Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bài
Phóng sự
Chủ đề:
Phỏng vấn NS Trường Sa
Tác giả:
Điệp Mỹ Linh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
L.G.T. – Trường Sa là tác giả của những tình ca đã một thời làm rung động không biết bao nhiêu tâm hồn của những người yêu nhau. Và Trường Sa cũng là tác giả của nhiều bản hùng ca được phổ biến rất rộng rãi trong các quân/binh chủng. Vào một dịp đặc biệt, Ðiệp Mỹ Linh đã tiếp xúc với Trường Sa và ghi lại cuộc đàm thoại ngắn này. –Điệp Mỹ Linh
Đ.M.L. – Xin anh vui lòng
cho biết anh định cư tại Canada từ năm nào? Tình trạng gia đình
anh ra sao? Từ đó cho đến nay anh sáng tác được bao nhiêu nhạc
phẩm mới?
T.S.
– Tôi định cư tại Canada từ năm 1991. Vợ tôi đã qua đời cách nay
vài năm. Tôi hiện sống một mình; vì các con của tôi đều lập gia
đình; 3 cháu ở Toronto, một cháu đang sống tại Mỹ.
Từ đó đến nay tôi sáng tác những ca
khúc sau đây: Xin Yêu Nhau Dù Mai Nữa (được trình bày trong Thúy
Nga 70), Mùa Xuân Sao Chưa Về Hỡi Em (Thúy Nga 44), Những Mùa Thu
Qua Trên Cuộc Tình Tôi và Khi Chuyện Tình Ðã Cuối (Asia video),
Bản Tình Ca Cho Kỷ Niệm (Thúy Nga 70), Paris Em Về (Video Asia),
Ðôi Mắt Em Tôi (Asia CD), Một Thoáng Mơ Phai (Thúy Nga CD), Sài
Gòn Ơi Tôi Còn Em Ðó, Thu Vẫn Qua Ðây Mình Ta và Hạnh Phúc Hôm
Nay. Những ca khúc này đều xuất hiện trong CD Dòng Thời Gian, của
Thùy Dương.
Đ.M.L. – Ngược thời gian trở về thời kỳ trước năm 1975, xin anh
cho biết qua xuất xứ/không gian/thời gian cũng như cảm hứng của
anh vào những lúc anh sáng tác những nhạc phẩm nổi tiếng một
thời.
T.S. –
Là một sĩ quan Hải Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (V.N.C.H.),
trước bối cảnh lịch sử, tôi đã viết một số ca khúc đại chúng,
trong thời gian 1965–1966, như Hành Trang Giã Từ, Chuyện Người
Ðan Áo, Một Lần Xa Bến, Trên Ðường Về Thăm Em, v.v. Sau năm 1966
tôi chuyển hướng, chỉ viết tình ca. Hầu hết các ca khúc đều buồn,
từ chuyện tình cảm mất mát.
Từ 1967 đến 1969, những ca khúc tôi
viết tại Sài Gòn và được Lệ Thu thâu thanh đầu tiên là: Xin Còn
Gọi Tên Nhau, Rồi Mai Tôi Ðưa Em và Mùa Thu Trong Mưa. Nhạc phẩm
Một Mai Em Ði tôi sáng tác năm 1973, khi đơn vị của tôi đóng quân
ở đồn Trà Cú, cũng do Lệ Thu thâu thanh đầu tiên.
Ngoài ra nhiều nhạc phẩm khác của tôi
cũng được những ca sĩ khác trình bày, như Tàn Tạ (Thái Thanh), Ru
Em Một Ðời (Sĩ Phú). Những ca khúc sáng tác tại Trà Cú: Một Mai
Em Ði, Ru Em Một Ðời, Sầu Muộn, Như Hoa Rồi Tàn, đều do Lệ Thu
trình bày. Riêng Sầu Biển được phổ biến rất rộng rãi trong Hải
Quân; vì bản nhạc ra đời vào thời điểm Hải Quân V.N.C.H. tham
chiến trận Hoàng Sa.
Đ.M.L. – Tôi không ngạc nhiên khi được
anh cho biết nhiều nhạc phẩm của anh đã được sáng tác tại Trà Cú.
Tôi đã đến Trà Cú. Đường vào Trà Cú chỉ có thể bằng hải vận/không
vận mà thôi.
Từ trực thăng nhìn xuống, đồn Trà Cú đơn độc, nằm ngay một vị trí
chiến lược rất hiểm hóc của bờ sông Vàm Cỏ Ðông và con kinh đào
nho nhỏ. Nhưng, khi chiều xuống, ngồi nơi bãi đáp trực thăng,
nghe tiếng thì thầm của lau sậy nơi vùng đầm lầy từ phía sau rồi
nhìn những tia nắng úa tàn lướt nhẹ trên dòng nước lặng lờ của
dòng sông Vàm Cỏ và thấy từng khóm lục bình quấn quít quanh mấy
chiếc khinh tốc đỉnh – PBR (River Patrol Boat) – đang bập bềnh
nơi cầu tàu thì, đối với tôi, Trà Cú không còn là một địa thế
quân sự mà Trà Cú chính là nơi dễ khơi động những rung cảm thầm
kín của những người mang tâm hồn nghệ sĩ.
Những bản tình ca của anh thường mở đầu
một cách rất dịu dàng, tha thiết. Nhưng, đến đoạn giữa, anh tạo
những biến âm rất lạ và rất bất ngờ. Chính những biến âm đó xoáy
sâu vào hồn và làm nhức tim người nghe. Từ trước 75 cũng như sau
75, tôi nghe rất nhiều ca sĩ hát nhạc của Trường Sa. Họ hát cũng
hay lắm, nhưng, đối với tôi, chỉ có tiếng hát Lệ Thu mới thật sự
diễn đạt được những biến âm đột ngột đó. Xin anh cho biết anh có
cùng nhận xét với tôi hay không?
T.S. – Những biến âm mà chị đề cập
không phải tự tôi cố tình tạo nên mà là do những rung động sâu
kín trong tôi trào dâng. Tôi đồng ý với nhận xét của chị về tiếng
hát Lệ Thu. Vào thời điểm 1964–1965 Lệ Thu hát hay nhất và tôi
thích tiếng hát Lệ Thu nhất.
Đ.M.L. – Tại sao thời gian đó anh không
phục vụ tại phòng Chiến Tranh Chính Trị mà lại chỉ huy những đơn
vị tác chiến? Cảnh sắc và những dòng sông mà đơn vị của anh đã đi
qua có đem đến cho anh nguồn cảm hứng nào hay không?
T.S. – Tôi không thích sống và làm việc
gò bó tại văn phòng, mặc dù Phó Ðề Ðốc Hoàng Cơ Minh đã chú ý và
vài lần đề nghị tôi về Chiến Tranh Chính Trị. Cảnh sắc và những
dòng sông mà đơn vị tôi đã đi qua có đem cảm hứng đến cho tôi;
nhưng vì đơn vị của tôi đụng trận liên miên nên tôi không thể
sáng tác được.
Đ.M.L. – Một lần, tại căn cứ Tiền Doanh
Yểm Trợ Rạch Sỏi, thấy mấy chiếc khinh tốc đỉnh nhận nhiên liệu
xong, sắp trở lại vùng hành quân – sông Cái Lớn – tôi xin ông
trung úy trưởng toán cho tôi “quá giang”. Ông trung úy bảo để ông
ấy xin phép chỉ huy trưởng của ông ấy đã. Sau khi ông trung úy ấy
dùng máy truyền tin trình với anh về yêu cầu của tôi, tôi nghe
anh bảo ông trung úy tả hình dáng của tôi cho anh nghe xem có
đúng hay không rồi anh mới quyết định. Lúc đó tôi mới biết chỉ
huy trưởng của ông trung úy là anh; nhưng tôi vẫn chưa biết anh
là Trường Sa. Khi vào đến vùng hành quân, gặp anh, tôi mới được
biết anh là tác giả những bản nhạc mà tôi rất thích. Xin anh cho
biết lúc đó anh chỉ huy giang đoàn nào? Và khi hành quân ở vùng
sông Cái Lớn anh có cho ra đời nhạc phẩm nào hay không?
T.S. – Lúc đó tôi chỉ huy Giang đoàn 63
Tuần Thám. Ðơn vị của tôi hoạt động trên sông Cái Lớn chỉ có 3
tháng. Trong thời gian này đơn vị của tôi cũng đụng trận hoài nên
không sáng tác được gì cả. Sau đó Giang đoàn 63 Tuần Thám phải
quay về Ðồng Tháp Mười để giải tỏa áp lực địch ở kinh Ðồng Tiến.
Tại vùng này, vào mùa Hè năm 1972, chúng tôi đã chịu một trận
đánh rất ác liệt.
Đ.M.L. – Xin anh cho biết một cách khái
quát về trận đánh đó để độc giả được biết thêm về một khía cạnh
khá đặc biệt của anh.
T.S. – Tại trung tâm Ðồng Tháp Mười và
cũng là trung tâm kinh Ðồng Tiến, Hải Quân thành lập một căn cứ
tại Phước Xuyên. Căn cứ này là hậu cứ của Giang Ðoàn 63 Tuần
Thám. Từ căn cứ Phước Xuyên đi về hướng sông Vàm Cỏ Tây, hai bên
là rừng tràm dầy đặc, chạy dài tới Ấp Bắc. Từ căn cứ Phước Xuyên
đi về hướng sông Cửu Long, hai bên là đồng trống, thỉnh thoảng có
một khu dân cư ở ven kinh.
Ngày 07/04/72, đoàn khinh tốc đỉnh của
Giang Ðoàn 63 Tuần Thám đang tuần tiễu trong khu rừng tràm thì bị
lực lượng cộng sản Bắc Việt, từ biên giới Kampuchea xâm nhập vào
lãnh thổ Việt Nam, tấn công. Trong khi đó, một đoàn khinh tốc
đỉnh khác – cũng thuộc Giang Ðoàn 63 Tuần Thám – đang hoạt động
nơi khu đồng trống thì bị đánh bằng mìn áp lực, căn cứ Phước
Xuyên bị pháo kích liên tục và bị phóng hỏa tiễn. Giang Ðoàn 63
Tuần Thám được tăng cường một số khinh tốc đỉnh thuộc Giang Ðoàn
Ngăn Chận và Giang Ðoàn 59 Tuần Thám. Lúc này mọi hoạt động của
lực lượng Hải Quân VNCH đều phải “co” lại, vì mặt nào cũng bị tấn
công.
Suốt hai
tháng bị bao vây tại Ðồng Tháp Mười, lực lượng Hải Quân đã hai
lần mở đường máu ra Ấp Bắc, với sự yểm trợ của lực lượng Bộ Binh
phối hợp với Không Quân Hoa Kỳ, nhưng khi đến khu rừng tràm thì
bị đánh dội ngược trở lại.
Các Giang Ðoàn Tuần Thám đều được trang
bị bằng khinh tốc đỉnh. Khinh tốc đỉnh được chế tạo bằng vật liệu
nhẹ nên ưu thế là tạo được vận tốc cao nhưng yếu thế là khi bị
mìn thì tàu vỡ tan! Do đó lực lượng Hải Quân bị tổn thất nặng
trong trận này. Ðơn vị Việt cộng chủ động trận đánh này tôi không
nhớ rõ, dường như là Công Trường 5 cộng sản Bắc Việt.
Đ.M.L. –Sau đó anh về Trà Cú, đúng
không? Vì tôi nhớ khoảng thời gian cuối 72 hoặc đầu 73, tôi gặp
anh ở Trà Cú.
T.S. – Vâng. Sau trận đánh kinh hoàng ở căn cứ Phước Xuyên, tôi
được thuyên chuyển về làm chỉ huy trưởng Giang Ðoàn 53 Tuần Thám,
chịu trách nhiệm vùng sông Vàm Cỏ Ðông, trú quân tại căn cứ Trà
Cú, thuộc tỉnh Hậu Nghĩa. Vì đơn vị của tôi hoạt động trên sông
Vàm Cỏ Ðông với mục đích cắt ngang thủy lộ xâm nhập của cộng sàn
Bắc Việt từ mật khu Mỏ Vẹt nên bị đụng độ hoài và căn cứ Trà Cú
bị pháo kích liên miên, kể cả bị hỏa tiễn AT3.
ĐML. – Ngày đó, ở cương vị của một sĩ
quan Hải Quân ngành chỉ huy và tiếng tăm của một nhạc sĩ được mến
mộ, nếu buộc anh phải lựa chọn, anh chọn danh xưng nào?
T.S. – Là một Thiếu tá Hải Quân, tôi
rất hãnh diện đã phục vụ cho lý tưởng tự do; đó là hoài bão của
một thanh niên đầy nhiệt huyết trước nhu cầu của đất nước; đó
cũng là danh dự của cả một đời người, tôi không thể không chọn
lựa danh xưng này.
Mọi người sinh ra đều có những năng
khiếu khác nhau. Viết một ca khúc, trước hết mình đã phần nào là
một người làm thơ và mình cũng phải có một giác quan rất bén nhạy
mới có thể tạo ra được những chuỗi âm thanh hài hòa để người nghe
cùng rung động với tâm tư của mình. Vì vậy, trong âm nhạc, tôi
cũng không thể không nhìn nhận đây là một nhu cầu vô cùng cần
thiết cho đời sống tinh thần.
Đ.M.L. – Anh trả lời khéo léo vô cùng.
Xin anh cho biết tựa đề nhạc phẩm anh sáng tác đầu tiên và ca sĩ
nào trình bày? Cho đến nay tổng cộng anh sáng tác được bao nhiêu
ca khúc?
T.S.
– Bản nhạc do tôi sáng tác đầu tiên là một ca khúc Tango
Habanera, tựa đề Mây Trên Ðỉnh Núi, để tặng người bạn tên Hoàng,
xướng ngôn viên đài phát thanh Đà Lạt. Bản này do Thanh Lan hát.
Cho đến nay, kể cả một số ca khúc chưa phổ biến, tổng cộng tôi
sáng tác khoảng 50 bài.
Đ.M.L. – Anh nhận xét như thế nào về
nền âm nhạc Việt Nam ở trong nước kể từ khi anh ra tù rồi vượt
biển? Thời gian đó có bao giờ vô tình anh nghe lại được những bản
nhạc của anh trong số “nhạc vàng” mà người miền Bắc rất thích hay
không? Nếu có, lúc đó anh nghĩ gì và cảm nhận được gì?
T.S. – Suốt thời kỳ chiến tranh, người
miền Bắc Việt Nam chỉ được các nhạc sĩ phổ biến những ca khúc
động viên tinh thần chống Mỹ. Tuy nhiên, sau khi chiến tranh chấm
dứt, khuynh hướng phổ biến “nhạc vàng” được nới rộng và quần
chúng có dịp thưởng thức phần nào âm nhạc miền Nam. Chính tôi đã
được nghe một chương trình nhạc êm dịu do Phạm Trọng Cầu tổ chức
và một ca sĩ hát bài Rồi Mai Tôi Ðưa Em. Và sau khi vượt biển, ra
ngoại quốc, tôi được xem một show video, ca sĩ Lan Ngọc trình bày
Xin Còn Gọi Tên Nhau và Mùa Thu Trong Mưa. Những lúc đó tôi rất
xúc động.
Đ.M.L. – Anh so sánh như thế nào giữa nền âm nhạc Việt Nam tại
hải ngoại và nền âm nhạc tại Việt Nam từ 1954 đến năm 1975?
T.S. – Có thể chia làm hai thành phần.
Thành phần những người viết nhạc từ trước 1975. Do hoàn cảnh sinh
sống trên quê hương tạm dung khác biệt với quê hương Việt Nam nên
bị hạn chế và cái nhìn có khác đi. Thành phần những người trẻ
viết nhạc sau 1975. Số người sáng tác đông đảo, âm nhạc có khuynh
hướng trẻ, tuy nhiên, bị hạn chế về văn chương Việt Nam; vì họ
không được hấp thụ như những người sinh ra/lớn lên và viết nhạc
tại Việt Nam. Ða số lời ca sáo ngữ, không có chiều sâu.
Đ.M.L. – Anh có nhận thấy rằng, trong
khi người viết nhạc tại hải ngoại thiếu hoàn cảnh để đưa âm nhạc
gần với tình tự dân tộc thì nhiều nhạc sĩ và ca sĩ tại Việt Nam
lại có chiều hướng muốn rời xa những gì họ sẵn có để bắt chước
theo nhạc ngoại quốc hay không?
T.S. – Vâng. Ðó là điều thật đáng tiếc.
Đ.M.L. – Anh có nhận thấy rằng “dòng
Boléro nhàm chán” của thời trước 75 nay không xuất hiện nhiều
trong nền âm nhạc Việt Nam tại ngoại quốc hay không?
T.S. – Vâng. Tôi nhận thấy sự giảm
thiểu đó. Nhưng, theo tôi, Rhumba hay Boléro tự nó không đem đến
cho người nghe chút nhàm chán nào cả mà chỉ vì nó dễ đàn, dễ hát,
ai đàn, ai hát cũng được nên dễ phổ biến. Người viết nhạc thời đó
thích phổ nhạc hoặc viết những ca khúc theo điệu Bolero để phổ
biến rộng rãi nên người nghe nghe hoài đâm ra không cảm thấy hay
nữa.
Đ.M.L. –
Khi sáng tác anh thường sử dụng nhạc cụ nào?
T.S. – Tôi thiếu may mắn. Thuở thư sinh
vừa học văn hóa vừa tự nghiên cứu âm nhạc theo bộ sách giáo khoa
của Traité Dubois, gồm Harmonie Consonante, Harmonie Dissonante,
Contre Point, Le Fugue. Ðến tuổi động viên, tôi gia nhập Hải
Quân, khóa 12 Sĩ quan Hải Quân Nha Trang. Nhịp độ chiến tranh và
cuộc đời quân nhân không cho phép tôi thực hiện những điều tôi
mong muốn như học một số nhạc cụ tôi thích, chẳng hạn như Piano.
Tôi chơi Guitar từ khi tôi 14 tuổi.
Đ.M.L. – Anh có muốn trở lại thăm những
vùng “không gian xưa quen gót lầy”
(1)
hay không?
T.S. Muốn lắm chứ. Tôi và bạn bè của
tôi đã trải dài phần đời tươi trẻ của chúng tôi trong những vùng
“không gian xưa quen gót lầy” đó. Chuỗi ngày tươi trẻ ấy tuy
triền miên sống trong hiểm nguy, khốn khó, lúc nào cũng cận kề
với cái chết, nhưng chúng tôi rất hãnh diện là chúng tôi đã sống
một phần đời đáng sống.
Đ.M.L. – Sau chương trình do Paris By
Night thực hiện anh có dự định nào khác cho tương lai gần hay
không?
T.S. –
Tôi chỉ mong gom góp tất cả những ca khúc tôi viết từ trước đến
nay để cho vô một tuyển tập, nhưng tôi vẫn chưa thực hiện được,
vì lười!
Đ.M.L. – Anh muốn nhắn gửi điều gì đến độc giả
không?
T.S. – Tôi xin cảm ơn
độc giả và những người đã yêu thích nhạc của Trường Sa.
(1)
Lời ca của nhạc phẩm Rồi Mai Tôi Ðưa
Em, của Trường Sa.
ĐIỆP–MỸ–LINH
https://www.diepmylinh.com
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: phong cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Điệp Mỹ Linh chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu,
January 22, 2021
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang