Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Chuyện Tình
Tác giả:
Điệp Mỹ Linh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Giữa
sự hùng vĩ của thiên nhiên, Hằng cảm nhận được rằng đời người hay
là những biến động trong cuộc đời, dù có lớn lao đến đâu chăng
nữa, so ra cũng vô cùng nhỏ bé trước sự vô thường của vạn vật –
huống chi căn bệnh Huntington’s disease trong cơ thể của nàng!
Nhận ra được điều ấy rồi, Hằng cảm thấy dường như bao mối ưu
tư/phiền muộn/sợ hãi trong nàng đang từ từ tan loãng như những
vùng tuyết long lanh trên đỉnh núi cao. Hồn nàng nhẹ tênh, thơ
thới trong sự yên bình của ngoại cảnh.
Rời Leavenworth – thuộc Washington
state – bỏ lại phía xa dòng sông sủi bọt trắng xóa, Hằng đến làng
Cashmere nhỏ bé nhưng đầy dấu vết của những cuộc Tây tiến thuở
xưa. Vừa qua khỏi mấy cửa hàng trang trí như trong phim xi–nê
“Cao–bồi”, Hằng bỗng nhận ra nàng đang lạc vào thế giới của cây
táo (apple trees).
Qua khỏi khu vực trồng táo, thấy rừng
thông xanh soi mình trên mặt nước và những chiếc du thuyền nhỏ
nằm cạnh nhau bên mấy chiếc cầu gỗ, Hằng chợt nhớ đến một thành
phố thân thương trên miền đất đỏ với mặt hồ câm nín/với đồi trà
ngát hương/với rừng thông bạt ngàn.
Bên rừng thông xanh biếc ấy, mỗi khi
Thuận – chồng của Hằng – từ đơn vị về thăm, đã nói với Hằng không
biết bao nhiêu lời âu yếm. Rồi những buổi chiều, Thuận và Hằng
lặng lẽ đi bên nhau trong tiếng thông reo cùng tiếng lá khô xào
xạc dưới chân.
Năm 1975, sau khi Thuận đi tù cải tạo,
cũng chính nơi rừng thông vắng lặng ấy, các con của Thuận và Hằng
– Phượng, Thủy và Huân – vào cuối tuần hoặc ngày lễ, nghỉ học,
thường đến nhặt nhánh thông khô về bán cho người ta làm củi.
Một buổi chiều, Thủy và Phượng đi lượm
củi. Trên đường về Thủy bị một loại côn trùng chích. Thấy vết
chích không chảy máu, Phượng và Thủy nghĩ rằng không hại gì, cho
nên chẳng cho Hằng biết. Ðến khuya, vết chích sưng lên và đau
nhức, Thủy khóc, Hằng mới biết.
Hằng đưa Thủy đến bệnh viện công cộng.
Tại đây – vì Hằng khai Bố của Thủy đang cải tạo – y tá để Mẹ con
nàng chờ cho đến sáng mà cũng vẫn không được đưa vào cho bác sĩ
chẩn bệnh.
Trời sáng hẳn. Thủy vẫn nằm thiêm thiếp trên chiếc băng nhớp
nhúa. Hằng vừa khóc vừa nhìn quanh. Bác sĩ và y tá bắt đầu đổi
phiên. Bác sĩ Toàn đi ngang. Hằng “nhào” đến, khóc òa:
–Bác sĩ! Làm ơn cứu con tôi!
–Con chị đâu? Nó bị gì?
–Thưa bác sĩ, cháu bị con chi cắn mà
vết thương sưng lên và đã trở màu. Mẹ con tôi chờ từ khuya đến
giờ, không ai “ngó ngàng” gì tới cháu cả. Bác sĩ làm ơn cứu con
tôi.
Bác sĩ
Toàn vẫy tay, gọi y tá:
–Ðem con bé vào phòng cấp cứu ngay!
Hằng chịu ơn Toàn từ đó. Nhưng chị em
Thủy lại tỏ thái độ chống đối rất mạnh mẽ mỗi khi Toàn kiếm cớ
ghé nhà thăm bệnh cho Thủy để được nói chuyện với Hằng. Khi nào
bị Hằng lừ mắt, bảo đi chỗ khác chơi, Phượng và Thủy cũng xúi cu
út Huân chạy ra nhõng nhẽo với Mẹ.
Hằng không hiểu tại sao ngày ấy Huân
thường nhõng nhẽo, vòi vĩnh đủ điều để Toàn bực mình phải đi về;
còn ngày nay, trước sự phản bội của Thuận, Huân – trong lần từ
Yale University về thăm nhà – đã trả lời Hằng:
–Con nghĩ Ba có thể nghe lời con trong
những vấn đề khác; còn vấn đề tình cảm của Ba, làm sao con có thể
xen vào được?
Vì lúc ấy Hằng chưa biết nàng mắc phải chứng Huntington’s disease
cho nên Hằng muốn tìm mọi phương cách để giữ Thuận:
–Nếu con không khuyên giải, rủi Ba mê
bà Ngọc rồi bỏ mẹ con mình, con nghĩ sao?
–Ba mê bà Ngọc, đó là quyền của Ba. Ba
bỏ mẹ con mình, đó cũng là do ý của Ba, con đâu làm gì được! Con
nghĩ đây là chuyện của Ba Mẹ, Ba Mẹ nên dàn xếp với nhau. Trong
đời, chỉ có Ba và Mẹ là hai người con thương nhiều nhất; con
không thể bênh người này mà bỏ người kia.
–Biết Ba làm điều sai mà con không bênh
Mẹ được sao, Huân?
–Con không nói những gì Ba làm là đúng.
Nhưng không phải vì những điều không đúng đó rồi con không thương
Ba. Mẹ hiểu con muốn nói gì không?
–Con nói vậy, nếu gia đình mình đổ vỡ,
con có vui không?
–Dĩ nhiên là con không vui; nhưng con
cũng đâu làm gì được!
–Tại sao con không làm gì được? Con tìm
lời khuyên Ba. Ba cưng chiều con, Ba sẽ nghe lời con. Ba sẽ vì
các con mà trở về với gia đình, để gia đình khỏi tan vỡ.
–Con nghĩ, phải vì Mẹ mà Ba trở về thì
Ba Mẹ mới có hạnh phúc. Còn nếu vì tụi con mà Ba trở về thì Ba Mẹ
chỉ sống một đời gượng ép bên nhau thôi. Nếu Ba Mẹ không thương
nhau nữa, hãy giải quyết với nhau một cách công bằng và êm thắm;
đừng vì đàn con mà sống như tù ngục. Như trường hợp của Mẹ, Mẹ
nên sống cho Mẹ, Mẹ không nên sống cho bất cứ người nào khác.
–Nếu Mẹ quan niệm giống như con thì
ngày đó, từ trại cải tạo, Ba gửi thư về miệt thị Mẹ không tiếc
lời, Mẹ đã chấp nhận bác Toàn là chồng rồi. Con nhớ không? Chính
con không chấp nhận sự hiện diện của bác Toàn mà!
–Dạ, con biết. Con nhớ. Nhưng dạo đó
con chỉ là đứa bé con, sống trong một môi trường khác cho nên
nhân sinh quan của con tùy thuộc vào bối cảnh chung quanh. Bây
giờ con hấp thụ nếp sống ở đây, lối suy nghĩ và cách hành xử của
con linh động và thực tế hơn.
–Hay là con còn giận Mẹ về chuyện bác
Toàn?
–Dạ
không. Thật ra, dạo đó tụi con có buồn và giận Mẹ về việc bác
Toàn. Nhưng, sau này nghĩ lại, tụi con thấy tụi con bất công đối
với Mẹ. Giữa một xã hội mà người phụ nữ – nhất là những phụ nữ
thuộc vào những gia đình khuê các như Mẹ – lúc nào cũng bị đặt
vào vị thế thụ động và không bao giờ hấp thụ được tinh thần tự
lập thì người phụ nữ đó làm được gì để nuôi con và nuôi thân khi
bất ngờ người đàn ông trong gia đình không còn hiện diện? Vì vậy,
con nghĩ, những người phụ nữ rơi vào tình cảnh như Mẹ đáng thương
hơn đáng trách.
Không phải chỉ có Huân mới suy luận và
phân tích vấn đề một cách vô tư và rộng lượng, mà ngay cả Phượng
cũng có những ý nghĩ rất mới, rất thực tế, như hầu hết người trẻ
lớn lên trong xã hội Âu Mỹ.
Thật vậy, hôm đó, trong người không
được khỏe, Hằng xin nghỉ làm, về sớm. Vào nhà bằng cửa sau, Hằng
vô tình nghe tiếng Phượng từ trên lầu:
–Không phải con ăn hạt cơm do đồng tiền
ông Toàn cho rồi con bênh Mẹ hay bênh ông Toàn. Nhưng ba nghĩ đi,
Mẹ lấy ông Toàn để có tiền nuôi Ba trong tù, nuôi tụi con ăn học
và dành dụm tiền đưa tụi con vượt biên, ai nỡ kết tội Mẹ?
–Ba không dính dấp gì đến đồng tiền
thối tha, nhơ nhớp đó.
–Ba nhầm. Ba ở tù bao lâu và Mẹ đi thăm
nuôi Ba bao nhiêu lần trước khi cô Hai viết thư mách Ba?
–Khốn nạn! Nếu biết vậy, tao thà chết
chứ không thèm nhận một xu!
–Ba nói như vậy là Ba chỉ nói về phần
Ba. Còn Mẹ và tụi con thì sao?
–Thiếu gì bà phải buôn gánh bán bưng mà
vẫn nuôi chồng trong tù và nuôi con đi học.
–Con biết có nhiều phụ nữ Việt Nam đáng
quý như vậy. Nhưng không phải bất cứ người phụ nữ Việt Nam nào
cũng có thể gồng, gánh, lao lực chân tay được. Mẹ là một trong
những người rơi vào vị thế đó. Nhưng cái vị thế đó không phải do
Mẹ tạo nên mà là do hoàn cảnh xã hội và quan niệm sống thời bấy
giờ đã tạo nên. Ba nghĩ lại đi. Những người có địa vị như ba có
bao giờ muốn, hoặc được Cha Mẹ chấp thuận, cho phép thành hôn với
một cô gái ít học, lam lũ, con nhà nghèo hay không? Không! Lúc
nào những người như Ba cũng muốn, hoặc bị gia đình ép buộc để
thành hôn với những cô con nhà quyền thế, giàu sang, càng trưởng
giả càng tăng phẩm giá. Trong những gia đình như vậy, người con
gái thường ỷ lại; vì lúc nào cũng có người khác để sai bảo/để nhờ
cậy. Ðến khi lấy chồng, người chồng vì tự ái, vì muốn nắm quyền
trong gia đình, không cho vợ đi làm. Như vậy, người phụ nữ có
được chuẩn bị để đối phó với những bất trắc khi người đàn ông bất
ngờ khuất bóng hay không?
Im lặng. Hằng hồi hộp chờ tiếng quát
tháo của Thuận; nhưng tiếng Phượng lại vang lên:
–Thưa Ba! Mỗi khi gặp bạn, Ba thường
khoe rằng tụi con học tại các đại học danh tiếng của Mỹ. Những
lúc đó, có bao giờ Ba nghĩ đến sự hy sinh và sự chịu đựng của Mẹ
hay không?
–Con thử đi hỏi tất cả người Việt Nam xem có ai nói người vợ
ngoại tình trong khi chồng ở tù mà lại được gọi là hy sinh thì
con sẽ có câu trả lời.
–Ba! Hồi đó Ba cưới Mẹ là Ba cưới vợ
cho Ba hay là Ba cưới vợ cho người Việt Nam?
–Ba tiêm nhiễm tư tưởng Khổng Mạnh. Con
ảnh hưởng lối suy nghĩ của người Tây phương. Cha con mình không
nên bàn luận về vấn đề này nữa.
–Con nghĩ, thà mổ xẻ vấn đề để đi đến
kết luận chứ Ba tìm cách tránh né cũng không được.
–Vấn đề con muốn mổ xẻ là vấn đề gì?
–Vấn đề giữa Ba, Mẹ và bà Ngọc. Con
nghĩ, giữa hai người đàn bà Ba chỉ có quyền chọn một, để người
kia còn lo liệu cho tương lai của người đó. Ba không nên – cùng
một lúc – làm khổ hai người đàn bà.
Sau một thoáng im lặng, Phượng tiếp:
–Ba không thể thương yêu Mẹ được nữa vì
một người đàn ông khác đã đi qua đời của Mẹ, đúng không?
Thuận gật đầu. Phượng cười:
–Vậy thì, Ba cho con hỏi, bà Ngọc đến
với Ba trong tư thế nào? Bà Ngọc cũng đã có chồng có con, nghĩa
là cũng đã có đàn ông đi qua cuộc đời bà ấy rồi, tại sao Ba lại
chấp nhận?
–Ông bà mình có câu: “Lấy đĩ về làm vợ; không ai lấy vợ về làm
đĩ” con biết không?
–Con nghĩ, nếu trong khi đang sống yên
ấm với chồng con mà người đàn bà lang chạ thì nên lên án. Còn
nếu, ngoài lũ con dại, người chồng không để lại cho vợ bất cứ
điều chi khác, người vợ phải chịu làm đĩ nuôi con ăn học thì đó
là người phụ nữ biết hy sinh, biết sống cho người khác. Ba không
nên quan niệm rằng người phụ nữ được sinh ra chỉ để sống và chết
cho một người đàn ông!
Thuận lại thở dài, im lặng. Phượng kết
luận:
–Ba đừng
giận con. Con chỉ nói những gì con nghĩ chứ không phải con cố
tình nói để Ba tha thứ cho Mẹ; vì Mẹ chẳng có lỗi gì để Ba phải
tha thứ. Lỗi là lỗi ở xã hội và lỗi ở Ba; vì không ai trang bị
cho những phụ nữ như Mẹ số hành trang cần thiết trước khi “thảy”
họ vào đời!
Hằng cảm thấy ấm lòng khi nghe những lời chí tình của Phượng.
Nhưng, sau khi bác sĩ cho biết kết quả thí nghiệm, không biết bao
nhiêu đêm Hằng khóc một mình và cũng không biết bao nhiêu lần
Hằng muốn nói với Thuận. Nhưng, nghĩ lại, Hằng đã gây ra ấn tượng
nhơ nhớp trong lòng Thuận; nay, Hằng không muốn Thuận thấy cơ thể
của nàng phải chịu sự hủy diệt khủng khiếp của căn bệnh này! Và
Hằng cũng không dám nói với các con; vì Hằng cảm thấy như Hằng có
lỗi với các con, dù rằng Hằng chưa biết các con có thể bị di
truyền mầm mống của căn bệnh quái ác này hay không! Và đó là điều
xâu xé tâm hồn Hằng nhiều nhất.
Hằng tiếp tục cuộc ngoạn cảnh bằng tỉnh
lộ 13, rồi quẹo trái, vào xa lộ 153. Cuối cùng, Hằng dừng xe ngay
giữa làng Winthrop. Nơi đây, du khách và người địa phương – trong
những chiếc quần jeans bó sát hoặc cắt ngắn và những đôi dày cao
cổ – cứ thư thái đi hoặc đứng/ngồi ngay trên vỉa hè bằng gỗ. Âm
vang những bản dân ca được ban nhạc sống trình bày thoát ra từ
một “saloon” như làm sống lại những nét hào hùng của thời chinh
phục miền viễn Tây.
Rời Winthrop, Hằng theo xa lộ 20, tiến
về núi Liberty Bell. Vừa xa hồ Ross bằng một khúc quanh, Hằng
chợt bàng hoàng trước màu xanh lạ lùng của mặt hồ Diablo phía
dưới xa.
Hằng
rẽ vào hồ Diablo. Nhìn mấy đỉnh núi tuyết vây quanh hồ Diablo,
Hằng bỗng lặng người khi thấy tuyết trên đỉnh Pyramid mang tất cả
góc cạnh của khuôn mặt một người đàn ông da đỏ đang ngẩng mặt
nhìn trời. Nghĩ rằng mình giàu tưởng tượng, Hằng đổi vị trí trong
khi một áng mây mỏng sà xuống đỉnh Pyramid. Khi Hằng nhìn đỉnh
Pyramid từ vị trí mới thì chính áng mây mờ đã tạo nên những đường
nét thống hận, uất hờn trên khuôn mặt và ánh mắt của người đàn
ông da đỏ!
***
Bên khóm thông già nơi khúc quanh của
dòng Skagit êm đềm, Thuận và Hằng yên lặng ngồi bên nhau, trên
bậc cấp bằng đá, phía sau căn nhà Hằng thuê.
Biết Hằng đang ngắm chú chim
Hummingbird vờn quanh đóa hoa dại màu đỏ chứ chẳng để ý chi đến
chàng, Thuận thở dài, trầm ngâm. Từ hôm qua đến giờ, đầu óc Thuận
quay cuồng với không biết bao nhiêu điều khó nghĩ.
Khởi đầu, Hằng bảo nàng muốn dùng hai
tuần phép thường niên để đi chơi xa một mình, Thuận rất hài lòng;
vì Thuận nghĩ Thuận sẽ được tự do vui thú với Ngọc. Vài hôm sau
Hằng điện thoại về, bảo Hằng thích ở lại Newhalem, Thuận cứ đinh
ninh rằng Hằng ghen, giận, bỏ đi xa, nay gọi về làm “nư”, dọa
Thuận. Khoảng hơn một tuần sau, Hằng lại gọi về, bảo đã tìm được
việc làm và có chỗ ở tốt, Thuận cảm thấy hụt hẫng như chàng vừa
mất một cái gì thân thiết lắm!
Thuận đưa các con đến năn nỉ Hằng về.
Và Thuận tự tin rằng Hằng sẽ cảm động và vui sướng để trở về; vì
được Thuận “xuống nước” năn nỉ. Nhưng khi Hằng từ chối mà không
viện dẫn lý do chính đáng, các con không thắc mắc; vì thấy quả
thật Hằng có việc làm tốt, nơi trọ an ninh. Và điều quan trọng
nhất là các con nhận thấy Hằng không còn vẻ đau khổ như lúc ở nhà
với Thuận.
Thuận lại khác. Sau nhiều lần thuyết phục Hằng không được, hôm
nay Thuận chẳng biết phải nói gì/làm gì để Hằng đổi ý trước khi
Thuận đưa các con trở về để kịp sáng mai các con trở lại trường.
Trong khi Thuận và Hằng ngồi bên nhau
như hai pho tượng thì, nơi khúc sông cạn, Thủy và Huân – với chân
trần và quần jeans xắn cao – đang bước nhè nhẹ, tìm nhặt những
viên đá cuội nhỏ xíu, hình tròn. Và bên kia bờ, trên phiến đá
phẳng, Phượng ngồi đọc sách, chân đong đưa trong dòng nước.
Lâu thật lâu, Thuận quay sang, gọi
“Hằng!” Hằng nhìn Thuận. Thuận tiếp:
–Anh đồng ý với em. Khung cảnh nơi đây
rất thích hợp với những người thích thiên nhiên và ưa sự tĩnh
lặng, như em. Nhưng làm thế nào dòng sông đầy đá cuội và mấy đỉnh
núi tuyết vô hồn kia lại có thể thay thế được anh và các con,
trong lòng em?
–Em đã giải thích tất cả với anh và các
con rồi. Các con đã chấp nhận một cách dễ dàng và bình thản, tại
sao bây giờ anh lại cố tình làm cho em áy náy?
–Anh còn thương em, Hằng ạ! Nhưng anh
không ngờ, đối với em, anh không còn là gì cả!
Hằng không còn trầm tĩnh được nữa, vội
bậm môi, cúi mặt để khỏi bật khóc. Khuya hôm qua, trong căn nhà
trọ một phòng ngủ, lúc rón rén xuống bếp uống nước, Hằng thấy
Thuận nằm đâu chân với Huân trên chiếc xa–lông hình chữ “L”. Hằng
kéo mền đắp cho Huân và Thuận. Chính lúc đó Hằng cảm thấy thương
Thuận vô cùng, chỉ muốn ôm Thuận mà khóc/mà san sẻ niềm sợ
hãi/nỗi đau thương nàng đang âm thầm gánh chịu. Nhưng chợt nhớ
đến Ngọc, lòng Hằng bỗng lạnh băng! Hằng lủi thủi trở vào phòng
nằm với Phượng và Thủy. Bây giờ nghe giọng Thuận như than van,
Hằng lại mềm lòng, chưa kịp thố lộ nỗi lòng thì Thuận tiếp:
–Hằng! Em biết tính anh. Chưa bao giờ
anh năn nỉ ai; vậy mà anh đã năn nỉ em hết lời rồi. Bây giờ, em
hãy trả lời dứt khoát: Em có còn tý tình cảm nào cho anh và các
con hay không?
Hằng lại cúi mặt, quẹt nước mắt. Hằng
biết, nếu nàng “thua cuộc” bây giờ thì bao nhiêu ước muốn/bao
nhiêu dự tính của nàng từ bấy lâu nay sẽ vỡ tan! Và trong tương
lai gần, với căn bệnh bất trị của nàng, nàng cũng sẽ là kẻ “bại
trận” trong cuộc “chạy đua” với Ngọc để giành tình yêu của Thuận!
Thôi, chi bằng nàng can đảm thêm tý nữa để sau này khỏi phiền lụy
các con và cũng để giữ mãi trong lòng Thuận hình ảnh xinh đẹp của
nàng trước khi căn bệnh Huntington’s disease tàn phá cơ thể nàng.
Hằng quyết liệt:
–Em phải sống cho em nữa, anh ạ!
Thuận đứng lên, gằn giọng:
–Phải rồi! Qua đây học đòi theo cá nhân
chủ nghĩa của Mỹ, bà nào cũng đòi sống cho mình. Hèn chi đàn ông
Việt Nam về xứ cưới vợ “rần rần”!
Nói xong Thuận giận dữ bỏ đi về phía
dòng sông, gọi các con ra xe, chuẩn bị đi về.
Nhìn theo Thuận, Hằng không giận cho sự
hiểu lầm của Thuận mà Hằng lại cảm thấy tái tê trong hồn, nước
mắt cứ lặng lẽ rơi. Nhưng, chỉ một chốc sau, niềm xúc động lắng
xuống, Hằng lau nhanh nước mắt, cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng; bởi
vì, nếu Thuận cứ tiếp tục năn nỉ, ngọt ngào, Hằng không hiểu nàng
có thể ôm kín nỗi đau được bao lâu nữa!
Xa xa, Phượng, Thủy và Huân vừa bước
lui vào bờ theo tiếng gọi của Thuận vừa nhìn lại dòng Skagit lặng
lờ như còn luyến tiếc niềm vui riêng!
ĐIỆP–MỸ–LINH
https://www.diepmylinh.com
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: phong cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Điệp Mỹ Linh chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy,
November 7, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang