Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Chuyện Tình thời chiến
Tác giả:
Điệp Mỹ Linh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trong
khi nhích dần theo toán quân nhân nơi cửa hông của chiếc phi cơ
C–130, Sinh nhìn bâng quơ. Thấy những áng mây chờn vờn trên đồi
núi chập chùng, Sinh mơ tưởng đến khuôn mặt xinh đẹp của
Quyên–Di. Sinh nhớ lại những ngày chàng chờ Quyên–Di trước cổng
đại học Huế. Chờ nhau chỉ để được đi xa xa phía sau, ngắm vành
nón em nghiêng nghiêng, nhìn mái tóc em mềm mại trên nền áo trắng
ngần. Sinh cũng không quên được những lần hẹn nhau đi xi–nê, chỉ
để được ngồi cách nhau 5/6 cái ghế rồi thỉnh thoảng “hai đứa”
liếc nhau, cười. Chỉ có rứa thôi mà hạnh phúc vô biên. Chỉ có rứa
thôi mà tình yêu gắn bó. Chỉ có rứa thôi mà anh nhớ em điên
cuồng!
Sau khi
bước vào phi cơ, Sinh chợt chú ý đến hai quan tài được phủ cờ
Việt Nam Cộng Hòa, đặt gần cuối thân phi cơ. Nhìn hai quan tài tự
dưng những nôn nao, háo hức trong lòng Sinh tan đi; thay vào đó
là những nghĩ ngợi vu vơ về kiếp người và về cuộc chiến tương
tàn. Sinh sửa thế ngồi nhiều lần mà cũng vẫn không xua đuổi được
sự ám ảnh về một ngày cuối cùng của đời lính!
Rời phi trường, Sinh đón chiếc xe nhà
binh, hỏi chú tài xế xe đi về đâu. Chú tài đáp xe về Nam Giao.
Sinh xin đi nhờ. Từ Nam Giao, Sinh đón xích–lô, đến thẳng trường
đại học.
Đến
nơi, nhìn ngôi trường cũ, Sinh cảm thấy lòng lâng lâng trong nỗi
buồn nhè nhẹ. Sinh đi tìm Tôn–Nữ Quyên–Di – sinh viên ngành báo
chí – giữa những ánh mắt tò mò. Bỗng dưng Sinh nghe tiếng gọi tên
chàng. Quay lại, Sinh thấy Thành đang chạy tới. Hai người mừng rỡ
bắt tay nhau. Thành niềm nở:
– Người về từ Pleime! Về khi mô?
– Mới chừ đây. Chưa về nhà.
– Quyên–Di biết mi về không?
– Không, dành bất ngờ mà!
Là anh của Quyên–Di, nhưng vì Thành học
cùng với Sinh từ nhỏ cho nên Thành và Sinh không thể đổi được
cách xưng hô. Thành hất hàm:
– Rứa à? Mi đến đây bằng chi?
– Xích lô.
– Tau đưa mi về, hỉ?
– Ừ, tốt quá. Quyên–Di không có lớp hôm
ni răng, mi?
–
Không. Mi ra cổng đợi tau. Tau đi lấy cái “ếch bà”.
Gia đình Quyên–Di biết rõ mối tình thắm
thiết giữa Sinh và Quyên–Di. Nhưng từ ngày Sinh giã từ đại học
theo lệnh tổng động viên, bà Lộc – Mạ của Quyên–Di – đổi ý. Bà
Lộc thấy rõ, không những đường học vấn của Sinh bị gián đoạn mà
tương lai của Sinh cũng nhiều bất trắc, lắm hiểm nguy. Bà Lộc
buộc nàng nhận lời cầu hôn của Tùng – sinh viên y khoa. Quyên–Di
phản đối bằng mọi cách, nhưng cũng vẫn không lay chuyển được
quyết định của Mạ. Cảm động trước mối tình của bạn và em, Thành
giúp Sinh.
Dừng Vespa trước nhà Sinh, Thành quay lui, hỏi:
– Chương trình của mi ra răng?
– Tau tính đến thăm Bác và Quyên–Di.
– Mi đến thăm Mạ tau thì được. Nhưng
chắc chắn một điều là mi không thể đưa Quyên–Di đi mô cả.
– Mi cũng biết lý do tau về phép rồi,
phải không, Thành?
– Mi vô thăm gia đình mi đi, rồi thay
đồ dân sự, chờ tau. Tau về chở Quyên–Di qua, cho mi mượn Vespa
luôn. Chiều 5, 6 giờ mi đưa Quyên–Di về đây, tau chở cô nàng về.
Mi nhớ đừng đưa Quyên–Di đến chỗ đông người, họ đồn đãi, em tau
mang tiếng, tội nghiệp, nghe mi!
Sinh siết tay Thành thật lâu.
Nhờ sự giúp đỡ của Thành, Sinh đưa
Quyên–Di đi thăm lại những nơi “hai đứa” thường hẹn hò; thăm lại
lăng tẩm xưa; đi ăn những món ngon mà chỉ Huế mới có. Sinh hỏi
Quyên–Di về việc học và về sự ngăn cấm của bà Lộc. Quyên–Di đáp,
giọng buồn buồn:
– Là con trai Huế anh còn lạ chi. Anh
đừng nên trách Mạ em. Đó là tâm trạng chung của Cha Mẹ. Anh chỉ
cần biết em yêu anh, rứa là đủ.
– Anh muốn vấn đề trở nên chính thức.
Anh không thích lén lút.
– Nhưng em không làm chi được. Không ai
có thể giúp em trong lúc ni. Anh gắng chờ em một thời gian. Lúc
đó có thể Tùng sẽ không còn kiên nhẫn nữa và có thể lúc đó anh
được thăng Trung úy.
– Anh lên trung úy để làm chi? Em yêu
anh hay là em yêu cái lon Trung úy?
– Anh đừng hiểu lầm. Dù anh là chi em
cũng vẫn yêu anh. Nhưng với gia đình em thì khác. Mọi người cần
một bề ngoài hào nhoáng. Xã hội ni là rứa đó. Anh đã thấy biết
bao cô gái Huế yêu một người mà phải làm vợ một người khác hay
không?
Ngưng
một chốc, Quyên–Di tiếp bằng giọng đầy nước mắt:
– Anh hãy nhìn vào thực tế. Các anh là
anh hùng chốn biên ải, địa đầu. Người ta ca ngợi các anh trong
văn, thơ và âm nhạc. Nhưng trên đường tình có bao nhiêu cô gái
Huế được phép từ chối những mối tình vương giả để làm vợ mấy ông
nhà binh? Lý do vì họ không muốn lo âu, không muốn hồi hộp theo
từng chuyến hành quân, để rồi không biết họ sẽ trở thành quả phụ
giây phút nào!
– Nếu em nghĩ như rứa, tại răng em còn
yêu anh?
– Em
không thể cản lòng em được. Như Henry Louis Mencken đã nói: “Love
is like war; easy to begin but very hard to stop.” Chúng ta là
những kẻ thọ nạn của quan niệm cổ xưa và của cuộc chiến tàn tệ
hôm nay. Anh phải hiểu và gắng giúp em; nếu không, chúng ta sẽ
mất nhau.
Những lời của Quyên–Di đánh thức thực trạng trong tâm hồn Sinh.
Sinh thở dài và nỗi ám ảnh về hai quan tài trong lòng phi cơ lại
trở về. Để khỏi phải tranh luận, Quyên–Di tiếp:
– Anh à! Mấy tháng ni em viết cho tờ
Tiền Tuyến với tính cách tập sự. Họ thích bài của em lắm.
– Anh không ngạc nhiên, vì anh biết em
có năng khiếu.
– Sau những lá thư anh viết từ Pleime,
anh kể về những trận đánh đẫm máu, về những vô lý và vô nhân của
chiến tranh, em muốn trở thành một phóng viên chiến trường. Muốn
viết thật rõ, thật chính xác, thật đầy đủ về cuộc chiến hôm nay
thì chỉ có một cách đó thôi, phải không, anh?
– Em có người yêu là nhà binh mà còn bị
Mạ em ly gián; không cách chi Mạ em có thể để em “lăn” vào trò
chơi của thần chết được!
– Where there’s a will, there’s a way.
– Những người có tâm hồn như em đáng ra
trời không bắt phải sinh ra tại Huế.
– Em chỉ ước mơ một ngày nào đó em theo
đoàn quân, viết lại những trận đánh oai hùng trên đồi núi cao
nguyên. Trong những trận đánh đó dĩ nhiên là có anh, người yêu
của em.
–
Người ta bảo các cô gái Huế lãng mạn; nhưng cái lãng mạn của em
cao cả vô cùng!
... Kể đến đây, Thành ngưng, vì thấy bà
Lộc lặng lẽ chậm nước mắt bằng ống tay áo cà–sa.
Trong khi bà Lộc âm thầm hối hận và
khóc thương Quyên–Di thì Quang thở dài, lòng đầy thương cảm. Nghe
một phần câu chuyện do Thành kể rồi nhìn dòng sông Hương mờ dần
trong bóng hoàng hôn Quang chợt nhớ lại những buổi chiều xưa, khi
đoàn giang đỉnh neo giữa sông Cái Lớn...
... Nơi tầng trên của chiếc Command,
Quyên–Di ngồi trên thùng đạn rỗng, hơi xa các sĩ quan của Giang
Đoàn. Nhìn mặt sông phẳng lặng và ánh nắng chiều tỏa rộng trên
rừng dừa nước mênh mông, Quyên–Di cảm thấy buồn và nhớ những buổi
chiều xưa, theo Mạ đi lễ chùa.
Những buổi chiều xưa, trong khi bà Lộc
niệm kinh, đảnh lễ, Quyên–Di lén ra ngoài, chạy lên chạy xuống
mấy bậc cấp trước chùa Thiên Mụ. Đến khi mệt, mỏi chân, Quyên–Di
ngồi nơi bậc cấp trên cùng, nghỉ chân. Nhìn những con đò nhỏ âm
thầm di động trên sông Hương, lưu lại phía sau những gợn nước lăn
tăn, Quyên–Di chưa cảm nhận được vẻ đẹp yêu kiều của quê Mẹ.
Nhưng khi nghe tiếng hò văng vẳng từ dòng sông quyện với tiếng
chuông đồng vọng trên đồi cao, Quyên–Di mới cảm thấy buồn – một
nỗi buồn không duyên cớ, nhưng chao ơi! Buồn chi buồn lạ buồn
lùng!
Chừ đây,
nhìn dòng sông Cái Lớn và rừng dừa nước từ từ chìm vào hoàng hôn,
Quyên–Di cũng cảm thấy buồn chi buồn lạ buồn lùng! Đối với
Quyên–Di, Huế như người tình đầu tiên, mình có thể xa nhưng không
thể quên!
Đang
lúc Quyên–Di nghĩ về Huế với tất cả niềm thương nhớ dạt dào thì
lời ca của một tình khúc – mà ngày trước Quyên–Di thường hát
trong những buổi văn nghệ do trường tổ chức – chợt đến. Quyên–Di
hát nho nhỏ:
“Ai về bến Ngự cho ta nhắn cùng.
Bến
xưa, non nước Hương Bình
Có những ngày
xanh...”
(Đêm Tàn Bến Ngự của Dương Thiệu Tước).
Quyên–Di vừa “ngân nga” đến đây chợt
giật mình kinh hãi vì nhiều tiếng Ầm... Ầm... Ầm... rền vang và
từng khối nước khổng lồ tung lên rồi đổ chụp lên đoàn giang đỉnh.
Ngay tức khắc, Thiếu tá Quang – chỉ huy
trưởng Giang Đoàn và cũng là bạn của Thành và Sinh trong Hội Túc
Cầu của trường Quốc Học – ra lệnh đoàn giang đỉnh phân tán mỏng.
Sau khi xác định được vị trí pháo kích
của Việt cộng, đoàn giang đỉnh phản pháo. Tiếng súng cối 81ly từ
chiếc Command nổ đều nhưng cũng vẫn không át được tiếng trọng
pháo của địch. Quyên–Di nghe âm thanh phát ra từ máy truyền tin,
nhưng vì họ dùng toàn ám từ truyền tin, Quyên–Di không hiểu được.
Cuối cùng nàng nghe Thiếu tá Quang đáp:
–Nhận năm, thẩm quyền.
Thiếu tá Quang khom xuống, bấm đèn pin
– chiến đỉnh không mở đèn, ngại lộ mục tiêu – nhìn vào bản đồ
hành quân, tìm vị trí đồn Nghĩa Quân mà Giang Đoàn được lệnh đến
giải cứu.
Khi
đoàn chiến đỉnh vừa rẽ vào con sông nhỏ, Quyên–Di nghe nhiều
tiếng súng lớn nổ phía trước. Cặp fom dẫn đầu bắn trả dữ dội.
Quyên–Di nghe Thiếu tá Quang ra lệnh đoàn chiến đỉnh giang hành
sát bờ để tránh thủy lôi. Vừa khi đó, chiếc Command trúng B40.
Chiếc Command rung rinh, Quyên–Di hoảng hồn nhưng mọi người và
các xạ thủ vẫn giữ nguyên vị trí. Ngay tức khắc, hai chiếc fom từ
cuối đoàn giang đỉnh vượt lên, vừa chạy kề bên như bảo vệ chiếc
Command vừa bắn vào những điểm tình nghi.
Đến vùng có hỏa châu, đoàn giang đỉnh
ủi thẳng vào trước đồn Kiên Tân, nơi cuộc giao tranh đang diễn ra
rất ác liệt. Nhờ ánh hỏa châu, Quyên–Di thấy nhiều thân người mặc
y phục đen bị kẹt giữa những vòng thép gai. Nhiều người cố chạy
khỏi tầm đạn của Hải Quân, nhưng quá muộn! Nhiều người hoảng,
nhào đại xuống sông, liền bị mấy khẩu đại liên từ giang đỉnh bắn
theo.
Quyên–Di
nghe tiếng súng lớn và nhiều cột nước phun lên quanh đoàn tàu.
Quang chụp cái nón sắt lên đầu Quyên–Di, xô nàng xuống và hét:
– Nằm xuống. Nó bắn ra tàu.
Quyên–Di nằm được một chốc lại lồm cồm
ngồi lên, cố ý quan sát trận địa để viết bài tường thuật cho tờ
Tiền Tuyến. Nhưng mỗi lần nàng vừa lồm cồm liền bị người mô đó xô
xuống. Quyên–Di nghe rõ âm thanh rợn người khi đạn của súng nhỏ
trúng thành tàu.
Từ xa hai chiếc khu trục ào đến, chúc
xuống, nghiêng cánh. Bom nổ rền phía sau đồn. Đất, đá, bùn và cát
văng lên giang đỉnh nghe rào rào. Hai chiếc khu trục vòng đến lần
thứ ba thì tiếng súng phía sau đồn thưa dần, thưa dần.
Ánh mặt trời le lói cuối chân trời.
Một chiếc LCM Giang Cảnh cặp vào chiếc
Command. Trung tá Cuội, Quận Trưởng quận Kiên An, bước lên chiếc
Command. Vừa khi đó, một trực thăng đáp xuống bãi đáp dã chiến,
đối diện với đồn Kiên Tân.
Trung tá Cuội, Thiếu tá Quang cùng vài
sĩ quan rời chiếc Command, sang chiếc fom. Chiếc fom đưa cả nhóm
sang bờ bên kia, về hướng trực thăng.
Từ trực thăng, Tư lệnh Sư Đoàn bước
xuống. Tất cả sĩ quan dưới đất đưa tay chào. Mọi người lên chiếc
fom, trở lại bờ bên này.
Trong khi Tư lệnh Sư Đoàn và tất cả sĩ
quan đứng trên mô đất cao quan sát trận địa, Quyên–Di thấy mấy
anh Nghĩa Quân nhặt xác đồng đội để một bên, xác những người mặc
bà ba đen để một bên. Rất nhiều xác người mặc bà ba đen bị kẹt
giữa mấy hàng thép gai chưa được nhặt ra.
Thấy Tư lệnh Sư Đoàn và tất cả sĩ quan
đi dần về chiếc fom, Quyên–Di nghĩ có thể Tư lệnh Sư Đoàn sắp rời
vùng hành quân. Rút cuốn sổ nhỏ, cây bút, nàng rời chiếc Command,
bước nhanh về hướng chiếc fom.
Sau khi tự giới thiệu, Quyên–Di hỏi:
– Thưa Thiếu tướng, sau khi quan sát
trận địa, xin Thiếu tướng cho biết nhận xét của Thiếu tướng về
cuộc đụng độ vào khuya hôm qua?
– Thường thường những đồn bót trong khu
vực này chỉ bị pháo kích hoặc bị du kích tấn công lẻ tẻ. Nhưng
tối hôm qua địch đã mở cuộc tấn công rất quy mô. Địch quân dùng
chiến thuật “xa luân chiến”, xung phong nhiều đợt, nhưng vẫn bị
quân đồn trú chống trả mãnh liệt. Và, bây giờ, như cô thấy, quân
ta làm chủ tình hình.
– Thưa Thiếu tướng, có phải vì địch
quân dùng chiến thuật “xa luân chiến” mà quân đồn trú phải xin
Hải Quân và Không Quân yểm trợ hay không?
– Hải Quân là lực lượng yểm trợ đồn bót
hữu hiệu nhất tại Vùng IV chiến thuật. Còn Không Quân, dạo này
theo chương trình Việt Nam–hóa chiến tranh, xin được một phi tuần
cũng khó khăn lắm!
– Thưa, Thiếu tướng có nghĩ đến Pháo
Binh hay không?
– Những đơn vị đồn trú gần dân làng tôi
không muốn xử dụng Phái Binh.
Quyên–Di cảm ơn Thiếu tướng rồi xoay
sang Thiếu tá Quang, hỏi:
– Thưa Thiếu tá, theo kinh nghiệm chiến
trường, Thiếu tá nghĩ sự pháo kích của địch vào đoàn chiến đỉnh
trên sông Cái Lớn và sự tấn công của địch vào đồn Kiên Tân có
liên hệ gì không ạ?
– Có chứ. Địch muốn “cầm chân” Hải Quân
ở sông Cái Lớn trong khi những đơn vị khác của họ tấn công đồn
Kiên Tân. Tôi nghĩ địch cũng biết rằng họ không thể “cầm chân”
Hải Quân được cho nên họ vẫn phục kích Hải Quân chỗ ngã ba rẽ vào
đồn Kiên Tân.
– Thưa, tổn thất về phía ta và địch như thế nào ạ?
– Cô thấy đó. Chúng ta có tổn thất,
nhưng không đáng kể so với sự thương vong của địch.
– Thưa, sự tổn thất của Hải Quân như
thế nào?
–
Chiếc Command bị thủng một chỗ. Một xạ thủ bị thương.
Quyên–Di cảm ơn mọi người rồi trở về
chiếc Command, viết một cách say sưa.
Đây không phải là lần đầu tiên Quyên–Di
say sưa viết bài tường thuật mà đây chính là lần đầu tiên nàng
viết về sự tham chiến của một đơn vị tác chiến Hải Quân.
Kể từ khi bị bà Lộc đưa “tối hậu thư”:
Phải nhận lời cầu hôn của Tùng, nếu không, bà Lộc sẽ không cho
Quyên–Di tiếp tục đi học nữa thì Quyên–Di âm thầm rời Huế, muốn
tìm cuộc sống tự lập. Nàng vào Sài Gòn và được chủ nhiệm báo Tiền
Tuyến thâu nhận ngay. Ngòi bút của Quyên–Di thu hút được sự chú ý
và cảm tình của rất nhiều độc giả. Bây giờ bài tường thuật về
cuộc giải cứu đồn Kiên Tân lại cho mọi người thấy Quyên–Di quả là
ngòi bút xuất sắc với những nhận xét bén nhạy, sự quan sát tinh
tường và sự tường thuật trung thực.
Sự thành công nhanh chóng của Quyên–Di
làm cho bà Lộc, Thành và Sinh hãnh diện vô cùng. Bà Lộc hồi tâm,
liên lạc với Quyên–Di và hứa sẽ tha thứ tất cả. Điều Quyên–Di vui
mừng nhất là bà Lộc hứa sẽ gả nàng cho Sinh.
Để tạo cơ hội đích thân đem tin mừng
cho Sinh, Quyên–Di xin đặc phái lên Quân Đoàn II để viết phóng sự
dài về những trận đánh mùa mưa.
*
* *
Trong bộ quân phục rằn ri, Quyên–Di đến
Pleiku vào một chiều mờ sương. Quyên–Di được tiếp đón ân cần,
niềm nở và được tạm trú tại phòng vãng lai sĩ quan.
Sau khi đến phòng hành quân để xin tháp
tùng các cánh quân, Quyên–Di tìm đến sĩ quan trực, nhờ giúp liên
lạc với Sinh. Điều bất ngờ đầy thú vị là Thiếu úy Sang – sĩ quan
trực – là người Huế và cũng xuất thân cùng khóa sĩ quan Thủ Đức
với Sinh.
Không ai có thể diễn tả được nỗi vui mừng của Sinh khi chàng nghe
giọng nói của Quyên–Di và được biết nàng đang có mặt tại Quân
Đoàn. Chỉ còn khoảng 40 cây số nữa thôi, anh sẽ gặp em. Ý nghĩ
này khiến Sinh không giấu được xúc động:
– Em gắng chờ anh một tối ni thôi. Anh
sẽ xin vài ngày phép đặc ân. Mai anh sẽ gặp em sớm. Dạo ni “tụi
hắn” tấn công liên miên.
– Dạ. Em chờ.
– Em ở tạm chỗ mô?
– Các anh ở đây lo cho em tươm tất lắm.
Anh đừng lo.
–
Quyên–Di ơi! Em về đâu chứ em về Quân Đoàn II thiếu chi đề tài
cho em viết. Từng ngày, từng giờ, chiến trường hừng hực lửa đạn
cho em tường thuật để người thành phố hiểu rõ cuộc chiến đấu tự
vệ thần thánh của người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Anh hãnh
diện vì em, vì được là người yêu của em. Anh yêu em, Quyên–Di!
– Anh! Mình đang nói chuyện bằng điện
thoại nhà binh.
– Nhà binh cũng cần tình cảm, cũng biết
yêu đương chứ bộ nhà binh chỉ biết “uýnh” nhau thôi sao, em!
– Em có một tin rất vui, gặp anh em mới
nói.
– Tin chi
vui mà “làm eo” dữ rứa? Nói anh nghe chừ đi.
– Thôi, chuyện ni “bí mật”, chỉ một
mình anh nghe được thôi.
– Em không thèm nói cho anh nghe thì
thôi, hẹn mai làm chi cho anh sốt ruột.
– Anh “dễ ghét” “dễ sợ”! Chỉ một tối ni
thôi mà làm bộ “hờn” chi rứa?
– Tối ni chắc anh ngủ không được, vì
nôn nóng gặp em đó, Quyên–Di.
Quả thật tối đó Sinh ngủ không được!
Sinh ngủ không được không phải vì nôn nóng gặp Quyên–Di mà vì áp
lực của địch gia tăng gấp bội. Càng về khuya vòng vây của địch
quanh đồn Pleime càng siết chặt!
Đồn Pleime được xây trên sườn đồi, cạnh
dòng suối nhỏ. Dòng suối nhỏ nhưng lòng suối rất sâu và nước chảy
xiết như thác lũ. Không ai biết thổ dân gọi dòng suối ni bằng tên
chi; nhưng quân nhân trong đồn Pleime thì gọi dòng suối ni là
suối Pleime.
Suối Pleime là nguồn cung cấp nước ngọt cho khoảng 100 quân trấn
thủ. Chỉ với khoảng 100 quân mà – theo tin tình báo – đồn Pleime
đang bị 3 Trung đoàn chính quy Bắc Việt vây hãm! Mức độ pháo của
địch gia tăng đến độ không ai có thể ló đầu ra khỏi hầm được!
Quân trong đồn bị thương, chết, phải chịu đói và chịu khát nữa.
Hệ thống truyền tin hoàn toàn bất khiển dụng!
Ngồi trong hầm chống pháo kích, Sinh bi
quan, viết vội lên mảnh giấy nhỏ: “Quyên–Di ơi! Lẽ nào chỉ vượt
40 cây số đường trường mà anh không được gặp lại em! Anh hẹn em
chỉ một đêm thôi mà chừ đã ba đêm rồi! Chuyện chi vui răng em
không nói mà hẹn đến mai? Với lính – như ngạn ngữ Tây Tạng có câu
– ‘kiếp sau và ngày mai, không biết cái mô đến trước!’ Anh yêu
em, Quyên Di!”
Trong khi Sinh nắn nót hai chữ
“Quyên–Di” nơi cuối dòng thì, tại Quân Đoàn, Quyên–Di đứng ngồi
không yên. Sau khi lệnh giải cứu đồn Pleime được ban hành, phải
khó khăn lắm Quyên–Di mới thuyết phục được vị Tư lệnh Quân Đoàn
cho phép nàng tháp tùng đoàn viện binh.
*
* *
Đoàn viện binh được trực thăng vận đến
Pleime. Đoàn viện binh chia thành nhiều cánh quân. Những cánh
quân này tiến rất chậm, vì địch đã đào hầm trú ẩn và giăng bẫy
sập. Người lính VNCH phải lao vào từng hố cá nhân, đánh cận chiến
với địch. Quân hai bên quần thảo nhau, quyết tranh nhau từng gốc
cây, từng mô đất. Địch quân ở dưới đất quân VNCH có thể thấy và
tiêu diệt; nhưng những anh bộ đội cụ Hồ bị chính cấp chỉ huy của
họ khóa xích trên cây thì quân VNCH không thể phát hiện được.
Chính những tràng đạn bắn lén từ trên
cây đã gây trở ngại lớn cho quân VNCH. Thế nhưng người lính VNCH
đã đánh với chiến thuật thần tốc, ào ạt để biến Pleime thành một
trận chiến để đời.
Cánh quân M – có Quyên–Di tháp tùng –
là cánh quân đầu tiên chọc thủng vòng vây của Bắc quân. Cánh quân
M chậm lại gần bờ suối Pleime, liên lạc phối trí với các cánh
quân bạn.
Thấy
tình hình tạm yên, những người lính trong đồn Pleime bước đi thất
thểu trong hoang tàn, đổ nát để nhặt xác anh em, xác bạn hữu.
Trong những thương binh, Thượng sĩ hỏa–đầu–vụ là người bị thương
nặng nhất; vì Ông đã nhảy lên ụ súng máy, quạt hằng loạt đạn vào
địch quân – sau khi Ông thấy xạ thủ súng máy bị bắn gục!
Sinh xách nón sắt, men theo triền đồi,
xuống suối, với dụng ý lấy nước về đun sôi để rửa vết thương cho
thương binh; vì tất cả dụng cụ y tế trong đồn đều bị trúng đại
bác của địch.
Đang lấy nước, Sinh thấy, xa xa, bên kia bờ suối, quân bạn đang
hướng về phía dòng suối. Nửa mừng nửa tủi khi thấy quân bạn đến
“tiếp hơi”, Sinh đứng lặng, nhìn toán quân. Bất ngờ Sinh thấy một
quân nhân trông rất mảnh khảnh, khăn quàng cổ màu tím. Khăn màu
tím! Sinh giật mình, nghĩ đến chiếc khăn quàng màu tím mà chàng
đã tặng Quyên–Di.
Cánh quân M đến gần hơn. Nhận ra
Quyên–Di, Sinh vất nón sắt, vừa tìm cách băng qua dòng suối
Pleime vừa reo mừng: “Quyên–Di!” Nghe tiếng gọi, biết người đó là
Sinh, Quyên–Di bươn bả chạy đến.
Ba tên bộ đội cụ Hồ bị xích trên cây
gần đó mà không ai biết. Hai tên đã chết trong lúc giao tranh.
Tên bộ đội còn sống đang âu lo về số phận của chàng ta cho nên
chàng ta không để ý khi Sinh xuống suối. Tiếng gọi “Quyên–Di” của
Sinh làm anh bộ đội này giật mình và anh ta phát hiện sự có mặt
của Sinh. Tên bộ đội lên đạn và đợi Sinh di chuyển đến gần.
Khi Sinh chỉ còn cách Quyên–Di một mô
đá nhỏ thì tiếng súng nổ. Sinh gục xuống. Máu từ vết thương bên
trái lồng ngực của Sinh loang trên phiến đá.
Trong khi tất cả nòng súng của toán M
đều bắn lên ngọn cây có tên bộ đội thì Quyên–Di thét lên, chồm
tới đỡ Sinh. Nhưng Sinh rơi vào lòng suối. Sinh dùng đôi chân và
tay phải để nhoài người, cố cưỡng lại sức đẩy của dòng suối. Một
tay Quyên–Di bấu vào bờ đá, một tay nàng vươn dài về phía Sinh.
Sinh vươn tay phải, cố nắm lấy bàn tay của Quyên–Di. Tay Sinh vừa
chạm vào mấy ngón tay của Quyên–Di thì dòng nước cuồn cuộn, tiếng
suối lao xao, đẩy Sinh ra. Quyên–Di thét lên hãi hùng khi tay
Sinh vuột khỏi tay nàng!
Từ cuối dòng thác lũ, hai tiếng
“Quyên–Di” vang vọng núi đồi!...
Sang vừa kể đến đây, Quang bật hộp
quẹt, mồi điếu thuốc. Bập bập điếu thuốc vài lần, Quang lấy điếu
thuốc gắn lên môi Thành. Thành im lặng, rít một hơi dài rồi thở
khói ra nhè nhẹ.
Qua làn khói mỏng, Thành thấy dòng
Hương giang lung linh/nhạt nhòa dưới ánh đèn đường. Tự dưng Thành
cảm thấy nhớ đoài nhớ đoạn những buổi tối Thành và Quyên–Di cùng
ngồi học dưới trụ đèn trước nhà. Nhiều lần Quyên–Di hỏi:
–Anh Thành! Tại răng Ba Mạ lại đặt tên
em là Quyên–Di mà không đặt là Thiên–Di? Em thích tên Thiên–Di.
Thành tự hỏi đó có phải là điềm báo
trước cho duyên nghiệp của Quyên–Di hay không?
Ôm niềm thắc mắc trong lòng, Thành im
lặng bước theo Quang xuống dãy bậc cấp trước chùa Thiên Mụ. Nhìn
vòm trời đầy sao, Thành tưởng như chàng có thể nghe lại được
tiếng hát nồng nàn của Sinh năm xưa, khi bạn hữu tổ chức tiệc
tiễn Sinh trở lại Pleime:
“Em tôi
ưa đứng nhìn trời xanh xanh
Mang theo
đôi mắt buồn vương khóc thương...
...
Thuyền tình lung linh trong khói sương lam.
Ngày về xa quá, người ơi!”
(Em Tôi của Lê Trạch Lựu)
Nhớ bạn và thương em ngập lòng, Thành
thở dài, thầm nhủ: “Thiên–Di! Mai anh sẽ đến chùa Sư Nữ thăm
em!”
ĐIỆP–MỸ–LINH
https://www.diepmylinh.com
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: phong cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Điệp Mỹ Linh chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy,
December 5, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang