Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
Ngày QL19–T6
Tác giả:
Điệp Mỹ Linh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Để tưởng nhớ em tôi – Nguyễn
Phiêu Linh – và
Kính tặng tất cả cựu SVSQ/TĐ Khóa 6/68
Đây không phải là lần đầu tiên tôi
được tham dự sinh hoạt của “mấy ông nhà binh”; nhưng, kỳ Hội Ngộ
của Khóa 6/68 cựu sinh viên sĩ quan trừ bị (SVSQ/TB) Thủ Đức vừa
qua, tại Nam California, lại là một Hội Ngộ khiến tôi xúc động
nhiều nhất.
Sự
liên hệ giữa Khóa 6/68 SQ/TB Thủ Đức và Điệp–Mỹ–Linh bắt nguồn từ
nhà văn Vũ Uyên Giang, tên thật là Nguyễn Quang Vinh.
Từ khi quen anh Vinh, tôi chỉ biết anh
là một nhà văn Quân Đội chứ chưa bao giờ tôi hỏi xuất xứ của anh.
Sau khi anh Vinh tạo ra website Thủ Đức Khóa 6/68, em tôi –
Nguyễn–Phiêu–Linh – từ Việt Nam emailed cho tôi biết rằng Linh
cùng Khóa 6/68 với anh Vinh. Linh cũng giới thiệu với tôi những
người bạn cùng khóa như anh Tiêu Nhơn Lạc, anh Lê Đông Hải, anh
Xuân Thu, chị Bích Thủy, anh Hồ Trọng Anh, v.v.
Khi biết tôi là chị Hai của Linh, vài
anh – khi emailed cho tôi – cũng gọi tôi là “chị Hai”. Tôi ngại
ngùng hồi đáp: “Cảm ơn các anh. Nhưng tôi không dám nhận là ‘chị
Hai’ của các anh đâu”. Điều làm tôi vui thích nhất là khi các anh
chuyển emails qua lại với nhau, vô tình vài emails “lạc” vào box
của tôi; và tôi thấy trong các emails đó, các anh gọi
Điệp–Mỹ–Linh bằng ba chữ thân thiết: “Chị thằng Linh”.
Từ ngày Linh bất ngờ ngã bệnh cho đến
khi Linh lìa đời, gia đình Khóa 6/68 đã hết lòng với Linh. Do đó,
tôi thầm mong được một lần đích thân cảm tạ tấm lòng của gia đình
Khóa 6/68 SQTB/TĐ.
Nhà văn Vũ Uyên Giang gửi đến tôi một
thiệp mời in rất đẹp và những dòng chữ thân tình.
Đến phi trường John Wayne, tôi được anh
Lê Đông Hải đón. Anh Hải bảo:
– Mấy ngày chị ở đây Hải sẽ lo phần đưa
đón chị, chị đừng ngại. Bây giờ, trước khi đưa chị về khách sạn,
Hải mời chị dùng cơm trưa. Hải sẽ gọi vài người trong khóa đến
nhà hàng gặp chị.
Là một người nhút nhát, ít giao thiệp,
nhưng trong bữa ăn trưa với anh Hải, anh Tiến, anh Hạnh, anh
Thanh, anh Hiền, v.v. không những tôi không cảm thấy ngại ngùng,
xa lạ hoặc lạc lõng mà tôi lại cảm thấy vui và thân mật như những
ngày tôi ăn cơm lính – đúng nghĩa nhất – trên những chiến đỉnh
trong vùng U–Minh hung hiểm.
Đêm tiền Hội Ngộ, 24 tháng 5–2014, tôi
được gặp và làm quen với nhiều người bạn khác của Linh. Bằng một
cách nào đó, trong ánh mắt, nụ cười, trong lời thăm hỏi, trong
những câu chuyện trao đổi giữa các anh chị và tôi, tôi tưởng như
tôi đã quen thân với quý anh chị từ lâu lắm.
Đang vui, lòng tôi chợt chùng xuống khi
nghe nhà văn Vũ Uyên Giang – trong khi đứng trên sân khấu giới
thiệu về Đặc San của Khóa 6/68 – bảo rằng trong Đặc San có bài
của Điệp–Mỹ–Linh và của Nguyễn Phiêu Linh. Linh viết bài và
chuyển đến anh Vũ Uyên Giang trước khi Linh ngã bệnh.
Sau đó, mỗi anh đứng lên, tự giới thiệu
về mình: Tên, họ, số quân và đơn vị. Tôi nhìn quanh hội trường
rồi nhìn ra cửa, nhìn ra bãi đậu xe, lòng thầm ước được thấy Linh
bước vào, tự giới thiệu: Nguyễn Phiêu Linh, số quân 68/...
Dĩ nhiên tôi hiểu rằng không bao giờ
Linh có thể xuất hiện trong niềm ước mơ không tưởng của tôi.
Nhưng lạ lùng thay, tôi lại tưởng như tôi thấy được Linh cùng một
nhóm quân nhân thuộc đơn vị Pháo Binh Diện Địa đồn trú tại Phù
Cát, Qui Nhơn, vào những ngày cuối tháng Ba năm 1975.
Sau khi biết chiến hạm Hải Quân “bốc”
nhiều đơn vị Bộ Binh, quân bạn, đồng bào và đã rời khỏi hải cảng
Qui Nhơn, Linh cùng nhóm quân nhân kết bè, vượt thoát.
Sau khi hay tin Hải Quân rút khỏi Qui
Nhơn, tôi nhờ người bạn liên lạc với sĩ quan tùy viên của Trung
tướng Nguyễn Xuân Thịnh – vị Tướng chỉ huy tất cả đơn vị Pháo
Binh VNCH – nhờ vị sĩ quan này tìm phương vị của Linh. Vài ngày
sau, vị sĩ quan tùy viên của Tướng Thịnh điện thoại cho tôi hay
rằng Nguyễn Phiêu Linh đã về đến Cam Ranh vào đêm 31 tháng Ba năm
1975.
Sau khi
Ba Má tôi sang Mỹ, Ba Má tôi kể lại: Gần sáng 1 tháng 4–75, nghe
tiếng gõ cửa, cả nhà sợ, không dám mở. Gõ hoài, cửa vẫn không mở,
Linh lớn tiếng gọi tên vợ của Linh. Lúc đó cả nhà mới nhận ra
giọng của Linh và vùng dậy, vui mừng khi thấy Linh cùng nhóm quân
nhân. Nhưng khi Linh đề nghị cả gia đình nên di tản bằng đường
bộ; vì con đường từ quốc lộ I qua Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân
Cam Ranh đã đông nghẹt người và lính gác không cho vào thì Ba tôi
từ chối.
Nhà
của Ba Má tôi ở ngay quốc lộ I. Ngày cũng như đêm, Ba Má tôi
chứng kiến từng suối người cuồn cuộn tuôn về Nam. Nhiều gia đình
thất lạc, nhiều người già và trẻ em chết, bị bỏ lại bên đường,
cho nên Ba tôi sợ. Linh im lặng, tụ họp cả đại gia đình tại phòng
khách. Linh bảo mọi người đứng thành vòng tròn, Linh đứng giữa.
Mọi người, kể cả nhóm quân nhân cùng vượt thoát với Linh, đều
nhìn nhau, không hiểu Linh có ý định gì. Linh rất bình tĩnh, lấy
từ túi quần nhà binh một trái lựu đạn, rút chốt, dõng dạc hỏi:
– Ba Má có di tản hay không? Nếu không,
con cho lựu đạn nổ để cùng chết!
Mọi người hoảng sợ, năn nỉ Linh.
Khi cùng gia đình và nhóm quân nhân đến
cầu Trà Long, Linh mới biết rằng dòng người bị ứ đọng tại đó từ
lâu; vì cầu Trà Long bị Lý Tống – phi công VNCH – dội bom sập!
Năm 1998, Minh và tôi về Việt Nam, vì
bà Cụ của Minh bị bệnh nặng. Dù đã chích ngừa và đem theo nhiều
thuốc dự phòng, tôi vẫn bị trúng độc, nằm liệt giường, tại khách
sạn, Nha Trang. Tôi không thể ăn hoặc uống bất cứ thứ gì; vì vậy,
số thuốc đem theo không thể dùng được. Trong khi bị lả người vì
cơ thể thiếu nước, mà bác sĩ tại Nha Trang cũng không thể giúp
tôi được, tôi nghe loáng thoáng Minh trò chuyện với Linh:
– Tội nghiệp chị Hai của Linh, khi nhận
được tin Linh từ chối sang Mỹ theo diện H.O., chị Hai như phát
điên!
Giọng
Linh bùi ngùi:
– Lúc ở tù, bị tụi nó hành hạ về thể
chất lẫn tinh thần – và nhất là mỗi sáng đi lao động ngang vườn
rau cải, thấy Ba phải gánh phân người, đã chế biến, để tưới rau
cải, em chịu không được – em oán hận tụi Mỹ đã bỏ rơi miền Nam
cho nên em từ chối phỏng vấn diện H.O. Về sau, chương trình H.O.
mở lại thì các con em đều trên 21 tuổi, không được đi. Em nghĩ,
em đã ở tù nhiều năm, không lo được gì cho con em; bây giờ vợ
chồng em qua Mỹ để làm gì khi mà các con của em ở lại trong cảnh
khốn cùng, cho nên em cũng ‘dẹp’ luôn! Đó là một quyết định sai
lầm mà em rất ân hận khi vợ và con của em bệnh, không được chữa
trị, vì thuộc vào gia đình Ngụy, đành phải chết!
Vừa nói đến đây, Linh mới chợt nhớ, vội
tiếp:
– Chết!
Em đang nấu nước gạo rang cho chị Hai uống mà nãy giờ em quên; để
em xuống bếp xem xong chưa.
Minh hỏi vói theo:
– Ai bày Linh vậy?
– Dạ, mấy người làm trong khách sạn
này.
Khi Linh
trở lại phòng, Minh đỡ tôi dậy. Tôi vừa hớp vài ngụm nước gạo
rang thì lại nôn trở ra. Linh năn nỉ tôi:
– Chị Hai! Ráng uống chút nước gạo rang
em nấu nè!
Âm
vang sáu tiếng thân thương: “... nước gạo rang em nấu nè” của
Linh khơi dậy trong hồn tôi câu nói “Chị Hai! Cù–là nè. Chị đau ở
đâu, em xức cho” mà Linh đã nài nỉ tôi sau khi tôi bị... đòn!
Tôi bị đòn vào chiều 15 tháng 6 năm 61,
cũng tại Nha Trang. Lý do tôi nhớ được cả không gian và thời gian
vì sáng 16/6/61 là Lễ Đính Hôn của Minh và tôi.
Cả tuần lễ trước ngày Lễ Đính Hôn của
tôi, gia đình tôi rất bận rộn. Minh đến xin phép Ba Má tôi cho
Minh đưa tôi đến tiệm vàng lấy chiếc nhẫn đính hôn mà Ba Mạ của
Minh đã đặt mua từ mấy ngày trước. Sau khi Ba Má tôi cho phép –
như một điều kiện không thể thay đổi – Ba Má tôi gọi Linh, với
dụng ý bảo Linh đi theo Minh và tôi. Sau vài lần gọi mà không
nghe Linh đáp, bà giúp việc từ bếp bước lên cho Ba Má tôi hay
rằng Bà Ngoại của tôi bị đứt tay khi cắt trái su, Linh đạp xe đi
mua thuốc đỏ cho Ngoại. Ba Má tôi nhìn nhau, chưa biết quyết định
như thế nào thì Minh nhìn đồng hồ tay, có vẻ sốt ruột. Má tôi hỏi
Minh:
– Một
mình cháu đi lấy nhẫn, được không?
– Dạ được. Nhưng con không thể biết
nhẫn rộng hoặc chật cho ngón tay của Thanh–Điệp, rủi mai nhẫn bị
rộng hoặc chật thì làm sao?
Ba tôi hỏi Minh:
– Đây ra tiệm vàng rồi trở về, cháu
nghĩ mất khoảng bao nhiêu thời gian?
Minh đáp:
– Thưa bác, khoảng 45 phút hoặc một
tiếng đồng hồ là tối đa.
Minh và tôi đi bộ được một khoảng khá
xa, Minh đón chiếc xích–lô. Tôi ngạc nhiên, hỏi. Minh bảo đi bộ
lâu lắm, ngại về không kịp giờ đã hứa với Ba Má tôi. Tôi đề nghị
nên đón một xích–lô nữa cho tôi. Minh bảo mai là “lễ hỏi” rồi mà
còn ngại gì nữa! Tôi cho Minh biết rằng Ba Má tôi rất nghiêm
khắc; tôi không dám làm trái ý Ba Má tôi. Minh thuyết phục và hứa
sẽ giữ đúng tư cách.
Vâng, Minh đã giữ đúng tư cách của một
sĩ quan Hải Quân. Minh bảo tôi ngồi sát hẳn bên trong để ít ai
thấy. Minh ngồi sát mé phía ngoài. Tôi thầm phục tư cách của
Minh.
Trên
đường về, Minh bảo xích–lô dừng rất xa nhà Ba Má tôi. Minh và tôi
đi bộ về nhà. Vừa đến cửa lớn, thấy Ba Má tôi ngồi nơi phòng
khách, nét mặt đầy tức giận, tôi hơi lo. Tôi vừa bước vào, thưa:
– Thưa Ba Má con mới về.
Ba tôi chụp cây chổi quét nhà – đã được
để cạnh Ba tôi từ lúc nào tôi khôg biết – “quất” tôi ba cán chổi!
Vừa đánh tôi Ba tôi vừa gằn từng tiếng:
– Ai cho phép con ngồi chung xe xích–lô
với đàn ông, hả? Hả? (1)
Tôi gần như hoảng loạn; vì tôi là “con
cưng”, rất dễ dạy và suốt gần 20 năm sống trong gia đình, chưa
bao giờ Ba tôi nặng lời mắng nhiếc tôi thì làm thế nào tôi có thể
mường tượng được rằng có ngày Ba tôi sẽ đánh tôi! Tôi xoay sang
có ý tìm Minh; nhưng không thấy Minh đâu cả!
Tôi cảm thấy đau thì ít mà tủi thân thì
nhiều. Tôi ngồi co ro trong góc nhà, khóc. Linh đem chai cù–là
đến, nói nhỏ, vì sợ Ba Má tôi nghe:
– Chị Hai! Cù–là nè, chị đau ở đâu, em
xức cho.
Tôi
cứ im lặng, khóc, trong khi Linh cứ nài nỉ:
– Chị đau ở đâu, em xức cho.
Một lúc sau, Ba Má tôi gọi tôi đến. Tôi
khoanh hai tay, đứng như “Trời trồng”. Sau khi giảng cho tôi nhớ
về tư cách của một thiếu nữ con nhà nề nếp, có giáo dục, có học
thức, có đạo đức thì phải sống theo lễ giáo của Thánh Hiền “Nam
nữ thọ thọ bất thân”, Ba tôi bảo Má tôi đưa tôi vào phòng, thoa
cù–là cho tôi.
Suốt buổi cơm tối, thấy tôi lơ là như
nuốt không trôi, Linh cứ hỏi nhỏ:
– Chị ăn hết chưa, em “bới” cho?
Dùng cơm tối xong, như mỗi khi có điều
chi buồn, tôi ôm Accordéon dạo những bản nhạc chợt đến trong hồn
chứ tôi không nhìn bản nhạc. Tôi buồn Ba tôi thì ít mà buồn Minh
thì nhiều; vì tôi tự hỏi: Tại sao Minh lại lẩn tránh, không dám
nhận lỗi với Ba Má tôi là chính Minh đã thuyết phục tôi? Tôi đàn
liên miên từ bản nhạc này chuyển sang bản bản nhạc khác. Khi bất
ngờ những ngón tay của tôi chuyển sang một tình khúc Việt Nam,
tôi “ngân nga” nho nhỏ theo từng giọt nước mắt rơi trên phím đàn:
“Đàn
ơi! Tan nát tim ta nhiều rồi
mà sao ta
vẫn say sưa hoài cùng
em quanh năm ngày
tháng?...
Cho ta lên tiếng cùng em vài
lời.
Đời mà thiếu em ta vắng vui!...”
(2)
Không biết Linh có nghe tiếng “ngân
nga” của tôi hay không, nhưng Linh đến, ngồi đối diện với tôi,
khoanh hai tay trên bàn rồi tựa cằm lên, im lặng lắng nghe. Mấy
ngón tay của tôi chuyển sang sầu khúc Sayonara. Ba tôi động lòng
sao đó, bước đến, giọng buồn buồn:
– Con à! Rạp Tân Tân chiếu phim
Sayonara, con với Linh muốn đi xem không?
Linh ngồi bật dậy, nhanh nhẩu:
– Dạ đi, Ba.
Thấy tôi vẫn im lặng, Linh tiếp:
– Đi đi, chị Hai! Có Marlon Brando là
tài tử ‘ruột’ của chị đóng vai chính mà.
Khi Marlon Brando xuất hiện trong khung
cảnh tươi đẹp, tình tứ, lãng mạn và âm thanh tuyệt vời của tình
khúc Sayonara, tôi cảm thấy hồn tôi chơi vơi, như tan loãng, như
hòa nhập với cốt truyện tràn ngập yêu thương.
Trên đường về, Ba Má tôi đi trước; Linh
và tôi “lẽo đẽo” theo sau. Vừa đi Linh vừa nghịch với những viên
đá ven đường. Riêng tôi, âm hưởng tình khúc Sayonara cứ vang vọng
khiến tôi cảm thấy nỗi buồn trong tôi cứ dâng cao, dâng cao đến
ngập cả hồn tôi mà tôi không nhận biết được tôi buồn ai và buồn
về cái gì!
Hơn
nửa thế kỷ trước, trong khi tôi ôm trong lòng nỗi buồn “không
tên” thì Linh vừa đi vừa “nhảy cà tưng” trên hè phố. Hôm nay,
trong hội trường này, tôi ôm trong lòng nỗi buồn vì thương nhớ
Linh thì Linh không còn nữa!...
... Đang bị chi phối vì kỷ niệm, bất
chợt tôi choàng tỉnh; vì chị ngồi cạnh nâng tay tôi:
– Chị đứng lên. Chị đứng lên. Người ta
giới thiệu Điệp–Mỹ–Linh kìa.
Tôi đứng lên. Trong khi cúi chào quan
khách tôi mới nhận ra nước mắt đã nhạt nhòa trên mặt tôi từ bao
giờ!
Tôi ngại
ngùng nhìn quanh rồi nhìn quý vị cùng bàn và nhận thấy quý anh
chị đều nhìn tôi với ánh mắt cảm thông. Dù còn bị phân tâm, tôi
cũng hơi ngạc nhiên khi nghe Ban Tổ Chức giới thiệu anh Hiền sẽ
trình bày ca khúc Căn Nhà Tiền Chế. Tôi nhíu mày, cố nhớ xem tôi
đã nghe bản nhạc nào có tựa đề như vậy hay chưa; nhưng nhớ không
ra! Khi nghe nhạc dạo một đoạn ngắn tôi mới nghiệm ra anh Hiền
đặt lời ca theo cuộc sống, cuộc tình của Lính, dựa vào âm hưởng
ca khúc Lâu Đài Tình Ái. Nhìn anh Hiền hát một cách say sưa “...
Em ơi! Căn Nhà Tiền Chế đó...” tôi cười và nhận ra niềm vui đã
trở về! Tiếp đến là chị Bích Thủy – người em gái thân thương của
Khóa 6/68 Thủ Đức – với giọng ca lảnh lót, ngọt ngào trong ca
khúc Hoa Soan Bên Thềm Cũ của Tuấn Khanh.
Sau đó, Ban Tổ Chức giới thiệu phu nhân
của Cố Đại úy Quân Báo Trần Hữu Tánh, Khóa 6/68, ngâm bài thơ do
chính chị, bút hiệu Trần Thị Quê Hương, sáng tác để tưởng nhớ anh
Tánh – “Người Tình Trăm Năm” của Chị. Giọng ngâm của chị Trần Thị
Quê Hương trầm buồn tha thiết tựa như nỗi niềm của Chị suốt mười
năm khổ lụy thăm nuôi anh Tánh trong các trại tù của cộng sản
Việt Nam:
“...
Những chiều tắt nắng đìu hiu,
Hoàng hôn gợi nhớ, tình yêu vẫy chào.
Bóng anh khuất lẫn nơi nào?
Nhớ anh tha
thiết lệ trào ướt mi!...”
Bài thơ dứt, chị Trần Thị Quê Hương cúi
chào trong những tràng pháo tay tưởng chừng không dứt. Anh Tiến
và chị Bích Thủy đến khen tặng chị Trần Thị Quế Hương rồi anh
Tiến và chị Bích Thủy hỏi thăm tôi. Nhân cơ hội này, tôi hỏi anh
Tiến:
– Thưa
anh, Khóa 6/68 khởi đầu với bao nhiêu sinh viên?
– Dạ, khoảng trên 2 ngàn sinh viên;
nhưng khoảng 800 sinh viên được đưa đi huấn luyện tại Trung Tâm
Huấn Luyện Biệt Động Quân, Đồng Đế, Nha Trang.
Tôi hỏi chị Bích Thủy:
– Đến tháng Tư –1975 còn được bao nhiêu
sĩ quan, thưa chị?
– Dạ, không thể phối kiểm được.
– Thưa chị, hiện nay Khóa 6/68 quy tụ
được bao nhiêu cựu sĩ quan?
Chị Bích Thủy nhìn anh Tiến. Anh Tiến
đáp:
– Khoảng
200. Nhưng mỗi lần Hội Ngộ chỉ gặp được khoảng trên dưới 150
người thôi.
–
Về Thương Phế Binh thì Khóa 6/68 đã liên lạc được bao nhiêu vị
rồi, thưa anh?
– Dạ, chín người.
Dù những con số do chị Bích Thủy và anh
Tiến đưa ra không chính xác, tôi cũng cảm thấy nặng lòng! Tôi
nhìn ra cửa, liên tưởng đến hai câu thơ của Vũ Đình Liêm:
Những
người muôn năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ!
*****
Tối hôm
sau, 25 tháng 5–2014, là Đêm Hội Ngộ chính thức.
Buổi chiều, anh Lê Đông Hải đề nghị sẽ
đón tôi sau khi anh Hải phụ với Ban Tổ Chức trang hoàng hội
trường. Tôi xin anh Hải cho tôi đến phụ với các anh chị.
Trong khi cùng các chị bưng từng giò
lan tươi đẹp đặt trên mỗi bàn, tôi nghĩ: Mấy mươi năm qua tôi cứ
tưởng tôi chỉ có những ràng buộc với đại gia đình Hải Quân; nhưng
từ khi Linh lâm trọng bệnh cho đến bây giờ, tôi mới biết tôi cũng
có những ràng buộc vô hình với gia đình Khóa 6/68 Thủ Đức.
Trước khi quan khách đến, Ban tổ chức
giới thiệu nhà văn Vũ Uyên Giang và nhà văn Huy Văn – Khóa 6/68
Thủ Đức – với hai tác phẩm mới và mời mọi người mua ủng hộ. Tiền
bán sách sẽ được xung vào quỹ Thương Phế Binh. Mọi người hưởng
ứng nồng nhiệt.
Tối hôm qua, vì xúc động, tình cảm bị
chi phối, tôi không theo dõi chương trình. Hôm nay, nhìn quanh
hội trường, tôi cảm nhận được sự trang trọng, sự vui tươi và ấm
cúng. Tôi hỏi chị Bích Thủy:
– Hôm qua anh Tiến và chị bảo chỉ liên
lạc được khoảng trên dưới 150 cựu SV/SQ/Thủ Đức; vậy mà tại sao
hôm nay đến gần 50 bàn lận, chị?
– Dạ, thân hữu.
Trong số thân hữu chọn lọc, tôi nhận ra
giáo sư và cũng là cựu Tư Lệnh Không Quân QLVNCH Nguyễn Xuân
Vinh, cựu đại tá Tư Lệnh Không Quân và Bà Huỳnh Hữu Hiền,
Commodore Jansen Buckner và vài vị khác mà tôi không nhớ tên. Ông
Buckner bắt tay mọi người cùng bàn. Khi ông Buckner bắt tay tôi,
tôi hỏi:
– Tôi
nghe nói Ông là sĩ quan Hải Quân, phải không, thưa Ông?
– Vâng. Và tôi từng tham chiến tại Việt
Nam.
– Xin cảm
ơn ông đã góp phần bảo vệ miền Nam Việt Nam của chúng tôi.
Tôi bước sang chào giáo sư Nguyễn Xuân
Vinh, tác giả truyện dài Tìm Nhau Từ Thuở mà tôi đã đọc và viết
về tác phẩm này. Sau khi trở về chỗ ngồi, tôi nói cho ông Buckner
nghe về sự ngưỡng phục của tôi đối với tất cả Cựu Chiến Binh Hoa
Kỳ tham chiến tại Việt Nam. Ông Buckner hỏi tôi, trong những
chiến binh Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam tôi có để ý một nhân
vật nào đặc biệt hay không? Tôi đáp ngay: John McCain. Ông
Buckner cười, gật gù. Tôi tiếp, tôi để ý đến ông McCain không
phải vì ông ấy từng là ứng cử viên Tổng Thống Hoa Kỳ, mà vì tấm
ảnh chụp lúc ông ấy bị thương, tay bị băng bột, treo lên. Trong
hình đó, ông McCain giống như một tài tử xi–nê. Một tấm ảnh khác,
chụp ông McCain và vài quân nhân Hoa Kỳ vừa rời xe buýt của Việt
cộng để đáp phi cơ về Mỹ, tôi thấy ánh mắt và thái độ của ông ấy
– cũng như của những quân nhân Hoa Kỳ khác cùng được thả với ông
ấy – đều mang nét bất khuất, kiêu hùng của những người Mỹ thời
chinh phục miền Tây. Một nhân vật nữa là ông Richard Lee
Armitage. Ông Armitage là một trong những cố vấn của Hải Quân
VNCH. Khi thực hiện cuốn tài liệu Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi,
1975, tôi được hân hạnh phỏng vấn ông ấy.
Câu chuyện giữa ông Buckner và tôi vừa
đến đây thì Ban Tổ Chức yêu cầu mọi người đứng lên, nghiêm chỉnh
cử hành lễ chào Quốc Kỳ. Sau đó giáo sư Vinh, cựu đại tá và bà
Huỳnh Hữu Hiền và ông Buckner được mời lên sân khấu để Ban Tổ
Chức tặng vòng hoa.
Tiếp theo là phần phát biểu của Ban Tổ
Chức và của vài vị quan khách.
Khi được mời lên sân khấu, tôi chỉ vắn
tắt cảm ơn những người bạn tốt bụng của Khóa 6/68 SQ/TB Thủ Đức
và tôi chấm dứt bằng ba câu “...
Các anh đã thể hiện một cách cao đẹp truyền thống Huynh Đệ Chi
Binh của Người Lính QLVNCH... Một lần nữa, Điệp–Mỹ–Linh xin đa tạ
tấm lòng của những người đã một thời cùng Nguyễn Phiêu Linh trải
dài những tháng ngày đầu đời binh nghiệp tại Quân Trường Sĩ Quan
Trừ Bị Thủ Đức; để rồi, sau đó, các anh cũng đã cùng Nguyễn Phiêu
Linh hy sinh tuổi trẻ để bảo vệ Quê Hương Miền Nam.”
Khi trở về chỗ ngồi, thấy anh Tiến đứng
cạnh ông Buckner, tôi hỏi nhỏ anh Tiến sao chưa thấy ông Buckner
lên sân khấu? Anh Tiến cho biết rằng ông Buckner bảo ông ấy chưa
chuẩn bị, hẹn kỳ Hội Ngộ sau sẽ phát biểu cảm tưởng và sẽ nói về
những kỷ niệm khó quên ở Việt Nam.
Chương trình văn nghệ “cây nhà lá vườn”
nhưng rất vui và khởi sắc. Tôi được dịp cười vì anh Hiền lại đơn
ca Căn Nhà Tiền Chế. Chị Bích Thủy cũng như nhiều thân hữu đã góp
vui bằng những bài ca một thời của Lính.
Bất ngờ ông Buckner bước qua phía tôi,
nói nhỏ:
– Tôi
phải về. Tạm biệt.
Tôi vội vàng đứng lên. Trong khi bắt
tay ông Buckner, tôi hỏi:
– Thưa ông, ông nghĩ như thế nào về Đêm
Hội Ngộ này?
–
Tuyệt vời! Tôi có một buổi tối rất đẹp và niềm vui trọn vẹn.
– Cảm ơn ông. Tôi cũng có cùng cảm nghĩ
với ông.
Buổi
Hội Ngộ chấm dứt vào lúc một giờ khuya.
Trong khi theo anh Hải và các anh chị
trong Ban Tổ Chức ra bãi đậu xe, nhìn lên bầu trời trong xanh,
tôi tưởng như tôi thấy Linh đang mỉm cười, vừa vẫy tay vừa lui
dần vào khoảng không gian lấp lánh ánh sao. Tiếng hát xưa chợt
ngân lên trầm trầm rồi vút cao trong hồn tôi: “Sayonara,
Sayonara... goodbye!...”
(3)
ĐIỆP MỸ
LINH
www.diepmylinh.com
(1)
Chi tiết này đã được con tôi, Xuân Nguyệt, đưa vào bài thuyết
trình về Văn Hóa Việt Nam khi cháu theo học tại Đại Học Rice tại
Houston.
(2)
Nghệ Sĩ Với Cây Đàn
của Nguyễn Văn Khánh.
(3)
Sayonara của Irving Berlin.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Điệp Mỹ Linh chuyển
Đăng ngày Thứ Ba,
May 24, 2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang