Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Tình yêu thời ly loạn
Tác giả: Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Hơn sáu tháng sống
chết với chiến trường và giữ vững được Kontum, đầu tháng
10/1972, đơn vị tôi nhận lệnh kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ
sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt dành cho một đơn vị đã
tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẫm máu để có một “Kontum Kiêu
Hùng”. Một tháng đóng trên Đồi Đức Mẹ lại là một tháng “gió lạnh
mưa mùa”. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa hy sinh
trên chiến trường lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ
như những vết chém đang còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên
trong chốc lát đã là một điều không dễ, nên bọn tôi thèm những
cơn say. Rất may, tôi có một anh bạn – phải nói ông anh mới đúng
– là Liên Đoàn Trưởng của một liên đoàn Biệt Động Quân, có căn
cứ tại Biển Hồ. Vợ và hai đứa con bị chết thảm tại Quảng Đức hơn
một năm trước, khi xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ còn
làm người tình với rượu. Những ngày không bận hành quân, anh đến
đón tôi đi uống rượu trong một cái quán nằm trong Khu Chợ Mới,
đã vậy mỗi khi trở về, anh còn dúi cho tôi một chai Henessey.
Trước kia anh từng là một cấp chỉ huy có tiếng trong binh chủng
này, nhưng vì bản tính ngang bướng bất cần, nên nhân một lý do
phe phái chính trị nào đó, anh bị ngồi tù một thời gian ngắn. Ra
tù, anh bị thuyên chuyển về đơn vị tôi với cái lệnh “không được
giữ bất cứ chức vụ chỉ huy nào”. Biết anh là một niên trưởng và
từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ, an ủi anh và kéo anh
về ở chung nhà trong khu cư xá, vợ tôi lo chuyện cơm nước cho
anh. Một thời gian sau, bỗng dưng anh được xét cho “vô tội”, trở
lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một Liên đoàn Biệt Động
Quân. Do cái ân tình đó mà anh quý mến tôi, kéo tôi theo các
cuộc giải sầu này.
Dường như ngoài quán rượu ra, thỉnh
thoảng anh chỉ ghé đến thăm một cô nhi viện. Nói là viện nhưng
thực ra đây chỉ là một ngôi trường cũ, được chỉnh trang lại, tạm
đáp ứng nhu cầu cần thiết cho một trại cô nhi. Có lẽ anh muốn
tìm lại bóng dáng của hai đứa con đã phải chết oan một cách đau
đớn qua hình ảnh các cháu cô nhi mà đa số là con của tử sĩ, có
cả con của những người lính Biệt Động Quân của anh, mà cả người
mẹ cũng chết, hay vì một lý do nào đó không có khả năng nuôi
dưỡng, nên đành phải gởi lại nơi đây, nương nhờ vào bàn tay và
tấm lòng nhân ái của những bà sœur. Anh bảo là từ sau trận chiến
Tân Cảnh và Kontum, cô nhi viện này nhận thêm khá nhiều cô nhi.
Hằng tháng, anh ghé lại đây thăm và tặng cho viện một số tiền,
bởi bây giờ anh sống độc thân, không còn phải chu cấp cho ai.
Biết điều này, tôi càng kính quý anh hơn. Một người ngang tàng
không biết sợ ai, sống bất cần đời, nhưng bên trong là cả một
tấm lòng vị tha nhân ái.
Một hôm theo anh đến đây, chúng tôi
được một bà sœur ra tiếp và mời vào văn phòng uống trà. Anh bạn
tôi thì đã là người quen biết từ lâu, trong cách giao tiếp, anh
được các sœur xem như một ân nhân bảo trợ, chỉ có tôi là người
lạ. Nhưng khi chào tôi, sœur bảo thấy tôi giống một người thân
quen nào đó. Còn tôi, thì cũng mơ hồ như đã từng gặp người nữ tu
này ở đâu rồi. Cũng có thể vì khuôn mặt khả ái, hiền thục của
sœur phảng phất gương mặt của Đức Mẹ Maria mà tôi thường thấy
trên các bức ảnh hay bức tượng trong các nhà thờ. Được giới
thiệu là sœur Anna, tôi biết đây chỉ là tên thánh của bà. Khi
tôi vừa ngồi xuống phía đối diện, sœur nhìn chăm chú vào cái
bảng tên của tôi trên nắp túi áo, bỗng mắt sœur như sáng lên:
– Có phải lúc trước Đại úy ở Tiểu Đoàn
3/44?
Tôi
khựng lại, ngạc nhiên:
– Dạ, đúng là trước kia có mấy năm tôi
ở tiểu đoàn này. Nhưng cách nay đã 6, 7 năm rồi!
– Đại úy còn nhớ trận Quảng Nhiêu.
Hình như Đại úy suýt chết trong trận ấy?
Tôi càng ngạc nhiên hơn, không hiểu
tại sao người nữ tu này biết rõ mình như thế. Tôi vừa trả lời
vừa nghĩ ngợi, thăm dò:
– Dạ đúng, nhưng sao sœur biết. Chuyện
đã xảy ra lâu lắm rồi mà.
Sœur Anna không trả lời mà hỏi lại
tôi:
– Đại úy
thoát chết, nhưng người nằm hố bên cạnh thì bị nguyên một quả
đạn súng cối 60 hay 80 gì đó, phải không?
Tôi giật mình, từ ký ức hiện ra rất
nhanh hình ảnh hãi hùng này, và ngay lúc ấy, trước mắt tôi sœur
Anna cũng phảng phất bóng dáng của một người con gái khác.
Vào khoảng đầu mùa hè năm 1966, tôi
đang làm đại đội phó Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 3/44. Thời gian
này hậu cứ tại Ban Mê Thuột, nhưng tiểu đoàn được chọn làm đơn
vị trừ bị lưu động cho Sư đoàn và Khu 23 Chiến Thuật. Thời ấy
chưa có các đại đội trinh sát. Đơn vị tôi có mặt gần như trên
khắp lãnh thổ Khu 23 Chiến Thuật, kéo dài từ vùng cao nguyên có
biên giới với Cam Bốt cho đến tận miền duyên hải. Có khi hôm
trước còn hành quân ở Quảng Đức, Lâm Đồng, hôm sau lại có mặt ở
Bình Tuy, Tuy Hòa, Phan Thiết...
Một hôm, sau cuộc hành quân dài hạn ở
khu Cà Ná, thuộc tỉnh Ninh Thuận, tiểu đoàn được lệnh di chuyển
về Cam Ranh, vừa nghỉ dưỡng quân vừa giữ an ninh các đảo ngoài
khơi để lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân xuống đây thiết lập căn
cứ.
Trong một
đợt bổ sung quân số, đại đội tiếp nhận ba hạ sĩ quan và gần hai
mươi tân binh vừa rời khỏi quân trường. Tôi đến bộ chỉ huy tiểu
đoàn nhận lãnh và đưa về trình diện anh đại đội trưởng. Trong ba
trung sĩ, một anh có dáng dấp, nói năng hiền lành như một thầy
tu. Xem qua lý lịch và nhất là sau khi nói chuyện, tôi biết anh
là thầy giáo một trường dòng và cũng là trưởng ca đoàn của một
nhà thờ ở ngoại ô thành phố Nha Trang, quê hương tôi. Tôi không
phải là người Công giáo, nên không mấy am tường các sinh hoạt
này, nhưng biết chắc một điều, trưởng ca đoàn phải là một người
hát hay và giỏi về nhạc lý. Vốn có máu văn nghệ, lại là người
đồng hương, nên tôi dễ thân tình và thường bắt anh hát cho cả
đại đội nghe. Tôi đề nghị anh đại đội trưởng cho anh làm Hạ Sĩ
Quan Tâm Lý Chiến của đại đội. Từ đó chúng tôi rất thân nhau, ăn
cơm chung và treo võng ngủ gần nhau dưới một vòm cây dương liễu.
Thấy anh có cái tên hơi lạ, Nguyễn Phú
Hùng Em, tôi đoán và hỏi anh có phải anh có người anh tên Nguyễn
Phú Hùng Anh. Anh cười mà nét mặt không vui:
– Dạ, đúng là có một người là Nguyễn
Phú Hùng Anh, nhưng không phải là anh ruột. Chúng tôi lớn lên
trong viện mồ côi, vì trùng tên, và anh ấy lớn hơn tôi ba tuổi,
nên các sœur đặt lại tên chúng tôi như thế. Bọn tôi cũng rất
thân nhau và xem như anh em. Điều buồn, là anh ấy đi lính trước,
vào Trường Sĩ quan Thủ Đức và tử trận cách nay hơn một năm rồi.
Thời gian này, đơn vị chúng tôi rất
may mắn, chẳng khác nào được đi nghỉ mát. Hải đảo này là nơi
thực tập cho các toán Biệt kích của Trung Tâm Huấn Luyện Lực
Lượng Đặc Biệt Đồng Bà Thìn, nên khá an toàn. Suốt ngày bọn tôi
chỉ tắm biển, câu cá, ban đêm nằm nghe sóng vỗ, đàn hát nghêu
ngao. Có lẽ đây là thời gian đặc biệt thoải mái nhất trong cuộc
đời làm lính của tôi. Nhân cơ hội hiếm hoi này, ông Tiểu đoàn
trưởng cho phép binh sĩ được luân phiên đón vợ con ra thăm và
được ở lại trong hai tuần lễ.
Một hôm anh Trung sĩ Hùng Em xin tôi
cho được đón người yêu mà anh cho biết, nếu anh không bị động
viên thì chắc hai người đã làm đám cưới. Tôi sắp xếp, dọn sang
nằm với người lính ô–đô và nhường chiếc võng lại cho anh. Cả bọn
tôi khá bất ngờ khi anh đưa người yêu đến chào. Một cô gái đẹp,
làn da trắng, khuôn mặt phúc hậu, đôi môi mọng đỏ với nụ cười
hiền lành, lễ độ. So với anh, cô còn khá trẻ và có cái tên cũng
rất khả ái: Thụy Khanh. Đặc biệt cô có giọng hát rất hay. Mỗi
lần cô hát, cả đám lính tráng bọn tôi ngồi nghe mê mẩn.
Sau đó, cô đến đảo thăm anh vài lần
nữa. Những ngày có bóng dáng cô, núi rừng trên đảo dường như
bỗng trở nên đẹp, thơ mộng và vui vẻ hơn, sóng biển thì êm ả hơn
như để cùng hòa theo tiếng hát của cô. Ngoài ra cô còn có tài
nấu ăn, thường đãi bọn tôi những bữa cơm rất ngon miệng. Tất cả
đơn vị, từ quan tới lính ai cũng nghĩ anh Trung sĩ Hùng Em thật
là tốt phước, ông trời đã cho anh một người tình, một người vợ
lý tưởng sau này. Qua tâm tình, chúng tôi được biết, hai người
quen biết nhau trong viện mồ côi từ khi còn rất nhỏ. Sau này anh
vừa là thầy dạy học, dạy nhạc vừa là trưởng ca đoàn của cô trong
cùng một nhà thờ. Hai người đều chơi dương cầm và hát hay nhất
trong ca đoàn. Tình yêu bắt đầu nảy nở từ môi trường cô nhi và
âm nhạc. Và cuộc tình của hai người được các vị linh mục cùng
các sœur đồng tình, khuyến khích, như là một sự kết hợp nhiệm
màu của Thiên Chúa.
Hơn ba tháng thần tiên ở đảo Cam Ranh,
khi các đơn vị tiền trạm của Hoa Kỳ được ào ạt đổ xuống thành
lập “Cam Ranh Air Base”, tiểu đoàn tôi có lệnh rời khỏi đảo, di
chuyển để tiếp tục lưu động khắp nơi. Lâm Đồng, Bình Thuận rồi
Ninh Thuận, Sau những cuộc hành quân dài hạn trong rừng, mỗi lần
đơn vị được về phố ít ngày hoặc đóng quân trong các làng mạc ở
khu ngoại ô tương đối an toàn, chúng tôi lại thấy người con gái
xinh đẹp Thụy Khanh đến thăm và ở lại với người yêu. Đó là một
đôi tình nhân gắn bó, đẹp và lãng mạn nhất mà bọn tôi chứng
kiến, và có lẽ ai cũng thèm thuồng có được một hạnh phúc như
thế.
Tháng
bảy năm 1966, khi đơn vị nghỉ quân ở Tháp Chàm – Phan Rang,
Trung sĩ Hùng Em xin một tuần phép đặc biệt để về Nha Trang làm
đám hỏi. Anh bảo cả hai người đều không có cha mẹ anh em, nên lễ
đính hôn đều do các vị linh mục và các sœur đỡ đầu tổ chức.
Đúng lúc anh vừa mãn phép trở lại, thì
đơn vị có lệnh không vận khẩn cấp lên Ban Mê Thuột để tiếp viện
cho một đơn vị Biệt Động Quân và Thiết Giáp bị thiệt hại khá
nặng tại trận chiến Quảng Nhiêu, nằm phía Tây Bắc, cách thành
phố Ban Mê Thuột khoảng hơn mười cây số. Trận chiến khá cam go,
ác liệt. Một lực lượng địch cấp trung đoàn, sau khi tổ chức phục
kích gây tổn thất cho chi đoàn Thiết Quân Vận và một đại đội
Biệt Động Quân tùng thiết, bọn chúng đào nhiều giao thông hào và
hầm hố cá nhân kiên cố trong các vườn cà–phê, để chặn đánh các
cánh quân của ta tiếp viện. Tiểu đoàn tôi cùng một chi đoàn
Thiết Vận Xa khác được tăng phái cho Trung Đoàn 45, đặt dưới
quyền chỉ huy của Trung tá Võ Văn Cảnh, đảm trách cuộc hành quân
phản công, bao vây tiêu diệt địch.
Địch chiếm ưu thế về vị trí, chuẩn bị
trận địa, bên ta có sức mạnh của thiết giáp và không yểm. Sau
suốt năm ngày đêm không ngủ, lăn mình trong mịt mù lửa đạn quần
thảo với địch, cuối cùng chúng tôi đã đạt được chiến thắng. Một
số lớn địch quân bị tiêu diệt và bắt sống, nhưng bên ta cũng
phải trả một cái giá không nhỏ. Đại đội tôi may mắn, chỉ có ba
quân nhân tử trận và khoảng mười người bị thương, trong đó có
anh đại đội trưởng. Tôi được chỉ định tạm thời chỉ huy đại đội.
Cuộc hành quân vẫn chưa kết thúc, một
số đơn vị tiếp tục truy kích địch, riêng tiểu đoàn tôi được lệnh
ở lại Quảng Nhiêu. Ban ngày tung các cuộc hành quân tảo thanh
chung quanh, ban đêm phòng thủ bảo vệ khu vực dân cư, mà đa số
là người Công giáo, đề phòng địch quay lại quấy rối, phục thù.
Đại đội tôi được chỉ định bảo vệ một Pháo đội Pháo Binh 105 ly.
Điều tồi tệ là vị trí Pháo đội này nằm trên một khu đất trống
trải, trong phòng tuyến và cả phía bên ngoài cũng không có một
cành cây, dưới đất chỉ toàn là bụi đỏ, dày cả một gang tay. Mỗi
lần Pháo binh tác xạ, cả đất trời gần như chỉ toàn là bụi. Đám
lính chúng tôi từ đầu tới chân cũng phủ đầy bụi đỏ. Đơn vị Pháo
Binh thì đã có sẵn hầm hố kiên cố từ trước, còn đại đội tôi phải
tự đào lấy những hố cá nhân, nhưng không thể đào sâu được, vì
dưới đất chỉ toàn bụi và bụi, đào đến đâu bụi đỏ tràn theo tới
đó, và mỗi lần Pháo Binh tác xạ, những cái hố này bị bụi lấp cạn
thêm. Ban đêm, chúng tôi nằm trong những chiếc hố ấy, nhưng
không che đủ nửa thân người. Cái hố của tôi dành cho hai người
nằm, tôi và anh Hạ sĩ mang máy truyền tin. Hố kế bên trái là
Trung sĩ Hùng Em và anh lính ô–đô của tôi.
Một hôm, khoảng hai giờ sáng, khi tôi
đang ngủ chập chờn, bỗng một tiếng nổ chát chúa ngay bên cạnh,
mảnh đạn và bụi phủ đầy người, tôi bật dậy chụp vội cây súng
Carbine M2 chạy ra hàng rào phòng thủ, nơi vọng gác có đặt khẩu
đại liên. Rờ nắn vội qua khắp người xem có thương tích gì không,
tôi thở phào vì không thấy dấu hiệu đau đớn nào, nhưng khi các
trái sáng bắn lên, nhìn bụi đỏ phủ đầy người tôi giật mình cứ
ngỡ là máu. Địch quân đã pháo kích chúng tôi hơn 10 quả bằng hai
khẩu súng cối 61 ly từ hai địa điểm khác nhau. Pháo Binh đã phản
pháo chính xác làm bọn chúng câm họng. Khi tình hình ổn định,
trở về hố, tôi bàng hoàng nghe anh lính ô–đô báo là Trung sĩ
Hùng Em đã chết. Anh đã lãnh nguyên một quả đạn 61 ly, rớt ngay
sát bên cạnh, ruột đổ ra ngoài và thân thể nhuộm đầy máu. Điều
kỳ lạ, là anh lính ô–đô của tôi nằm ngay một bên mà không hề hấn
gì, chỉ có áo quần dính đầy máu và thịt của người đồng đội xấu
số. Tôi theo hai người lính khiêng thi thể Trung sĩ Hùng Em,
được gói tạm trong tấm poncho, vào hầm cứu thương của Pháo Đội.
Anh chết thật thê thảm. Tôi đứng lặng người, sau khi vuốt đôi
mắt cho anh. Từ khi ấy cho đến sáng, tôi không hề chợp mắt. Tôi
nghĩ đến Thụy Khanh, cô con gái xinh đẹp hiền thục, có giọng hát
khuấy động cả trái tim người, vừa trở thành vị hôn thê của anh
chỉ mới hai tuần trước. Trưa hôm qua, khi rủ nhau vào thăm ông
cha xứ trong xóm đạo và để xin được tắm giặt ở cái giếng sâu
phía sau nhà thờ, anh đã khoe tôi tấm hình anh chị chụp chung
trong lễ đính hôn, và bảo rằng cuối năm này hai người sẽ làm đám
cưới. Anh còn nói nhỏ với tôi, ông cha xứ của anh hứa sẽ giới
thiệu anh với vị Linh mục Tuyên úy của Sư Đoàn để xin anh về làm
ở Phòng Tuyên úy, vì hai ngài là bạn tu với nhau và được thụ
phong cùng một ngày.
Nhớ tới hai khuôn mặt hiền lành với nụ
cười rạng rỡ trong tấm hình đính hôn, lòng tôi se lại. Chiến
tranh tàn ác quá, đã chia ly biết bao nhiêu người, và làm dang
dở biết bao mối tình đẹp đẽ như anh Hùng Em và cô gái Thụy
Khanh. Tôi bỗng chạnh lòng, nhớ tới người yêu, cũng là vị hôn
thê của chính mình, hằng đêm cầu nguyện cho tôi, từ một thị trấn
nhỏ, mà giờ đây đang xa tít mịt mùng.
Một năm sau đó, tôi được nghỉ mười lăm
ngày phép về Nha Trang làm đám cưới. Nhớ đến Hùng Em, tôi rủ vợ
cùng tìm đến nhà thờ gần khu Đồng Đế để hỏi thăm tin tức về nơi
chôn cất anh. Chúng tôi được một vị linh mục trẻ đón tiếp niềm
nở và hướng dẫn đến thăm mộ Hùng Em, nằm trong một nghĩa trang
nhỏ của giáo xứ, gần biển. Từ đó, tôi có thể nhìn thấy Hòn
Chồng, nơi chôn giấu nhiều hang động của tuổi thơ tôi. Đọc trên
tấm bia, tôi thấy tên người lập mộ được ghi vỏn vẹn hai chữ:
Thụy Khanh.
Nhớ tới người con gái xinh đẹp, phúc hậu, có giọng hát rất hay
ấy, tôi hỏi vị linh mục:
– Thưa cha, chị Thụy Khanh, vị hôn thê
của anh Hùng Em có khỏe không, và bây giờ chị đang ở đâu?
Vị linh mục buồn bã:
– Chị ấy đã di chuyển đến một nơi
khác, khoảng ba tháng sau khi anh Hùng Em qua đời, nhưng thi
thoảng chị có ghé về đây ít hôm thăm giáo xứ và viếng mộ anh ấy.
Tôi không dám tò mò thêm nữa. Cám ơn
cha và đưa ngài về lại nhà thờ rồi xin phép cáo từ.
Sau đó, cuộc chiến ngày càng khốc
liệt, tôi theo đơn vị hành quân liên miên, bao nhiêu lần thoát
chết trong đường tơ kẽ tóc. Người lính chiến, chuyện sống chết
chỉ tùy vào số mệnh, không ai có thể tránh được lằn tên mũi đạn.
Đồng đội tôi đã có biết bao người ngã xuống. Có những cái chết
còn thê thảm hơn cả cái chết của anh Trung sĩ Hùng Em lúc trước.
Tôi đã chứng kiến cảnh một người vợ trẻ ngất xỉu khi đến nhận
xác chồng mà không tìm thấy cái đầu, một bà mẹ đã lăn đùng ra
chết ngất khi thi thể đứa con hy sinh chỉ còn lại một phần và bà
không thể nhận diện được con mình. Những khủng khiếp của chiến
tranh sau này, cùng với thời gian, dần dà làm tôi tạm quên nhiều
chuyện đau đớn cũ.
– Ông Trung úy Điệp, người Huế, làm
đại đội trưởng lúc ở ngoài Cam Ranh, bây giờ ra sao rồi, Đại úy?
Câu hỏi của sœur Anna làm tôi giật
mình, trở về thực tại:
– Dạ, anh Điệp đã chết lâu rồi. Anh tử
trận tại Thiện Giáo–Phan Thiết, chỉ sau hai tuần làm đám cưới
với cô giáo Diệu, cũng người Huế, nhưng sống ở Ninh Hòa. Hai
người quen nhau khi đơn vị tôi về thụ huấn bổ túc tại TTHL Lam
Sơn. Không ngờ sœur vẫn còn nhớ tên anh ấy.
Sœur cúi xuống, trầm ngâm giây lát.
Khi ngước lên, bà lấy khăn tay lau nước mắt.
– Tôi và anh Hùng Em cũng làm đám hỏi
đúng hai tuần. Cô giáo Diệu nào đó không biết may mắn hay là bất
hạnh hơn tôi khi đã được làm vợ, cũng chỉ mới hai tuần?
Vừa nói xong, sœur vội vàng nói lời
xin lỗi, bảo đúng ra, một người đi tu, không nên suy nghĩ đến
những điều như thế.
Bốn tháng sau lần gặp gỡ bất ngờ đó,
tôi đến thăm cô nhi viện môt lần nữa, nhưng lần này, tôi cùng đi
với cô Trung úy Trưởng Ban Xã Hội, để giới thiệu với sœur Anna,
nhờ cô nhi viện tạm chăm sóc hai đứa bé, con của một anh chuẩn
úy. Cả hai vợ chồng bị chết bởi đạn pháo ở Kontum. Sœur Anna rất
vui vẻ, ân cần, sẵn sàng nhận giúp và bảo tôi bất cứ khi nào có
dịp về Pleiku, nhớ ghé lại thăm. Chúng tôi cám ơn, biếu cô nhi
viện một ít tiền, và hứa nhất định sẽ trở lại thăm sœur và hai
đứa bé.
Nhưng
rồi tôi đã không giữ được lời hứa ấy. Từ đầu năm 1973, sau khi
Mỹ ký hiệp định Paris trên xương máu của người bạn đồng minh,
những người lính VNCH đã phải chống đỡ làn sóng xâm lăng của
cộng sản phương Bắc, ồ ạt đem đại quân, xe pháo vào quyết chiếm
miền Nam, tôi đã cùng đồng đội miệt mài với chiến trường, súng
đạn, mà sự viện trợ ngày một cạn dần, nên xương máu anh em lại
càng đổ ra nhiều hơn nữa.
Ngày 11/3/75, Ban Mê Thuột thất thủ.
Đơn vị tôi đang hành quân ở khu vực Tây Nam Pleiku, có lệnh kéo
về Hàm Rồng để được trực thăng vận xuống Phước An, quân lỵ cuối
cùng còn lại của tỉnh Đắc–lắc, nhằm tái chiếm Ban Mê Thuột, nơi
có bản doanh Sư Đoàn và hậu cứ của đơn vị chúng tôi. Khi BCH
Trung Đoàn và một tiểu đoàn cùng đại đội Trinh Sát vừa được đổ
xuống Phước An thì Pleiku có lệnh di tản. Hai tiểu đoàn còn lại
của chúng tôi phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên Tỉnh Lộ
7B. Một kế hoạch triệt thoái tồi tệ đã đưa đến thất bại nặng nề
bi thảm. Cả hai tiểu đoàn khi về đến Tuy Hòa chỉ còn lại một
phần tư quân số, hai anh tiểu đoàn trưởng đã phải tự sát để
không lọt vào tay giặc.
Cuối cùng, miền Nam cũng mất. Tôi và
cả cha tôi đều bị tù đày khốn khổ. Cha tôi, tuổi già sức yếu,
không đủ sức để chịu đựng bao đòn thù tra tấn, hành hạ, nên đã
chết trong trại tù Đá Bàn vào tháng 6 năm 1976, còn tôi bị đày
ải qua nhiều trại tù, từ Nam ra Bắc. Sau gần tám năm tôi được
thả về để chứng kiến một quê hương nghèo khổ điêu tàn, vợ con
nheo nhóc. Tôi quyết định vượt biên, dù có phải chấp nhận bao hệ
lụy khôn lường. Tôi rủ vài người bạn tù cùng tổ chức vượt biển,
trong số này có một anh bạn nguyên là sĩ quan Hải quân có nhiều
kinh nghiệm hải hành. Nơi bọn tôi hẹn gặp gỡ là một cái quán nhỏ
của gia đình người bạn tù khác nằm gần khu Hòn Chồng. Một hôm,
sau khi bàn công việc và ăn uống xong, tôi bỗng nghĩ tới anh
Trung sĩ Hùng Em, khi chợt nhớ ngôi mộ của anh cũng nằm gần nơi
này. Tôi nhờ anh bạn chở tôi đến đó. Vì nghĩa trang nhỏ, nên tôi
dễ dàng tìm ra ngôi mộ của anh Hùng Em. Điều làm tôi sững sờ là
ngôi mộ nằm bên cạnh có tấm bia ghi đậm tên người quá cố: Sœur
Anna Phan Thụy Khanh, được Chúa gọi về ngày 15/3/1975. Tôi không
biết vì sao cô chết, chỉ còn nhớ thời gian này đã từng xảy ra
cuộc di tản kinh hoàng trên Tỉnh Lộ 7B. Chúng tôi tìm đến nhà
thờ với ý định hỏi thăm cha xứ, nhưng rất tiếc ngài đi vắng,
trong nhà thờ chỉ có hai thiếu niên rất trẻ, không hề biết sœur
Anna là ai.
Khi rời khỏi nơi này, trong cái man mác buồn tôi bất chợt thấy
vui vui, và buột miệng như để nói với chính mình:
– Cuối cùng thì hai người cũng được ở
bên nhau.
Tôi
chưa (và có lẽ không) có cơ hội nào để trở lại Pleiku. Ngày xưa,
tôi chỉ ghé lại thành phố bụi đỏ này một đôi lần ngắn ngủi, như
chỉ một thoáng chợt đến chợt đi, chưa hề làm quen với một “em
Pleiku má đỏ môi hồng” nào. Ngoài Đồi Đức Mẹ, nơi đơn vị đóng
quân một tháng, cả một tháng gió mưa lầy lội, tôi chỉ còn nhớ
cái quán rượu trong Khu Chợ Mới, nơi anh bạn Biệt Động Quân đưa
tôi đến để tìm những cơn say, và một ngôi trường được dùng làm
cô nhi viện, nơi có sœur Anna xinh đẹp, đã gợi lại trong tôi
hình ảnh của những đồng đội đáng mến mà vắn số như Nguyễn Phú
Hùng Em. Tôi da diết nhớ đơn vị cũ, thời chúng tôi còn trai trẻ,
nhớ từng khuôn mặt bạn bè đã nằm lại trên các chiến trường xưa
hay đang lưu lạc muôn phương, tiếc thương cho cuộc tình đẹp của
những người lính trẻ, lãng mạn, thơ mộng, nồng nàn nhưng sớm
chia lìa đớn đau bởi cuộc chiến tranh oan nghiệt.
Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
... hỡi Thần dân, hãy đi và loan Tin Mừng... Chúa Cứu Thế giáng trần
|
Hình nền:Máng Cỏ Giáng Sinh. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Batkhuat Nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, December 6, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang