Lào. Một số cán binh chính quy, du kích
địa phương ra Hồi chánh đã khai báo rằng:
“Đại đơn vị bị thiệt hại quá nặng,
trên đường rút lui lại bị Nhảy Dù Hoa kỳ chận đánh tơi tả, số
chạy thoát được lại lâm vào cảnh chết đói vì không còn thực
phẩm, rất nhiều cán binh phải ăn rau cỏ dại trong rừng”.
Từ tháng
4/1968 Trung Tâm Chiêu Hồi Tỉnh Thừa Thiên tiếp nhận quá đông số
cán binh chính quy và du kích ra hồi chánh.
Như thế chúng ta thấy rõ Hà nội đã
thất bại nặng nề về mặt quân sự.
2. MẶT TRẬN CHÍNH TRỊ
Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, và Bộ Chính Trị
đảng cộng sản Việt Nam lại còn thất bại thê thảm hơn:
Hà Nội khai sinh lực lượng chính trị
thứ 2 là lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình (lực lượng
thứ nhất là MTGPMN) với hy vọng dùng lực lượng chính trị thứ 2
này để phỉnh gạt đồng bào Huế hầu phát động cuộc tổng nổi dậy,
và dùng cuộc tổng nổi dậy này làm lợi khí truyên truyền với đồng
bào quốc nội và với thế giới rằng dân chúng Miền Nam tại các đô
thị đã tự đứng lên chống lại chính phủ Thiệu-Kỳ và đế quốc Mỹ
xâm lược. Thế nhưng âm mưu và hy vọng đó đã không thành, chẳng
có cuộc tổng nổi dậy nào tại Huế vì bọn chúng đi đến đâu thì dân
chúng Huế bỏ chạy đến đó. Dân chúng Huế đã quá kinh tởm bọn cộng
sản.
Vì không
thực hiện được trò hề “tổng nổi dậy” nên bọn cộng sản trở nên
điên tiết, đi từ sai lầm này đến sai lầm khác và cuối cùng dẫn
đến thất bại trầm trọng khi áp dụng “bạo lực cách mạng” hay “bạo
lực đỏ” để răn đe dân chúng Huế. Kết quả của cuộc “tổng nổi dậy”
bất thành, và là những nấm mồ tập thể của hàng ngàn đồng bào vô
tội. Dân Huế oán hận thấu xương, thế giới kinh hoàng về hành
động giết người quá dã man tàn bạo của đảng cộng sản Việt Nam.
Việc chôn sống 3 bác sĩ người Đức,
giáo sư Đại học Y khoa Huế, chôn sống một số tu sĩ người Pháp,
người Canada của tu viện Thiên An đã làm rúng động cả thế giới,
nhất là dân chúng Đức. Họ bàng hoàng kinh ngạc, họ hỏi tại sao
lại chôn sống 3 vị bác sĩ và vợ của một trong 3 bác sĩ đó của
họ. Ba bác sĩ đó qua Việt Nam với tấm lòng bác ái, săn sóc, chữa
trị và cứu sống hằng ngàn bệnh nhân tại Bệnh viện Huế, tại sao
lại trả ơn họ bằng cách đem họ đi chôn sống? Câu trả lời không
gì khác hơn rằng bọn cộng sản là bọn man rợ có biết gì đến nhân
nghĩa ở đời? Chúng thật sự là phường thảo khấu được trang bị
súng đạn mà trở thành cái gọi là chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa rồi, sau 30/4/1975, cái gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam.
Vậy
gọi là chiến thắng chính trị sao đảng cộng sản Việt Nam?
3. MẶT TRÂN TÌNH BÁO
Ước tính sai lầm của Bộ Chính Trị đảng
cộng sản Việt Nam, của Hồ Chí Minh, của Lê Duẩn về cuộc tổng nổi
dậy tại Huế.
Trong một hai ngày đầu cộng quân tưởng đã chiến thắng, nên toàn
bộ cơ sở bí mật của bọn tình báo cộng sản từ thượng tầng đến hạ
tầng đều xuất đầu lộ diện. Ngay cả các cơ sở bí mật của 8 Chi Bộ
Đảng cộng sản hoạt động âm thầm từ lâu lắm trong thành phố Huế
cũng xuất đầu lộ diện tích cực hoạt động. Tất cả bọn chúng phải
công khai xuất hiện để dồn nỗ lực cho chiến dịch “bạo lực cách
mạng”.
Khi
lực lượng quân sự của Hồ Chí Minh thua trận, bản thân bọn cán
binh cộng sản chúng phải chạy vắt chân lên cổ trước sự phản công
vũ bão của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thì làm sao có thể bảo vệ
được đám thượng tầng và hạ tầng cơ sở này. Một số bọn chúng chạy
theo lực lượng quân sự lên mật khu. Một số lớn bị kẹt lại. Số bị
kẹt lại đã bị lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt/BCH/CSQG Thừa Thiên
lùa bọn chúng như lùa một bầy chó vào chuồng đem ra nhốt ngoài
Côn Đảo.
Như
vậy là Hồ Chí Minh, đảng cộng sản Việt Nam và cơ quan tình báo
của bọn chúng đã thua sạch sẽ, thua trắng tay, thua phá sản. Hệ
thống tình báo mà bọn chúng đã dày công xây dựng hằng bao nhiêu
năm, nay đã cháy tan tành, cháy rụi!
Yếu tố để thành công trong cuộc chiến
tranh du kích là hạ tầng cơ sở. Nay sau Mậu Thân tại Thừa
Thiên-Huế không còn một mống hạ tầng cơ sở nào thì lấy gì tiến
hành cuộc chiến du kích?
Do đó Thừa Thiên-Huế sau Mậu Thân 1968
có một khoảng thời gian rất dài yên bình. Muốn tìm hoặc phát
hiện hoạt động của cán bộ cộng sản thật là khó vì các hoạt động
này đã bị tê liệt. Cán bộ của bọn chúng từ mật khu không cách gì
về đồng bằng hoạt động được vì không có hạ tầng cơ sở.
Tóm lại niềm mơ uớc một chiến thắng
Mậu Thân 1968 tại Huế của Hồ Chí Minh và Chính Trị Bộ đảng cộng
sản Việt Nam chỉ còn là một ảo tưởng.
Liên Thành
Bấm vào đây để in ra giấy (PDF)
Những
bài liên hệ
Từ Xuân Đó... Tết Mậu Thân 1968
Năm mươi năm hát trên những xác người
50 Năm cuộc Thảm Sát Mậu Thân (1968-2018)
Thư gửi Nguyễn Phú Trọng, Trần Đại Quang và Nguyễn Xuân Phúc
Những giờ phút Bình yên cuối cùng và Diễn tiến
Mặt trận Huế
Chiếm lại Con đường, Cửa Sập. Chiếm lại Kỳ Đài
Xuân Mậu Thân Đau Thương
Diễn tiến cuộc Thảm sát ở Giai đoạn II tại Huế vào Mậu Thân 1968
Hoàng Phủ Ngọc Tường sắp chết vẫn nói dối
Gởi Thầy Hoàng Phủ Ngọc Tường
Mồ tập thể đầu tiên bên Sông Hương 1968
Mậu Thân-Huế, anh Em Hoàng Phủ Ngọc Tường và Người vẽ đường hươu chạy...
Vì sao chính quyền cộng sản Việt Nam không muốn nhắc đến...
Đi Nhận Xác Thầy
Chiến thắng mùa Xuân Mậu Thân 1968 của ĐCSVN và Nguyễn Đắc Xuân
Trung tâm lưu trữ các Ngày lễ mừng Bổn mạng BCND/QLVNCH...
|
Hình nền: Bản đồ VIỆT NAM hoàn toàn. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Liên Thành chuyển
Đăng ngày Thứ Ba,
February 6, 2018
Cập nhật hóa ngày Thứ Ba, February 13, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang