Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bài
Phóng sự
Chủ đề:
NS Lê Dinh
Tác giả:
Điệp Mỹ Linh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Bài
phỏng vấn này được thực hiện – năm 2015 – chỉ với mục đích tìm
hiểu về những nhận xét của một trong ba nhạc sĩ tài danh của Nhóm
Lê Minh Bằng đối với Nền Âm Nhạc Việt Nam từ trước và sau năm
1975.
Điệp Mỹ
Linh – Kính chào nhạc sĩ Lê Dinh. Thưa anh, từ cuối thập niên 90,
em được hân hạnh gặp anh và cô Đan Thi tại Canada. Vào dịp đó cô
Đan Thi đã dành cho em một cuộc phỏng vấn. Từ đó, Điệp Mỹ Linh
được hân hạnh cộng tác với nguyệt san Nghệ Thuật do anh làm chủ
bút và chủ nhiệm. Đến đầu tháng Tư/2015 – sau gần 20 năm – em mới
được gặp lại anh, trong dịp anh sang Houston ra mắt DVD. Để mở
đầu bài phỏng vấn này, xin anh vui lòng cho độc giả biết về tiểu
sử của anh.
Lê
Dinh – Tôi được sinh ra tại làng Vĩnh Hựu, Gò Công; Cha là nhà
giáo, Mẹ nội trợ. Thuở nhỏ, tôi học trường Gò Công; sau đó lên Mỹ
Tho học trường Collège Le Myre de Vilers rồi học trường Cao Đẳng
Vô Tuyến Điện (Ecole Supérieure de Radio Electricité) tại Sài
Gòn.
Thời gian
theo học trường Cao Đẳng Vô Tuyến Điện, tôi học hàm thụ âm nhạc
tại trường École Universelle de Paris, Pháp.
Năm 1954, tôi tốt nghiệp trường Cao
Đẳng Vô Tuyến Điện; vì chưa có việc làm, tôi dạy Pháp văn và âm
nhạc tại các trường tư thục ở Gò Công và Chợ Lớn.
Năm 1956, tôi làm việc tại Đài Phát
Thanh Sài Gòn cho đến đầu năm 1975, với chức vụ Chủ Sự Phòng Sản
Xuất (Production Section) rồi Phòng Điều Hợp (On Air Section) của
Đài.
Vì lý do
riêng, tôi xin nghỉ việc từ ngày 01/01/1975 cho nên không bị cộng
sản nhốt tù. Sau 30/04/1975 tôi bị tù ở trại Phan Đăng Lưu vì vài
lần vượt biên bị thất bại; nhưng vì tôi ghi nghề nghiệp là bán
thuốc Tây cho nên cũng không bị đưa đi cải tạo.
Đến năm 1978 tôi vượt biên thành công.
Điệp Mỹ Linh – Xin anh cho biết một
cách khái quát về những sinh hoạt văn nghệ của anh trước năm
1975.
Lê Dinh
– Tôi bắt đầu sáng tác nhạc từ năm 1956. Nhạc khúc đầu tiên là
Làng Anh, Làng Em; rồi sau đó là những bài như Ngày Ấy Quen Nhau,
Ngang Trái, Xác Pháo Nhà Ai, Cánh Thiệp Hồng, Tấm Ảnh Ngày Xưa,
Thương Đời Hoa, v.v.
Thời gian làm việc ở Đài Phát Thanh Sài
Gòn, tôi quen với nhạc sĩ Minh Kỳ. Tôi cùng với nhạc sĩ Minh Kỳ
sáng tác nhiều ca khúc như Tiếng Hát Mường Luông, Đường Chiều Sơn
Cước, Đường Về Khuya, Cánh Thiệp Đầu Xuân, Hạnh Phúc Đầu Xuân,
v.v.
Sau đó,
tôi quen với nhạc sĩ Anh Bằng và hợp tác viết những ca khúc như:
Nếu Ai Có Hỏi, Chỉ Hai Đứa Mình Thôi Nhé, Nếu Hai Đứa Mình, Đôi
Bóng, v.v.
Điệp Mỹ Linh – Thưa anh, nguyên nhân nào, động lực nào thúc đẩy
ba nhạc sĩ Minh Kỳ, Lê Dinh và Anh Bằng thành lập nhóm Lê Minh
Bằng?
Lê Dinh
– Khi quen với anh Minh Kỳ và anh Anh Bằng, mỗi người trong chúng
tôi cũng đã có một số tác phẩm riêng rẽ của mình rồi. Nhưng tôi
nghĩ, cứ mãi viết chung 2 người – giữa tôi với anh Minh Kỳ hay
giữa tôi với anh Anh Bằng – thì không có lợi, không hay hơn,
không mạnh hơn là cả ba người cùng hợp tác với nhau mà sáng tác,
lấy tên chung là Lê Minh Bằng. Nhưng, có một điểm ít người biết
là, ngoài biệt danh Lê Minh Bằng – mà sáng tác đầu tiên là bài
Đêm Nguyện Cầu (1966) – chúng tôi còn có rất nhiều biệt danh khác
như Mạc Phong Linh, Mai Thiết Lĩnh, Mai Bích Dung, Dạ Cầm, Trúc
Ly, Dạ Ly Vũ, Vũ Chương, Tôn Nữ Thụy Khương, Phương Trà, Giang
Minh Sơn, Nhật Nguyệt Hồ, v.v. Những bài chúng tôi dự đoán là sẽ
không được thính giả tha thiết lắm – nói một cách khác là sẽ
không “ăn khách” – chúng tôi không lấy tên Lê Minh Bằng mà lấy
một trong những biệt danh như đã đề cập. Nhưng không ngờ, trong
số những bài chúng tôi không dùng biệt danh Lê Minh Bằng lại được
nhiều người ái mộ, số bài ấn hành lên đến cả trăm ngàn bài, như:
Truyện Tình Lan và Điệp (Mạc Phong Linh & Mai Thiết Lĩnh), Linh
Hồn Tượng Đá (Mai Bích Dung), v.v.
Điệp Mỹ Linh – Xin anh cho biết những
kỷ niệm đáng nhớ nhất giữa anh và hai nhạc sĩ Minh Kỳ và Anh
Bằng.
Lê Dinh
– Trong suốt 9 năm thành lập nhóm Lê Minh Bằng, chúng tôi sống
với nhau rất vui vẻ, hòa thuận. Tôi là người miền Nam, anh Minh
Kỳ là hoàng tộc, còn anh Anh Bằng, từ một làng xa xôi tận miền
ranh giới Việt–Trung; Nam Trung Bắc hợp thành một nhóm rất hài
hòa.
Một kỷ
niệm đáng nhớ nhất là nguồn gốc của bài Linh Hồn Tượng Đá mà đôi
lần tôi đã kể cho thính giả và độc giả nghe: Một cuối tuần, anh
Minh Kỳ, anh Anh Bằng và Lê Dinh rủ nhau ra Vũng Tàu chơi cho
khuây khỏa và cũng để tìm cảm hứng sáng tác. Khi xe chúng tôi đến
bãi Trước, chỗ Ty Bưu Điện, chúng tôi thấy ba cô gái mặc áo dài
đang đi dưới nắng trưa nóng của Vũng Tàu. Anh Anh Bằng lái xe.
Anh Minh Kỳ ngồi phía trước. Bất ngờ anh Minh Kỳ nói với anh Anh
Bằng: “Bằng, Bằng dừng xe lại cho ba cô đó lên xe đi chung với
mình. Tội quá, nắng chư vầy mà 3 cô đi bộ tội nghiệp quá!” Vì
tính hơi nhác, anh Anh Bằng bảo: “Thôi, ông đi đi, tôi không đi
đâu”. Anh Minh Kỳ nói: “Thôi, dừng xe lại để ‘moi’ đi cho”. Nói
rồi, anh Minh Kỳ xuống xe và không biết anh Minh Kỳ nói gì với 3
cô đó mà 3 cô vui vẻ, đồng ý lên xe. Vì phía băng trước có anh
Minh Kỳ ngồi, cho nên 3 cô phải ngồi ở băng sau với tôi. Tôi hỏi
tên 3 cô và tại sao đi bộ dưới nắng trưa như vậy? Cô ngồi kế bên
tôi cho biết cô tên là Mai, cô kế là Bích và cô bên kia là Dung.
Tất cả 3 cô đều là sinh viên Khoa Học, đi Vũng Tàu tìm con sứa để
về trường thí nghiệm.
Chúng tôi chở 3 cô ra bãi Sau, mời 3 cô
vào quán dùng cơm trưa. Ăn xong, 3 cô xuống mé biển tìm sứa. Sau
đó chúng tôi đưa 3 cô ra bến xe Vũng Tàu trở về Sài Gòn. Đêm đó
chúng tôi về khách sạn, anh Anh Bằng là người đề xướng việc viết
bài Linh Hồn Tượng Đá, lấy tên tác giả – tên của 3 cô ghép lại –
là Mai Bích Dung. Chúng tôi cùng hòan tất bài Linh Hồn Tượng Đá
ngay đêm đó. Mặc dù, trong bài có câu “Không bao giờ gặp lại lần
thứ hai”, nhưng thật ra chỉ đúng với tôi và anh Minh Kỳ thôi; còn
anh Anh Bằng thì, sau khi nhạc khúc được in ra, anh Anh Bằng mang
đến trường, tặng 3 cô, mỗi người một bổn.
Bây giờ, nửa thế kỷ sau, tôi được biết,
qua cô Mai – tên thật là Mai Xuân Lan – hiện đang ở tiểu bang
Ohio, thành phố Cleveland; cô Dung còn ở Việt Nam; và cô Bích cư
ngụ tại tiểu bang Arizona. Chỉ có cô Mai Xuân Lan thỉnh thoảng
liên lạc với tôi.
Điệp Mỹ Linh – Thưa anh, với nhiều thập
niên sinh hoạt trong giới nghệ sĩ trình diễn cũng như nghệ sĩ cầm
bút, có kỷ niệm nào anh cho là vui nhất và kỷ niệm nào anh cho là
buồn nhất?
Lê
Dinh – Đối với nghệ sĩ như chúng tôi, mà nghệ sĩ cũng là người
bình thường, trong một quốc gia có chủ quyền, dành cho người dân
đầy đủ quyền hạn. Mọi người dân được sống hạnh phúc, tự do, yên
bình trong suốt 9 năm dưới thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)
do Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo; và sau đó, dưới thời Đệ
Nhị Cộng Hòa, dù bị Việt cộng gây chiến, phá hoại, nhưng người
dân cũng vẫn được sống sung túc, ấm no. Đó là niềm vui của chúng
tôi – chúng tôi được tự do sáng tác.
Một kỷ niệm vừa vui mà cũng vừa buồn
khác là khi thành lập nhóm Lê Minh Bằng, chúng tôi cũng đã nghĩ
tới việc hợp tác giữa 3 người – theo quan niệm thông thường thì
sẽ không thể kéo dài được – nhưng từ năm 1966 cho đến năm 1975,
chúng tôi sống với nhau như anh em một nhà. Nếu không có ngày 30
tháng Tư năm 1975, có lẽ nhóm Lê Minh Bằng vẫn còn có mặt cho đến
ngày nay. Nhưng 9 năm sau ngày thành lập nhóm Lê Minh Bằng, chúng
tôi mới vỡ lẽ ra rằng người xưa nói không sai. Ngày 30/04/1975,
anh Anh Bằng không có ý định di tản thì lại di tản; vì lúc đó anh
đang ở ngoài Vũng Tàu, rất thuận lợi cho việc chạy trốn cộng sản.
Còn anh Minh Kỳ thì quả quyết rằng nếu Việt cộng vô, anh sẽ chạy
trốn ngay – vì anh là đại úy Cảnh Sát – và dắt theo đứa con trai
để nối dòng. Nhưng nghiệt ngã thay, anh đã không kịp chạy trốn
cộng sản để rồi 4 tháng sau, anh chết một cách tức tưởi, oan
khiên bởi cộng sản, ở tuổi chỉ mới 45! Đó là nỗi buồn không nguôi
của tôi. Câu người xưa nói “Làm gì mà có 3 người thì sẽ thất
bại”, nhưng chúng tôi thành công trong 9 năm, rồi mới có sự chia
ly, chết chóc. Nhưng đó không chỉ là một kỷ niệm buồn riêng của
hai người còn lại trong nhóm ba anh em chúng tôi mà còn là nỗi
buồn to lớn của cả một dân tộc bất hạnh.
Điệp Mỹ Linh – Anh vui lòng cho biết về
những sáng tác của anh sau năm 1975.
Lê Dinh – Từ ngày cộng cản Việt Nam
cưỡng chiếm miền Nam, tôi ngưng sáng tác ra giấy, nhưng có ý
tưởng trong đầu và sáng tác trong trí vài ca khúc, mở đầu cho
Mười Bài Hận Ca.
Tháng 08/1978, vượt biển đến Đài Loan,
tôi mới viết tiếp, hoàn tất tập Mười Bài Hận Ca. Nhưng toàn bộ 10
bài này không được thu thanh, vì lúc đó không có phương tiện, chỉ
thu được vài bài như: Tiếng Hát Ly Hương (Phương Hồng Hạnh), Thân
Phận Ly Hương (Phương Hồng Hạnh), Lời Người Xa Xứ (Đoàn Chính).
Sau khi định cư tại Montreal, Canada,
tôi mới bắt đầu sáng tác trở lại. Những ca khúc sau đây được ra
đời: Thương Về Gò Công, Sao Anh Không Nhớ Gò Công, Chữ Tình, Huế
Buồn, v.v.
Sau
đó tôi sáng tác khoảng 50 bài mà khán thính giả ít có dịp nghe vì
phương tiện phổ biến chỉ trên trang nhà, tên là Website Lê Dinh
(http://www.ledinh.ca).
Điệp Mỹ Linh – Thưa anh, nguyên do nào
thúc đẩy anh – một nhạc sĩ chuyên nghiệp – trở thành chủ nhiệm
kiêm chủ bút Nguyệt San Nghệ Thuật và phụ trách Chương Trình Đài
Phát Thanh?
Lê
Dinh – Năm 1994, nhận thấy tình trạng báo chí ở hải ngoại ít có
báo chuyên về văn nghệ, nhất là âm nhạc, cho nên tôi thực hiện ý
định xuất bản Nguyệt San Nghệ Thuật mà đường lối nặng về âm nhạc,
văn chương rồi kế đến mới là tin tức, thời sự, quan điểm, v.v.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn, tôi cũng giữ tờ báo được 13 năm.
Nhưng, vì tình trạng sức khỏe, tôi phải tự đình bản, năm 2007.
Thời điểm tôi thành lập Đài Phát Tiếng
Nói Việt Nam tại Montreal là lúc thành phố Montreal chưa có đài
tiếng Việt nào cả. Tôi hợp tác với một người cũng làm việc ở Đài
Phát Thanh Sài Gòn trước 1975 là ông Lê Thái, tên thật là Lê Thái
Tuế, thành lập đài Tiếng Nói Việt Nam. Thời gian đó Nguyệt San
Nghệ Thuật đã ra đời. Tôi lấy bài đọc trên đài và lấy bài của đài
bổ túc cho báo, nhờ vậy đỡ rất nhiều công viết bài. Nhưng cũng vì
lý do sức khỏe, tôi và anh Lê Thái nhường Đài Phát Thanh lại cho
một người khác.
Điệp Mỹ Linh – Theo em được biết, thập
niên 50/60, ông Hồ Đình Phương đặt lời ca cho nhiều tác phẩm của
nhiều nhạc sĩ và cố nhạc sĩ Minh Kỳ. Anh có tình khúc nào do ông
Hồ Đình Phương viết lời ca hay không?
Lê Dinh – Nhà thơ Hồ Đình Phương làm
việc chung với anh Minh Kỳ ở Nha Trang – lúc anh Minh Kỳ chưa vào
Sài Gòn – cho nên một số nhạc phẩm thời đó của anh Minh Kỳ do anh
Hồ Đình Phương viết lời. Tôi không quen với anh Hồ Đình Phương
cho nên không có bài nào của Lê Dinh được Hồ Đình Phương viết lời
cả.
Điệp Mỹ
Linh – Xin anh cho biết anh nhận xét như thế nào về lời ca do ông
Hồ Đình Phương viết?
Lê Dinh – Tôi nghĩ, vì anh Hồ Đình
Phương là một nhà thơ và có lẽ cũng hiểu biết nhạc, cho nên Ông
viết lời ca cho nhạc rất hay. Lời thơ giản dị dễ hiểu, rất hợp độ
cao thấp với từng nốt nhạc. Bởi vậy, chúng ta thấy ngoài anh Minh
Kỳ, nhà thơ Hồ Đình Phương cũng soạn lời ca cho nhạc sĩ Hoàng
Trọng và một số nhạc sĩ khác.
Điệp Mỹ Linh – Thưa, anh xử dụng được
những nhạc cụ nào? Khi sáng tác nhạc anh thường dùng nhạc cụ nào?
Lê Dinh – Tôi có thể xử dụng nhiều loại
đàn giây; nhưng tôi chuyên về Tây Ban Cầm. Khi sáng tác, Tây Ban
Cầm là người bạn tri âm. Khi có đề tài trong đầu, Tây Ban Cầm
giúp tôi thêm hồn nhạc, hồn thơ. Bấm lên Tây Ban Cầm một hợp âm,
ta có ngay những âm điệu dễ thương với âm giai đó.
Điệp Mỹ Linh – Xin anh vui lòng cho
biết anh nghĩ như thế nào về nền âm nhạc Việt Nam trước năm 1975
và sau 1975.
Lê Dinh – Những ca khúc đầu tiên mà các bậc tiên liệt của nền âm
nhạc Việt Nam để lại – được gọi là nhạc cải cách – như Một Kiếp
Hoa (Nguyễn văn Tuyên & Nguyễn văn Cổn), Khúc Yêu Đương (Thẩm
Oánh) Bình Minh (Nguyễn Xuân Khoát), Bản Đàn Xuân (Lê Thương),
Tâm Hồn Anh Tìm Em (Dương Thiệu Tước), Bóng Ai Qua Thềm (Văn
Chung), Thu Trên Đảo Kinh Châu (Lê Thương), v.v. chúng ta thấy,
dù đã ra đời hơn 80 năm, từ thời âm nhạc còn phôi thai cho đến
nay, nhưng những tình khúc này nghe rất có hồn, lời lẽ tuy không
trau chuốt văn chương nhưng không khó nghe và lai căng như bây
giờ. Chẳng hạn như bài “Thu Trên Đảo Kinh Châu” của Lê Thương,
một bài mang âm hưởng nhạc Nhật thời đó, tuy được soạn sau, nhưng
cũng được xem như là một trong những ca khúc đầu tiên của gia tài
âm nhạc Việt Nam.
Nhắc lại tác giả và những nhạc phẩm của
họ để chúng ta thấy rằng, tuy là những ca khúc đầu tiên, khởi
thủy của nền âm nhạc Việt Nam lúc còn phôi thai, nhưng vẫn có một
giá trị không thể thay thế được.
Tiếp theo thời kỳ âm nhạc phôi thai,
hay âm nhạc cải cách, là giai đoạn nhạc được gọi là nhạc tiền
chiến mà tôi nghĩ rằng vài trăm năm sau nữa vẫn còn được nhắc nhở
tới. Những tác giả như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Hoàng Giác, Dzoãn
Mẫn, Hoàng Quý, Nguyễn Văn Thương, Phan Huỳnh Điểu, Nguyễn văn
Tý, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Thương, v.v. đã để lại cho
chúng ta một gia sản âm nhạc đồ sộ, chỉ trong vòng có 20 năm ngắn
ngủi. Lời ca thật nên thơ, trữ tình, như:
Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên
sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc lối đào
nguyên... (Thiên Thai của Văn Cao)
Suối mơ, bên rừng Thu vắng
Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng...
(Suối Mơ của Văn Cao)
Ngoài hiên giọt mưa Thu thánh thót rơi
Trời nắng u buồn, mây hắt hiu ngừng trôi...
(Giọt Mưa Thu của
Đặng Thế Phong)
Biệt ly, nhớ nhung từ đây
Chiếc là rơi theo heo may...
(Biệt Ly của Dzoãn Mẫn)
Âm điệu du dương, uyển chuyển, tha
thiết, thấm vào lòng người; lời ca sao mà lãng mạn, yêu đương,
tình tứ, ngọt ngào đến như thế!
Rồi đến giai đọan nhạc kháng chiến
(nhạc cách mạng), một loại nhạc hừng hực lửa của thời toàn dân
đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp. Những tác giả tiêu biểu cho thể
loại nhạc hùng tráng như đánh thẳng vào lòng người này có Phạm
Duy, Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Hoàng Quý, Lê Yên, Phạm Duy Nhượng,
Phạm Đình Chương, Văn Giảng, v.v. Nhưng phải công nhận rằng Phạm
Duy là người có tác phẩm âm nhạc cổ xúy tinh thần tranh đấu nhiều
nhất, hay nhất. Làm sao chúng ta quên được, dù 1000 năm sau,
những âm điệu và lời ca như:
Này, bao hùng binh tiến lên!
Bờ cõi vang lừng câu quyết chiến...
(Xuất Quân của Phạm Duy)
... Hò ới! Hò ơi! Chiều khô nước mắt
rưng sầu
Tan thân thiếu phụ, nát đầu hài nhi...
(Về Miền Trung của Phạm Duy)
Rồi 1954 ập đến, nền âm nhạc cũng như
các lãnh vực khác, một nửa phát triển mạnh mẽ ở miền Nam tự do,
phóng khoáng và một nửa bị chôn vùi trong chốn ngục tù miền Bắc,
sau bức màn tre. Một số đông nhạc sĩ miền Bắc đã vào Nam, cùng
với những nhạc sĩ đang sống dưới chính thể Đệ nhất Cộng Hòa, kết
hợp thành một lực lượng sáng tác mạnh nhất, vững chãi nhất, nhân
bản nhất và lãng mạn nhất.
Trong khi đó, miền Bắc với chính sách
bịt miệng và láo khoét, cho nên nhạc sĩ miền Bắc viết toàn những
bài ca tụng bác Hồ một cách gàn dở, vô duyên, không thể nào lọt
vào tai thính giả được. Chỉ một mình nhạc sĩ Thuận Yến mà có đến
26 bài ca ngợi bác Hồ. Ngoài ra còn có những Đỗ Nhuận, Phạm
Tuyên, Vân An, Trần Hoàn, Lưu Cầu, Trọng Loan, Phong Nhã, Huy
Thục, Lê Lôi, Chu Minh, v.v. sáng tác những ca khúc tuyên truyền,
đề cao cộng sản một cách lố bịch. Cả những nhạc sĩ có tài như Văn
Cao, Lưu Hữu Phước, Phan Huỳnh Điểu, Đỗ Nhuận, v.v. cũng bị lôi
cuốn vào công tác viết những ca khúc thuộc loại “bưng bô” này.
Chúng ta thấy Văn Cao với Ca Ngợi Hồ Chủ Tịch, Lưu Hữu Phước với
Tình Bác Sáng Đời Ta, Phan Huỳnh Điểu với Nhớ Ơn Bác, Đỗ Nhuận
với Bé Yêu Bác Hồ, v.v. Những tác giả tài hoa này hiểu rằng: Nếu
không viết nhạc và lời để ca tụng và tung hô bác Hồ thì sẽ không
có gạo mà ăn! Chỉ cái áo và đôi dép của bác thôi mà cũng có đến 5
bài hát nói về áo và dép này. Chỉ còn thiếu cái áo lót của bác
thì chưa có nhạc mà thôi!
Tại miền Nam, dưới thời đệ Nhất Cộng
Hòa – và luôn cả thời Đệ Nhị Cộng Hòa – miền Nam Việt Nam chỉ có
duy nhất một bài ca tụng cá nhân vị nguyên thủ quốc gia mà thôi.
Đó là bài Suy tôn Ngô Tổng Thống của Ngọc Bích và Thanh Nam.
Nhưng, đây không phải là chủ trương của chính phủ miền Nam đề ra
để bắt buộc văn nghệ sĩ sáng tác ca tụng lãnh tụ; mà đó là ý nghĩ
riêng của hai tác giả, vì muốn tỏ lòng biết ơn người đã khó khăn
lắm mới đem đến sự an cư lạc nghiệp cho gần một triệu đồng bào di
cư từ miền Bắc.
Từ năm 1975 cho đến nay, âm nhạc của
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là một sự tuột dốc thảm
hại! Điều nhận xét này của Lê Dinh không phải vì định kiến chính
trị mà điều nhận xét này căn cứ vào âm hưởng và lời ca của những
bản nhạc Việt Nam – do nhạc sĩ trong nước sáng tác – được phổ
biến rộng rãi.
Mở YouTube, bấm vào bất cứ bài nào được
sáng tác tại Việt Nam ngày nay, quý vị sẽ thấy tôi không quá lời.
Mời quý vị bấm vào bất cứ bài nào do Cẩm Ly hát, thí dụ bài Chồng
Xa, quý vị sẽ nghe lời ca quá buồn cười, giống như lời đối thọai
trong một vở tuồng cải lương hạng bét: “Dậy đi mua đồ nấu canh
chua về cho Ba mầy bữa cơm trưa...”
Về âm điệu, chúng tôi đố người Việt tự
do ở hải ngoại nhớ được một câu nhạc nào đó, trong bất cứ ca khúc
nào ở Việt Nam bây giờ. Tại sao không nhớ được? Xin thưa vì đó
không phải là âm điệu mà là những nốt nhạc khác nhau, bỏ chung
vào một cái túi rồi rút ra 5, 6, 7 hoặc 8 nốt, ráp lại cho thành
một câu nhạc thôi. Trong khi đó, quý vị thử lấy một bài nào đó
của miền Nam, trước 1975, như:
“Xuyên lá cành trăng lên lều vải.
Lòng đất ấm thương tình đôi mươi...”
(Tình Anh Lính Chiến của Lam
Phương)
...
Đây những chiều hành quân
Xóm nghèo dừng
chân
Nhớ thương mẹ già nơi quê nhà xa
xôi lắm... (Chiều Biên Khu của Tuấn Khanh)
Thượng Đế hỡi có thấu cho Việt Nam này,
Nhiều sóng gió trôi dạt lâu dài...
(Đêm Nguyện Cầu của Lê Minh
Bằng)
Chúng ta
nghe sao mà tha thiết quá, du dương quá và dễ nhớ, dễ thuộc, dễ
thương, dù cho cả đời mình hay một trăm năm sau cũng khó quên
được.
Về phần
ca sĩ trình bày – người bên Việt Nam gọi là “thể hiện” – phải nói
một cách công bằng, vì là nơi đông dân số, gần 90 triệu người,
thì làm sao không có ca sĩ hát hay. Nhưng tiếc thay, có một số
đông chỉ biết la, hét, hét toáng lên, khiến người nghe không biết
họ hát cái gì. Và họ hay uốn éo ở chữ cuối câu (fioritures), có
người còn ẹo ở giữa câu, nghe rất khó chịu. Việc điểm fioritures
này – tức là láy – người viết nhạc chỉ dùng khi nào thật cần
thiết thôi. Nếu tác giả không để thêm nốt fioritures thì ca sĩ
đừng nên tự động láy, tự động uốn éo, tự động õng ẹo, tưởng rằng
hát như vậy là lả lướt; nhưng lả lướt không đúng chỗ, nghe không
được. Người mình có tài hay bắt chước và bắt chước giỏi. Cái uốn
éo này xuất xứ từ nhạc Âu Mỹ, nhưng mà với lời ca tiếng ngoại
quốc và cũng tùy thuộc chữ nào, ý nghĩa ra sao, thì nghe được,
chứ cứ uốn éo tự do, uốn éo lung tung, bất kể quân thần thì không
hợp với lời Việt chút nào.
Lý do ca sĩ Việt Nam trong nước bây giờ
hát khó nghe vì cách viết lời ca của đa số nhạc sĩ “lớp ba trường
làng”, “trẻ tuổi tài cao” của thời Xã Hội Chủ Nghĩa này: Chỗ nốt
cao thì để chữ dấu huyền hay dấu hỏi, còn chỗ nốt thấp thì để chữ
dấu sắc, hay dấu ngã. Viết lời ca như thế thì chỉ có “giết” ca sĩ
mà thôi; bởi ca sĩ không thể nào truyền đạt cho thính giả hiểu
được mình hát cái gì. Hát mà người nghe không hiểu gì thì hát làm
chi?
Gần nửa
thế kỷ qua, thời gian đủ dài để những “đỉnh cao trí tuệ” giết
chết tất cả, từ chữ nghĩa, văn hóa, đạo đức cho đến âm nhạc.
Riêng về âm nhạc, họ đã vùi dập bao nhiêu công lao của những
người đi trước, trải qua bao thế hệ, từ thời kỳ âm nhạc cải cách,
đến nhạc mới hay tân nhạc, rồi nhạc vàng – danh từ cộng sản Việt
Nam gọi nhạc miền Nam từ 1954 đến 1975 mà họ đã cố tình tiêu diệt
nhưng không được – và nay là nhạc của thời Xã Hội Chủ Nghĩa, của
thời: “Dậy đi mua đồ nấu canh chua về cho Ba mày bữa cơm trưa”!
Điệp Mỹ Linh – Thưa anh, em từng chơi
Accordéon trong Ban Ca Nhạc Bình–Minh Đài Phát Thanh Nha Trang,
do Ba em – Cụ Điệp Linh Nguyễn Văn Ngữ – thành lập, từ cuối thập
niên 50 đến đầu thập niên 60. Ngày xưa Ba em thường bảo rằng: Âm
nhạc phải đi đôi với văn chương và văn hóa. Anh có nghĩ rằng vì thiếu văn hóa cho
nên ý tưởng văn chương không nảy nở trong hồn những nhạc sĩ dưới
thời Xã Hội Chủ Nghĩa – ngoại trừ những nhạc sĩ “hàng đầu” như
Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phan Huỳnh Điểu, v.v. phải ca tụng Bác Hồ
để có miếng ăn – vì vậy, những nhạc sĩ trong nước đều viết lời ca
quá kệch cỡm, quá thấp kém hay không?
Lê Dinh – Đúng! Thân phụ cô Điệp Mỹ
Linh nhận xét không sai.
Ngày xưa, trước 1975, nhạc sĩ miền Nam
viết ca khúc, nhạc ra nhạc, lời ca ra lời ca. Âm điệu của những
bài hát thời VNCH nghe như tiếng suối reo, như tiếng sáo diều êm
ái, diễn đạt được tâm trạng của nhạc sĩ. Lời ca bóng bẩy, trau
chuốt, nhưng không dùng sáo ngữ và nhất là không nghịch với nốt
nhạc cho nên ca sĩ dễ hát, dễ diễn tả. Chẳng hạn như:
Qua bến nước xưa lá hoa về chiều,
Lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa...
(Nắng Chiều của Lê Trọng
Nguyễn)
Trong
khi đó đa số những bài hát bây giờ, dưới thời Xã Hội Chủ Nghĩa,
nhạc thì đâm lên đâm xuống vô trật tự, không căn bản, như lấy vật
gì nhọn chích vào tai chúng ta. Nhạc dưới thời XHCN thiếu hẳn
tiết tấu của một dòng nhạc, không theo luât lệ sáng tác.
Còn lời ca – đúng như cụ Điệp Linh
Nguyễn Văn Ngữ nói – thiếu sự chăm sóc kỹ lưỡng, có lẽ vì trình
độ văn hóa của những người sáng tác, viết nhạc theo kiểu “mì ăn
liền”, cho nên đôi khi nghe vô duyên, không phải là một tác phẩm
văn nghệ nữa mà là một câu nói ta thường nghe ngoài đường phố, ở
vỉa hè hay nơi chợ búa. Nhớ lời xưa: “Nhìn vào âm nhạc một quốc
gia, nghe nhạc của quốc gia đó sẽ biết nước đó như thế nào” và
hãy nghe âm nhạc Việt Nam sau 1975 thì biết trình độ của nước
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra sao!
Điệp Mỹ Linh – Thưa anh, bài phỏng vấn
đến đây em nghĩ cũng tạm đủ. Em xin cảm ơn anh đã chịu khó trả
lời rất nhiều câu hỏi của một “nghệ sĩ tài tử” nhưng rất mến mộ
những tác phẩm của nhóm Lê Minh Bằng.
ĐIỆP–MỸ–LINH
https://www.diepmylinh.com
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: phong cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Điệp Mỹ Linh chuyển
Đăng ngày Thứ Ba,
November 10, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang