Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
Ngắn
Chủ đề:
Kỷ Niệm
Tác giả: ĐIỆP–MỸ–LINH
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Vừa vói tay muốn lấy cuốn sách
đọc dở dang tối hôm qua để đọc tiếp, nhưng Phượng–Quỳnh vội dừng
tay; vì nghe điện thoại reng. Phượng–Quỳnh vội chụp ống nghe, bước
nhanh sang chiếc xa–lông nhỏ; vì ngại tiếng nói chuyện sẽ làm mất
giấc ngủ của đứa cháu cưng.
– Allo.
– Cho tôi được tiếp chuyện với bà
Phượng–Quỳnh.
–
Dạ, tôi là Phượng–Quỳnh. Xin ông cho biết quý danh?
Phượng–Quỳnh không nghe tiếng trả lời mà
chỉ nghe một dòng âm thanh piano rộn rã. Phượng–Quỳnh
nhận ra đây là nhạc sống chứ không phải nhạc băng cho nên cứ lắng
nghe.
Từ đầu
giây bên kia, tiếng nhạc vẫn vui tươi, rộn ràng, từ phân đoạn của
bản nhạc này chuyển sang phân đoạn của nhạc khúc khác thật tài
tình và chỉ đàn toàn nhạc ngoại quốc. Phượng–Quỳnh không thể đoán
được trong số bạn hữu ai là người có ngón đàn piano đầy
ma lực như vậy.
Càng lắng nghe tiếng đàn Phượng–Quỳnh
càng cảm thấy nàng lạc hậu và quê mùa như một người chưa hề biết
gì về âm nhạc; vì Phượng–Quỳnh không nhận ra được tựa đề cũng như
âm giai của bản nhạc. Trong khi Phượng–Quỳnh tủi thân cho sự “tuột
dốc” thảm hại của nàng thì từ đầu giây bên kia, theo tiếng đàn,
một giọng nam cất lên. Mấy câu đầu Phượng–Quỳnh nghe không rõ vì
giọng người hát hơi nhỏ. Sau cùng Phượng–Quỳnh nghe được:
“...
Stronger than any mountain cathedral,
Truer than any tree ever grew,
Deeper
than any forest primeval,
I am in love
with you... “
(1).
Lấy làm lạ, Phượng–Quỳnh lại lên tiếng
“Allo” nhưng vẫn không ai trả lời. Phượng–Quỳnh đắn đo, không biết
nên tiếp tục lắng nghe hay là gác ống nghe để đọc sách. Bất ngờ
tiếng hát chuyển sang:
“Ngày
nào một giấc mơ.
Đâu những đêm trăng mờ
ai ngóng chờ... “
(2).
Phượng–Quỳnh ngẩn ngơ, không biết người
bạn nào nghịch mà lại đàn và hát những tình khúc dễ thương đến như
vậy! Phượng–Quỳnh lắng nghe cho đến câu cuối:
“... hay
đớn đau vì câu chờ kiếp sau.
Trăng úa
màu, lệ dâng ướt ngàn sao.”
(3).
Không dưng Phượng–Quỳnh cảm thấy buồn và
nhớ những ngày Danh và nàng yêu nhau.
Ngày xưa, mỗi khi giận hờn hoặc hôm nào
Danh không đến điểm hẹn là Phượng–Quỳnh tưởng như trái đất sắp
ngừng quay/ngày tận thế sắp cận kề và tối đó thế nào Phượng–Quỳnh
cũng thơ thẩn nhìn Trời mây rồi rơm rớm nước mắt, hát đi/hát lại
hai câu này để nghĩ đến Danh.
Tiếng hát ngưng. Phượng–Quỳnh nghe:
– Phượng–Quỳnh.
– Dạ, xin lỗi, ai đầu giây ạ?
– Lâu quá cho nên không nhận ra giọng,
phải không? Lân đây. Lân ngày xưa dạy Lý–Hóa ở Võ Tánh, nhớ không?
Phượng–Quỳnh vô cùng ngạc nhiên và bối
rối, không biết nên xưng bằng “con” như ngày xưa hay là xưng bằng
“em”. Nghĩ lại, Lân cũng không lớn hơn nàng nhiều cho nên đáp:
– Dạ, thưa Thầy, vì bất ngờ quá cho nên
em không nhận ra. Em xin lỗi Thầy. Làm thế nào Thầy biết được điện
thoại của em?
–
Cách nay mấy tuần, nhân buổi họp mặt cựu học sinh Võ Tánh và Nữ
Trung Học, tôi gặp lại Nghi. Nghi hồi đó cùng học B4 với
Phượng–Quỳnh, nhớ không? Tôi hỏi thăm Phượng–Quỳnh và Nghi cho tôi
số điện thoại.
Vì tính hay quên, Phượng–Quỳnh không thể nhớ được nhiều chi tiết
về Lân. Nhưng kể từ ngày Nghi, người bạn gái duy nhất cùng lớp “B”
với Phượng–Quỳnh ngày xưa, nói cho Phượng–Quỳnh biết ngày đó Lân
để ý và có cảm tình với nàng thì Phượng–Quỳnh mới từ từ ôn lại
khuôn mặt, vóc dáng, giọng nói và cử chỉ của Lân.
– Thưa Thầy, khi nói chuyện, em nhận ra
giọng của Thầy; nhưng khi Thầy hát – nhất là khi Thầy hát tiếng
Anh – em cứ ngỡ là ông Mỹ nào đang hát.
Lân cười. Phượng–Quỳnh tiếp:
– Thầy cho em hỏi một câu, được không ạ?
– Vâng, cứ nói chuyện tự nhiên. Nếu
Phượng–Quỳnh tiếp tục gọi tôi bằng Thầy, tôi sẽ gọi Phượng–Quỳnh
bằng... bà đó.
– Thưa Thầy, em quen rồi, đổi không được. Thưa Thầy, Thầy học
piano từ hồi nào? Em nhớ, ngày xưa, Thầy không chơi đàn mà.
Lân im lặng. Ngày xưa, mỗi khi trường Võ
Tánh tổ chức văn nghệ tại rạp Tân–Quang/Việt–Quang/Tân–Tân hoặc
trên sân khấu lộ thiên nơi bãi cát phía sau trường, Lân cứ thầm
nôn nóng mong chóng đến phần văn nghệ do Phượng–Quỳnh phụ trách.
Khi nghe xướng ngôn viên giới thiệu Phượng–Quỳnh, Lân hồi hộp, sửa
lại dáng ngồi. Phượng–Quỳnh ôm accordéon bước ra sân
khấu, tươi cười, cúi chào khán giả. Nhìn Phượng–Quỳnh độc tấu
những nhạc khúc ngoại quốc, Lân cảm thấy Phượng–Quỳnh trên sân
khấu và Phượng–Quỳnh, cô học trò duyên dáng, đẹp tự nhiên và rất
ít nói “của chàng” không phải là một. Lân tự hỏi không hiểu
Phượng–Quỳnh có biết chàng đang chú tâm theo dõi từng cử chỉ của
nàng – một hành động mà Lân cố tình giấu kín mỗi khi bước vào lớp
B4 – hay không. Khi Phượng–Quỳnh đàn cũng như khi Phượng–Quỳnh
hát, Lân cảm nhận được những xao xuyến/ những rung động/ những ước
mơ đang dâng lên trong lòng. Lân thầm mong sẽ tạo cơ hội để
Phượng–Quỳnh nhận biết được tình cảm của chàng dành cho nàng.
Nhưng, suốt mấy năm dạy Phượng–Quỳnh ở các lớp đệ nhị cấp, Lân chỉ
thấy nàng vô tư như trẻ thơ và ngây thơ cho đến độ chưa biết làm
dáng và chưa biết chưng diện như các bạn cùng lứa, cho nên chàng
vẫn dè dặt.
Sau
khi Phượng–Quỳnh và Nghi rời Võ Tánh, vào Sài Gòn học Luật, nhiều
lần Lân tự trách tại sao chàng quá kín đáo/đắn đo/rụt rè? Nhưng
không kín đáo/đắn đo sao được khi mà nền đạo lý Á Đông còn quá
khắt khe đối với những người chọn ngành mô phạm!
Gặp lại Phượng–Quỳnh khi nàng trở lại
thăm trường cũ, thấy Phượng–Quỳnh có vẻ bạo dạn hơn trước, Lân vui
thầm. Chàng hy vọng sẽ tạo cơ hội gặp lại Phượng–Quỳnh. Nhưng khi
Lân vào lớp – lớp cũ của Phượng–Quỳnh và Nghi – trên lầu, nhìn
xuống cổng chính, thấy Phượng–Quỳnh thướt tha đến bên một thanh
niên đang ngồi chờ trên Vespa rồi nàng ngồi vào yên sau thì niềm
hy vọng của Lân tan đi! Về sau Lân mới biết người lái Vespa hôm đó
là Danh – một người bạn lớn lên cùng thành phố với Lân.
Từ hôm đó, ý nghĩ “đi lính” cứ lảng vảng
trong lòng Lân; vì Lân cảm thấy buồn về mối tình đơn phương. Nhưng
rồi Lân tìm được một giải pháp khác hay hơn để xoa dịu niềm thất
vọng. Chàng học piano để được đàn những bản nhạc mà
Phượng–Quỳnh đã đàn/đã hát; và cũng để có cơ hội được trút xuống
phím piano nỗi buồn thầm kín trong lòng. Vì vậy Lân đáp:
– Tôi học piano lâu rồi. Nhưng
piano dễ, không phải mang vào người như accordéon
của Phượng–Quỳnh.
– Dạ, em không nhớ tại sao ngày đó em
lại chỉ thích đàn accordéon thôi.
Nói ngang đây Phương–Quỳnh vội cải
chính:
–Ô, thưa
Thầy, em nhớ rồi.
–Nhớ gì?
–Em thích accordéon vì hình ảnh
của Dean Martin trong những phim ca nhạc. Thầy nhớ Dean Martin
không, thưa thầy?
–Nhớ chứ sao không. Dean Martin không
những đàn hay mà hát cũng tuyệt vời.
–Dạ. Em thích anh chàng đó lắm.
Lân chuyển đề tài:
– Phượng–Quỳnh và Danh vẫn khỏe chứ?
– Dạ, cảm ơn Thầy. Thầy muốn nói chuyện
với anh Danh, phải không ạ?
– Tôi mới gặp Danh tại phi trường Los
Angeles cách nay khoảng hơn một tháng, đã thăm hỏi nhau rồi. Tý
nữa sẽ nói chuyện thêm với Danh, bây giờ nói chuyện với
Phượng–Quỳnh, có chi trở ngại không?
– Dạ, thưa Thầy, không.
– Phượng–Quỳnh dạo này chắc đàn tuyệt
lắm, phải không?
Phượng–Quỳnh cảm thấy khó thở như ai vừa
“đấm” vào ngực nàng! Phải vài tích tắc sau Phượng–Quỳnh mới đáp
được:
– Thưa
Thầy, em bỏ đàn từ mấy mươi năm nay rồi!
– Hả? Phượng–Quỳnh nói gì?
Phượng–Quỳnh lập lại câu nói. Cả hai
cùng im lặng. Nén tiếng thở dài, Lân hỏi:
– Tại sao vậy, Phượng–Quỳnh?
– Dạ, vì “ông bạn” của Thầy không thích.
Im lặng. Tiếng piano “rơi” nhè
nhẹ/rời rạc/văng vẳng. Một lúc lâu Lân hỏi:
– Danh nói thẳng với Phượng–Quỳnh là
Danh không thích Phượng–Quỳnh đàn hay sao? Tôi nghĩ ngày đó Danh
biết Phượng–Quỳnh chơi đàn mà, phải không?
– Dạ, ngày đó anh ấy biết em chơi đàn
nhưng về sau anh ấy thay đổi, làm sao em biết được. Anh ấy không
nói thẳng với em; anh ấy chỉ nói những câu khó chịu, em không
thích nghe cho nên em bỏ đàn luôn để anh ấy không có cơ hội dùng
những câu đó với em nữa. Còn Thầy, cô có thích Thầy đàn và viết
hay không?
–
Nhà tôi và tôi không còn sống với nhau từ lâu rồi.
Phượng–Quỳnh thoáng giật mình. Lần
Phượng–Quỳnh về Việt Nam cách nay hai năm, vào hôm họp mặt bạn
hữu, các bạn cho Phượng–Quỳnh biết tin thầy Lân trở về đời sống
độc thân, nhưng vì tính hay quên, Phượng–Quỳnh không nhớ.
Phượng–Quỳnh chỉ nhớ các bạn “nhao nhao” hỏi nàng là tại sao ngày
đó không “chịu” thầy Lân? Phượng–Quỳnh đáp rất thật lòng: “Có
biết Thầy để ý mình đâu mà chịu với không chịu?” Anh bạn cao
lêu nghêu, ngày xưa ngồi bàn cuối, bảo: “Chính tôi nghe thầy
Lân nói với thầy Hảo là Phượng–Quỳnh có nụ cười rất đầm và cái cằm
chẽ đôi.” Phản ứng tự nhiên, Phượng–Quỳnh đưa tay sờ cằm. Cái
lũng sâu nho nhỏ nhưng vô cùng duyên dáng ngay giữa cằm, ngày xưa
đã làm mê mệt nhiều chàng trai, nay không còn nữa. Một cô bạn Huế,
ngày xưa cùng trong ban văn nghệ với Phượng–Quỳnh, cười dòn: “Vô
lý. Trong khi toàn trường ai cũng biết Thầy để ý ‘nhà ngươi’ mà
tại răng ‘nhà ngươi’ lại không biết?” Phượng–Quỳnh ngẩn
người, không biết nên buồn hay nên vui. Bây giờ nghe Lân hé lộ
chuyện gia đình của Lân, Phượng–Quỳnh mới chợt nhớ:
– Dạ, em xin lỗi đã vô tình khơi lại
chuyện buồn của Thầy.
– Có chi mà buồn. Đời là vô thường. Trở
lại nguyên nhân Phượng–Quỳnh bỏ đàn. Danh nói như thế nào,
Phượng–Quỳnh thử lập lại đại ý xem?
– Dạ, mỗi khi em đàn, anh Danh thường
bảo: “Đờn gì mấy bài lạ huơ lạ hoắt, không ai biết mà cũng
đờn; còn mấy bài như Lính Dù Lên Điểm, Anh Là Lính Đa Tình hay
thấu Trời sao không chịu đờn? Đờn mà không ai hiểu, không ai biết
thì đờn địch làm chi cho mất công? Dẹp đi cho rồi!”
Trong khi Lân nghẹn lời trước một câu
nói phũ phàng như vậy thì Phượng–Quỳnh lại liên tưởng đến những
câu nói khác, cũng của Danh. Vào những dịp họp mặt bằng hữu, thấy
Phượng–Quỳnh được bạn hữu tỏ ra thương mến hoặc khen ngợi bao
nhiêu thì trên đường về nhà Danh cũng nói những lời độc hại, làm
tổn thương Phượng–Quỳnh bấy nhiêu! Mỗi khi biết Phượng–Quỳnh nghe
nhạc ngoại quốc, Danh “xì” một tiếng rồi bảo, nghe chi ba thứ nhạc
đó, bộ mất gốc rồi hả? Nếu nhạc bán cổ điển hoặc nhạc hòa tấu hay
độc tấu, Danh bảo, nghe thứ nhạc gì mà toàn đờn không, buồn ngủ
thấy bà. Phượng–Quỳnh nghe Smooth Jazz, Danh bảo, thứ đồ
nhạc của tụi đen mà cũng nghe. Khi thấy Phượng–Quỳnh trang điểm,
Danh bảo, “bôi quẹt” để làm gì? Trẻ trung gì nữa mà bày đặt.
Phượng–Quỳnh còn nhớ, ngày nàng mới sinh xong đứa con đầu lòng,
Danh “dằn mặt”, gần “băm” (ba mươi) rồi, không còn trẻ nữa đâu
nghe, cô; Phượng–Quỳnh trên ba mươi, Danh bảo, gần nửa đời người
rồi, còn gì nữa mà “bôi quẹt”; Phượng–Quỳnh trên bốn mươi là
tuổi... về vườn! Phượng–Quỳnh mặc áo màu tươi, Danh quặu, bảo
chồng con đầy đàn mà còn bày đặt chưng diện? Phượng–Quỳnh mặc áo
màu đậm, Danh lại bảo: Mặc mấy màu gì quê mùa quá vậy? Khi bắt gặp
Phượng–Quỳnh gửi check mua báo dài hạn, Danh bảo, tiền cô không
biết xài vào đâu hay sao mà mua báo dài hạn? Sang quá mà! Báo
người ta chất cả đống ngoài chợ, đi chợ sao không lượm về đọc mà
lại mua? Giàu rồi đó! Phượng–Quỳnh nghiệm ra rằng, chưa bao giờ
Danh hài lòng và cũng chưa bao giờ Danh không tìm cách chê bai/dè
bỉm về những điều nàng làm!
Nhiều khi Phượng–Quỳnh tự hỏi, tại sao
nàng không thể quên được những câu cay độc, những điều xót xa do
Danh đem đến mà nàng lại quên những điều tốt đẹp trong cuộc đời!
Bây giờ chỉ lập lại cho Lân nghe một câu thôi mà Phượng–Quỳnh cũng
vẫn còn cảm thấy tê tái trong lòng.
Lân hỏi:
– Rồi Phượng–Quỳnh trả lời như thế nào?
– Dạ, anh ấy không thích em đàn thì em
bỏ, cho yên chuyện.
Đó cũng là một câu né tránh của
Phượng–Quỳnh; vì thật ra nàng có phản ứng một cách ôn hòa. Nhưng
Danh là một người đàn ông vũ phu. Khi nào bị Phượng–Quỳnh nói đúng
tâm lý mà Danh không thể biện luận được, Danh sẽ đánh Phượng–Quỳnh
không nương tay và nói những câu thô lỗ/nặng nề hơn nữa để nàng
ngượng, không trả lời được, phải im. Phượng–Quỳnh muốn đi làm để
khỏi lệ thuộc vào Danh. Danh phản đối dữ dội: “Tôi đâu có bỏ
cô chết đói mà cô đòi đi làm để bỉ mặt tôi!” Phượng–Quỳnh
đành im lặng, ôm trong lòng niềm thất vọng/nỗi chán chường về
người đàn ông mà ngày xưa đã thề thốt và nói với nàng những điều
không thật để dụ nàng vào con đường tình không lối ra!
Không những Danh luôn nói những điều
không thật mà Danh còn có tài chối bừa, không sượng mặt.
Phượng–Quỳnh vẫn nhớ, ngày đó, khi nào Phượng–Quỳnh “trúng” một
“áp–phe” là Danh về nhà ngọt ngào, năn nỉ nàng trả giùm những món
nợ do Danh “lầm lỡ” gây ra và Danh thề độc là sẽ không bao giờ tái
phạm nữa. Phượng–Quỳnh muốn đích thân nàng đem tiền đi trả để có
dịp nói riêng với người bạn đó đừng cho Danh mượn tiền nữa. Dường
như Danh hiểu dụng ý của Phượng–Quỳnh cho nên Danh không đồng ý.
Danh bảo chàng mượn thì để chàng đem trả chứ Phượng–Quỳnh đem đến
trả sẽ làm mất thể diện của chàng. Phượng–Quỳnh nhẹ dạ và vẫn còn
tin tưởng Danh cho nên giao tiền cho Danh đi trả.
Lần nào cũng vậy, Danh không đem tiền đi
trả mà Danh dùng số tiền đó “rải” đều cho các em vũ nữ tại vũ
trường, đưa các em ca sĩ vào những nhà hàng sang trọng và đem bồ
đến sòng bài để chứng tỏ sự “chịu chơi” của Danh. Vài tuần sau,
hết tiền, Danh lại nhắc Phượng–Quỳnh tại sao chưa trả những số nợ
đó? Phượng–Quỳnh bảo: “Em đưa cho anh đem đi trả rồi mà.”
Danh nhìn thẳng vào mắt Phượng–Quỳnh rồi chối tỉnh bơ: “Đưa
hồi nào? Em cứ đòi chính em đem tiền đi trả chứ em đâu chịu đưa
cho anh. Tính em hay quên rồi em đổ thừa.” Phượng–Quỳnh tự
biết tính nàng hay quên cho nên nửa nghi nửa ngờ, đành im. Lâu
dần, sự lừa dối trắng trợn và sự đổ thừa đầy dã tâm của Danh cứ
được Danh lập đi lập lại hoài khiến Phượng–Quỳnh đâm ra lo sợ/hoài
nghi/không tin bất cứ một người nào và cũng không còn tin tưởng
vào chính nàng nữa.
Mãi đến khi sang Mỹ, Phượng–Quỳnh mới
biết, vì Danh mà nàng bị Obsessive Compulsive Disorder!
Riêng Lân, chàng biết Phượng–Quỳnh là
một cô gái hiền lành cho nên Lân không ngạc nhiên vì câu nói của
nàng mà chỉ cảm thấy xót xa/cay đắng trong lòng. Tự biết chàng
không nên nói gì trong lúc này, Lân im lặng.
Phượng–Quỳnh nghe tiếng thở dài của Lân
rồi từng tràng hợp âm trầm vang xa. Chỉ một thoáng thôi, tràng hợp
âm đó trở nên cuồng loạn. Phượng–Quỳnh có cảm tưởng như Lân đang
trút tất cả tức giận của chàng lên phím đàn. Một lúc sau, có lẽ đã
bình tâm trở lại, Lân chuyển sang một nhạc khúc êm dịu/thiết tha.
Trong lúc Phượng–Quỳnh còn nhíu mày, cố nhận ra dòng nhạc thì
giọng Lân khe khẽ: “Hay quá! Đoạn này chuyển sang Mineur,
tuyệt quá!” Câu nói của Lân khiến Phượng–Quỳnh đau đớn/tủi
buồn nhận ra sự “dốt nát” của nàng sau mấy mươi năm xa lìa địa hạt
âm nhạc! Câu nói của Lân cũng khiến Phượng–Quỳnh nhớ đến ông Ngữ –
thân phụ của nàng.
Ngày xưa, nhiều khi đang đàn,
Phượng–Quỳnh nghe tiếng dép lẹc xẹc rồi giọng ông Ngữ: “Con!
Con đàn lại đoạn đó cho Ba nghe.” Phượng–Quỳnh ngạc nhiên: “Ủa,
con đàn sai, phải không, Ba?” Ông Ngữ khoác tay: “Không.
Không phải. Ba muốn nghe lại vì đoạn đó chuyển sang Mi Mineur
tuyệt quá. Sự chuyển âm đột ngột này tụi Tây gọi là... ” Ông
Ngữ tuôn một tràng tiếng Pháp mà đến nay không thể nào
Phượng–Quỳnh nhớ được! Bây giờ nghe Lân nói một câu tương tự,
Phượng–Quỳnh nhớ Cha và thương cho công khó của người Cha đã dạy
nàng đàn. Tủi thân, Phượng–Quỳnh gục mặt vào lòng bàn tay, muốn
khóc nhưng khóc không được!
Trước sự hủy diệt của thời gian và luật
vô thường, Phượng–Quỳnh bất lực, đã đành; còn trước sự hủy diệt có
chủ tâm của một người đàn ông dành cho nàng tại sao Phượng–Quỳnh
cũng cúi đầu câm lặng suốt mấy mươi năm qua? Nhiều khi
Phượng–Quỳnh nghĩ rằng nàng hèn. Nhưng không hèn sao được khi mà
Phượng–Quỳnh – vì danh dự gia đình/vì tự ái cá nhân – không muốn
ai biết được sự nhầm lẫn của nàng. Phượng–Quỳnh không muốn các con
không có cha và cũng vì Phượng–Quỳnh được nuôi dạy theo “nền
đạo lý thánh hiền(!) Con gái mười hai bến nước; trong nhờ, đục
chịu!”
Không muốn nhớ lại những chuyện buồn xưa, Phượng–Quỳnh nghĩ cách
chuyển đề tài. Chợt nhớ đến tác phẩm Lân viết cách nay gần nửa thế
kỷ, Phượng–Quỳnh hỏi:
– Dạ, thưa Thầy, Thầy còn giữ tác phẩm
Nỗi Buồn Ngày Tháng Cũ không, thưa Thầy?
– Tuyệt bản rồi. Phượng–Quỳnh thích cuốn
đó à?
– Dạ.
Im lặng. Lân thở dài, nhớ lại buổi sáng
Chủ Nhật năm xưa, Lân buồn buồn đi dọc bờ biển thì gặp
Phượng–Quỳnh và Danh đẩy chiếc xe có em bé gái nằm ngủ bên trong.
Lân và Danh vồn vã bắt tay, chuyện trò nhưng trong lòng Lân lại
vang lên nhiều câu tự trách. Như không thể chịu đựng được lâu hơn
nữa trước một thực thể không thể cứu vãn, Lân lấy từ cặp–táp cuốn
Nỗi Buồn Ngày Tháng Cũ vừa mới xuất bản, viết: “Tặng Danh và
Phượng–Quỳnh với những kỷ niệm ấu thơ còn đó” rồi vội vã chào
tạm biệt. Bắt tay từ giã Lân, Danh hỏi: “Lâu ngày mới gặp lại,
chưa kịp thăm hỏi gì cả thì mày đòi đi. Đi đâu mà vội vậy?”
Lân cười buồn: “Tao đi bắt... con giã tràng!”
Thời đó, nghe câu trả lời đầy cay đắng
của Lân rồi đọc nét chữ quen thuộc của Lân, Phượng–Quỳnh không
nghĩ gì xa xôi. Nhưng sau khi nghe Nghi rồi các bạn bên Việt Nam
kháo nhau, Phượng–Quỳnh mới ngẫm nghĩ lại và nàng nhớ một câu
trong tác phẩm đó. Phượng–Quỳnh muốn nhân cơ hội thân mật này hỏi
Lân xem đó là sự trùng hợp hay có điều gì khác.
– Thưa Thầy, có một câu trong tác phẩm
Nỗi Buồn Ngày Tháng Cũ mà em cứ thắc mắc, vì không hiểu được dụng
ý của tác giả. Thầy cho phép em hỏi Thầy câu đó, được không ạ?
– Hỏi đi.
– Thưa Thầy, em không nhớ trang mấy,
nhưng trong truyện ngắn đầu tiên, có đoạn: “... Điệp là con
ông Ngữ ở Nha Trang. Điệp có nụ cười rất đầm và cái cằm chẻ
đôi...” Ông Ngữ là tên của Ba em còn Điệp là ai, thưa Thầy?
Lân giật mình, không ngờ một chi tiết
nhỏ như vậy mà Phượng–Quỳnh còn nhớ. Như vậy có thể Phượng–Quỳnh
đã biết được tình yêu đơn phương của chàng? Suốt mấy mươi năm qua
– kể cả thời gian Lân sống hạnh phúc với vợ con – chưa bao giờ
hình dáng của Phượng–Quỳnh phai nhòa trong tâm trí chàng. Gần đây,
hình dáng của Phượng–Quỳnh càng rõ nét hơn vì Lân nghe học trò cũ,
cũng như Nghi, cho biết Phượng–Quỳnh trải qua rất nhiều đau khổ và
luôn luôn sống trong sự chịu đựng dai dẳng/nặng nề. Nghe như vậy,
Lân động lòng, muốn tìm cách an ủi Phượng–Quỳnh. Nhưng khi biết
dường như Phượng–Quỳnh đã lờ mờ nhận ra được tình cảm của Lân đối
với nàng thì Lân lại ngại. Sự mâu thuẫn này cũng như sự nhút nhát
khi xưa khiến Lân đáp không kịp suy nghĩ:
– Thôi. Thôi. Cấm, không cho hỏi nữa; để
tôi đàn tiếp cho mà nghe.
Phượng–Quỳnh cười. Lân tiếp:
– Ngày đó Phượng–Quỳnh đàn, nhiều người
chết vì Phượng–Quỳnh. Bây giờ tôi đàn, không biết có chinh phục
được một người hay không!
Phượng–Quỳnh lại cười, rất bằng lòng khi
biết được sự nghi ngờ của nàng cũng như những lời “nhao nhao” của
nhóm bạn xưa đã được Lân xác định một cách gián tiếp.
Lân cũng rất vui khi hiểu được rằng, một
phần nào đó, Phượng–Quỳnh đã biết được tình yêu thầm kín Lân đã
dành cho nàng. Lân lướt nhẹ và rất nhanh mấy ngón tay của bàn tay
phải lên phím đàn rồi tay trái hòa vào, tạo nên dòng Tango
rộn rã. Vừa đàn Lân vừa hỏi:
– Phượng–Quỳnh nhớ bản này không?
– Dạ, không.
– Hồi đó Phượng–Quỳnh thường đàn bản này
lắm mà.
Phượng–Quỳnh lại muốn khóc vì nàng vẫn không nhớ được!
Phượng–Quỳnh nhìn hai bàn tay của nàng đã nhăn nhúm, rồi nhìn đứa
cháu nội đang nằm ngủ nơi ghế xa–lông. Mỗi cuối tuần mới giữ cháu
được một lần vậy mà Phượng–Quỳnh cũng nhận ra con bé lớn nhanh
quá. Càng lớn con bé càng mũm mĩm và càng giống Phượng–Quỳnh; vì
sóng mũi cao, thẳng và cái lúm sâu giữa cằm. Nhiều người bạn vô
tình khen; “Con bé xinh quá, trông giống Bà Nội ghê.”
Không thể nào im lặng khi phải nghe một lời khen như vậy, Danh
“phản pháo” liền: “Con nhỏ này mà xinh gì, đừng có nịnh.”
Các bạn nhìn Phượng–Quỳnh, chờ đợi sự phản ứng của nàng.
Phượng–Quỳnh chỉ cười lạc, nói lơ chuyện khác.
Vì bị phân tâm, Phượng–Quỳnh không thể
biết được Lân đã chuyển sang nhạc khúc khác. Lân hỏi:
– Bản này, nhận ra không?
– Dạ, em nhận ra nhưng em không nhớ tựa
và tác giả.
–
Trời! Liszt! Franz Liszt. Ngày đó Franz Liszt là “ruột” của
Phượng–Quỳnh mà sao nay vô tình quá vậy?
– Ô, em nhớ rồi. Liebestraum.
Phượng–Quỳnh xúc động quá, ngồi bệt trên
thảm, để tâm hồn quyện theo dòng âm thanh dịu dàng/thiết tha/trầm
thống/đầy u uất của tình khúc được viết theo âm giai Do Majeur,
thể điệu Tempo di Valse. Theo dòng âm thanh phù thủy của
Lân, Phượng–Quỳnh tưởng như nàng có thể thấy lại dáng vóc cao, gầy
và nét mặt nghiêm nghị của Lân mỗi khi Lân chạy Vespa vào cổng
chính của trường trong khi Phượng–Quỳnh cùng các bạn đi vào bằng
cổng nhỏ bên cạnh.
Lân khen:
– Giỏi. Vậy Phượng–Quỳnh còn nhớ mối
tình vương giả của Liszt không?
Một lần nữa Phượng–Quỳnh lại cảm thấy
hụt hẫng như một bà nhà quê đi thi vào quốc tịch Mỹ, bị hỏi, hãy
nói tên vị tổng thống Hoa Kỳ có liên hệ trong cuộc đổ bộ vào vịnh
Con Heo (Bay of Pigs) tại Cuba:
– Dạ, em không nhớ. Em chỉ nhớ, ngày xưa
Ba em đã kể cho em nghe về mối tình không trọn của Franz Liszt
nhưng em không nhớ là với ai.
– Với công nương Carolyne Sayn
Wittgenstein.
Lân vừa đáp vừa tiếp tục đàn. Phượng–Quỳnh im lặng, chăm chú nghe.
Một lúc sau, Lân ngưng đàn, bảo:
– Bây giờ Phượng–Quỳnh cho tôi nói
chuyện với thằng bạn già của tôi một chốc, nhé!
– Thưa Thầy, anh Danh không có ở đây.
– Bao giờ Danh về để tôi gọi lại?
Phượng–Quỳnh không biết phải đáp như thế
nào. Nói dối thì khó, vì không biết phần nào nên dối, phần nào nên
thật; mà nói thật thì... nói những gì?
Nhận ra được điều không ổn, Lân dục:
– Phượng–Quỳnh.
– Dạ.
– Có gì trở ngại, phải không?
– Dạ không. Thưa Thầy, lúc nãy Thầy bảo
rằng Thầy đã gặp anh Danh cách nay hơn một tháng, tại phi trường
Los Angeles, đúng không, thưa Thầy?
– Vâng.
– Thưa Thầy, hôm đó anh Danh có nói gì
nhiều với Thầy hay không?
– Không. Danh chỉ bảo là Danh được một
công ty lớn của Mỹ chỉ định qua Việt Nam điều nghiên về việc đầu
tư cả mấy tỷ Mỹ kim.
Phượng–Quỳnh tròn mắt, vội đưa tay che
miệng để khỏi thốt ra tiếng than “Trời!”
Từ ngày Danh, Phượng–Quỳnh cùng các con
vượt biển sang đây, chỉ sống nhờ vào ngành bán tạp hóa. Lúc đầu vợ
chồng làm cho công ty 7–11; sau, hai vợ chồng để dành được ít tiền
rồi vay thêm ở ngân hàng, sang được một tiệm, tự làm chủ. Gần đây
Danh năn nỉ Phượng–Quỳnh nên bán tiệm tạp hóa, về hưu non cho
khỏe, có thì giờ đi chơi và lo cho cháu. Hơn nữa dạo này tiệm của
mấy người bạn bị cướp hoài, Danh ngại rủi thằng khùng nào vào cướp
rồi “thảy cái bùm” thì uổng cuộc đời. Phượng–Quỳnh đồng ý vì thấy
đề nghị của Danh rất hợp lý. Với luận điệu ra giá cao khó bán, lại
phải trả tiền thuê chỗ, Danh ra giá rất hạ để bán cho nhanh.
Phượng–Quỳnh cứ nghĩ rằng Danh đã có tuổi, có lẽ Danh đã hồi tâm,
thật lòng muốn vợ chồng cùng sống già bên nhau cho nên
Phượng–Quỳnh không cản trở gì cả.
Bán tiệm xong, Danh nằng nặc đòi về Việt
Nam thăm Mẹ. Phượng–Quỳnh muốn cùng về với Danh. Nhưng Danh nêu
nhiều lý do, nhất là lý do Phượng–Quỳnh đã về cách nay hai năm
rồi, về làm chi nữa, tốn tiền, rồi bỏ cháu không ai lo. Danh hứa
chỉ về hai tuần rồi trở qua.
Sau khi Danh về Việt Nam, Phượng–Quỳnh
mới vô tình khám phá mối–tình–i–meo (e–mail) giữa Danh và một cô
gái bên Việt Nam, trẻ bằng tuổi cô con gái út của Danh. Hai người
thề ước nặng lời. Không thể nào Phượng–Quỳnh quên được một câu
Danh “gõ” cho cô đó: “Em đừng lo. Theo luật của tiểu bang này,
hễ vợ chồng không còn chung sống với nhau hơn sáu tháng là kể
như... xù. Bằng mọi cách anh sẽ về bên em để em giúp anh tìm lại
tuổi thanh xuân mà người vợ miệt vườn của anh đã không tạo được
cho anh lúc anh còn trẻ.” Phượng–Quỳnh không cảm thấy đau khổ
nữa, vì tâm hồn đã chai lỳ; nhưng Phượng–Quỳnh lo cho số tiền lớn
vừa mới bán tiệm tạp hóa – đang “nằm” tại ngân hàng.
Phượng–Quỳnh tức tốc ra ngân hàng. Nữ
trang và tiền mặt để trong Safe Deposit Box biến mất. Checking
account chỉ còn hơn chín trăm đô–la; đó là tiền hưu của
Phượng–Quỳnh mà chính phủ chuyển trực tiếp hằng tháng vào trương
mục. Còn tiền hưu của Danh được Danh yêu cầu chuyển về địa chỉ nào
đó, ngân hàng không thể tiết lộ. Các trương mục hưu bổng IRAs và
401K của Danh đều bị đóng từ lâu.
Cố kềm nước mắt, Phượng–Quỳnh vội vàng
đi ra cửa, chưa biết phải hành động như thế nào thì gặp Thúy –
người quen ở trại tỵ nạn – từ ngoài đi vào. “Chị Danh! Chị làm
gì mà mặt mày xanh lè, bộ tịch hớt hơ hớt hãi vậy?”
Phượng–Quỳnh gượng cười, nói dối: “Ô, thưa chị. Anh chị khỏe
chứ?Riêng tôi, trong người không được khỏe.” Thúy cười, ra vẻ
bí mật: “Tụi tôi mới ở Việt Nam về được mấy hôm. Tụi tôi gặp
anh Danh bên đó.”
Phượng–Quỳnh hơi mất bình tĩnh vì nàng
cảm thấy xấu hổ nếu ai biết được việc làm thất đức của Danh: “Dạ,
anh ấy về thăm bà cụ. Anh ấy sắp trở qua rồi.” Thúy háy nhẹ
Phượng–Quỳnh: “Ở đó mà ảnh trở qua. Hôm gặp anh Danh, ảnh năn
nỉ tụi tôi đi ăn với ảnh để ảnh có thì giờ tâm sự. Anh Danh bảo
chị lúc nào cũng cấm cản, canh giữ ảnh như canh tù. Suốt mấy mươi
năm qua ảnh gắng chịu đựng để con cái yên tâm học hành. Bây giờ
con cái lớn hết rồi mà chị cũng còn hành hạ ảnh như ngày xưa cho
nên ảnh chịu không nổi. Ảnh bứt!...”
Dường như Thúy còn muốn nói tiếp nhưng Phượng–Quỳnh hốt hoảng như
muốn chạy trốn: “Dạ, nếu anh Danh chỉ nói bây nhiêu đó thôi
thì tội của tôi cũng còn nhẹ. Xin lỗi chị, tôi phải đi có việc.”
Bước vài bước, Phượng–Quỳnh quay lui, thấy Thúy nhìn theo nàng.
Trong ánh nhìn của Thúy, Phượng–Quỳnh có thể đọc được rằng: Người
gì thiếu lịch sự. Người ta “đem tin tức” cho mà không
thèm nghe. Người như vậy chồng bỏ cũng đáng!
Sự việc xảy ra như vậy nhưng
Phượng–Quỳnh không biết phải nói với Lân như thế nào, đành đáp:
– Thưa Thầy, chuyện của anh Danh như
chuyện–dài–nhân–dân–tự–vệ ngày xưa, nói hoài không hết. Thôi, Thầy
đàn tiếp cho em nghe, được không, thưa Thầy?
Lân linh cảm
được điều gì đó, rất mơ hồ, giữa Phượng–Quỳnh và Danh; nhưng Lân
không thể đoán được. Nghe Phượng–Quỳnh yêu cầu, Lân hỏi:
– Phượng–Quỳnh thích nghe nhạc gì?
– Thầy biết rồi. Em chỉ thích nhạc tình
cảm thôi.
Lân
cười, dạo một đoạn ngắn rồi vừa đàn vừa hát:
“Wise
men say, only fools rush in.
But I can’t
help falling in love with you.”
(4)
Nhận ra đây là bản nhạc mà ngày xưa, mỗi
khi cùng bạn hữu đến nhà quý Thầy dự tiệc, Lân thường mở dĩa nhạc
cho khách nghe, Phượng–Quỳnh xúc động dạt dào.
Tiếng đàn và giọng hát của Lân đưa tâm
hồn Phượng–Quỳnh lìa khỏi thực tại đảo điên để trở về khung trời
cũ; nơi có ngôi trường Võ Tánh thân yêu; và cũng là nơi
Phượng–Quỳnh lớn lên trong ngôi nhà có giàn hoa giấy nở rộ, màu đỏ
thẫm.
Dưới giàn
hoa giấy đó, vào những đêm có phần ca nhạc của ban Tiếng Tơ Đồng,
ông Ngữ thường nằm trên võng, ôm radio, nghe một mình. Cũng dưới
giàn hoa giấy đó, không biết bao nhiêu lần Phượng–Quỳnh thấy Ngoại
nằm trên võng, em của Phượng–Quỳnh nằm nghiêng mặt trên ngực của
Ngoại để nghe Ngoại hát ru “... Ầu ơ... Chim quyên ăn trái khổ
qua... hò ơi... nuốt vô, nuốt vô... (thì) sợ đắng... hò... hò
ơi... (mà) nhả ra... (thì) bạn cười!... Hò.. ơi... Gió đưa, gió
đưa cây cải về trời... Hò ơi! Rau răm ở lại... hò ơi... (rau răm ở
lại)... chịu lời đắng cay!...” Nhớ đến những câu ca dao này
Phượng–Quỳnh mới cay đắng nhận ra rằng nàng như con chim quyên khờ
dại! Và Danh đã thành công khi “hóa kiếp” cho Phượng–Quỳnh thành
loại rau răm, chỉ cam phận lủi mình vào bùn đất chứ không thể nào
đơm những nụ hoa tươi thắm như ngò, cải, tần ô!
Phượng–Quỳnh thở dài, bâng quơ nhìn giàn
hoa giấy của nhà bên cạnh. Trong giây phút xúc động, Phượng–Quỳnh
tưởng như nàng có thể thấy được khuôn mặt của một thanh niên chờn
vờn trên những cành hoa giấy đầy gai.
Trong khi Phượng–Quỳnh không hiểu nàng
bị lẫn lộn giữa hiện thực và quá khứ hay là nàng bị lẫn lộn giữa
hình dáng của Lân ngày xưa và chân dung của Franz Liszt – trong
hình vẽ của Istvan Oroszm – thì Lân đắm hồn vào dòng nhạc và lời
ca. Lân muốn mượn lời ca gửi đến “ai đó” lời tự tình mà Lân đã âm
thầm ấp ủ suốt mấy mươi năm dài:
“...
Take my hand,
take my whole life too...
“ (5)
Theo tiếng hát ngọt ngào của Lân,
Phượng–Quỳnh cảm nhận được niềm ước mơ vừa chớm dậy trong lòng.
Phượng–Quỳnh hát nho nhỏ theo Lân:
“For I
can’t help falling in love with you...”
(6)
ĐIỆP–MỸ–LINH
http://www.diepmylinh.com
(1)
Longer của Dan Fogelberg...
(2)
Ngày Nào Một Giấc Mơ của Ngọc–Bích.
(3, 4, 5 và 6)
Can’t Help Falling In Love của George Weiss, Elvis Presley trình
bày.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Những tác phẩm của Tác giả đăng trong trang web này
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
Dù T–10
SĐND–QLVNCH
dùng trong thời chiến
|
Hình nền: Lũy Tre Làng. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Điệp Mỹ Linh chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, February 22, 2020
thư ký dù
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang