Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Thời sự Hải ngoại
Chủ đề:
Tiếng Việt
Tác giả:
BS Trần Văn Tích
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Đây là một vấn đề rất
phức tạp và rất mẫn cảm, đề cập đến nó phải có cái đầu thật
nguội thật lạnh.
Quý độc giả mang chứng dị ứng đối với
những từ ngữ được gọi tên là “từ ngữ Việt cộng” không nên đọc
bài này. Nói rộng ra thì những ai thấy cái gì Việt cộng làm cũng
sai tuốt luốt, nhìn ở đâu cũng thấy nghị quyết 36, nghe tin gì
cũng cho là do âm mưu Trung cộng, v.v. thì có lẽ nên delete bài
này cho xong chuyện, cho tiện việc.
Không có từ ngữ Đức cộng
Như Việt Nam, nước Đức từng bị chia
đôi, một nửa nước là tư bản, nửa nước kia là cộng sản. Bên phía
nửa nước cộng sản tức trên cương vực Đông Đức cũ, người dân cũng
nói tiếng Đức nhưng theo cách riêng của ngôn ngữ xã hội chủ
nghĩa. Sự khác biệt giữa tiếng Đức hai miền, miền tây và miền
đông biểu lộ trong những lĩnh vực khẩu ngữ thường nhật, trong
lĩnh vực ngôn ngữ chính trị nhuốm màu ý thức hệ, trong lĩnh vực
văn chương chữ nghĩa của giới báo chí.
Con gà quay Tây Đức gọi là
Brathänchen, Đông Đức gọi là Broiler. Bệnh xá Tây Đức gọi là
kleine Poliklinik, Đông Đức gọi là Ambulatorium. Westgeld là
tiền Tây Đức, sang Đông Đức nó trở thành blaue Fliesen (gạch men
màu xanh) vì tấm giấy bạc 100 DM của Tây Đức có màu xanh lơ.
Hotdog (xúc-xích nóng) từ Tây sang Đông biến thành Ketwurst. Xã
hội Đông Đức vinh danh Held der Arbeit, anh hùng lao động. Tính
từ parteilich để dành riêng cho đảng xã hội chủ nghĩa Đức, im
Sinne der Sozialistischen Partei. Người Đông Đức khi xưng hô với
nhau trong thư từ dùng hình dung từ wert như Werte Kollegen,
Werter Herr, Werter Bürger trong khi bên Tây Đức, người ta mở
đầu thư tín bằng quá khứ phân từ của động từ ehren, ví dụ
Geehrter Herr. Có những từ ngữ chuyển dịch từ tiếng Nga, tỷ như
Haus der Kultur (Cung Văn Hoá) là do dịch dom kultury;
Ambulatorium vốn có gốc nguồn từ Nga ngữ ambulatorija.
Từ điển quan phương Đức ngữ Duden ghi
các từ ngữ từng thông dụng bên Đông Đức cũ và chú thích nguồn
gốc của chúng trong ngoặc đơn “(bes. DDR)” (đặc biệt Đông Đức).
Hiện tượng khác biệt về ngôn ngữ trên
lãnh thổ Đông Đức cũ được từ vựng tiếng Đức gọi chung là
Sprachgebrauch (in der DDR), sử dụng ngôn ngữ (bên Đông Đức).
Trong tiếng Đức, không có khái niệm deutschkommunistische
Wörter, không có khái niệm từ ngữ Đức cộng.
Phân biệt quốc-cộng trong Việt
ngữ
Đương nhiên ngôn ngữ hiện thông dụng ở trong nước có những từ
ngữ rất ngô nghê và những cách dùng từ rất kỳ cục; chuyện đó
không đáng bàn ở đây vì chỉ phí thì giờ gõ máy và mất công sức
ngồi đọc. Nhưng mới đây, khi tôi được người khác lưu ý là chớ
nên dùng hai chữ “nêu bật” vì đó là chữ của Việt cộng thì tôi
cảm thấy như bị xử ức. Nếu chúng ta được phép nói “nêu ra, nêu
rõ” thì tại sao lại không được nói “nêu bật”? Những người khắc
nghiệt thản nhiên bảo rằng chỉ có Miền Bắc mới nói vậy, Miền Nam
trước 75 không hề nói thế. Đó là một lập luận hết sức chủ quan
vì rõ ràng là không có chứng minh khoa học nào, không có thống
kê chính thức nào để hỗ trợ cho “tuyên cáo” của đương sự hay các
đương sự khi chủ trương “nêu bật” là từ của Việt cộng.
Lại có bà con bảo người quốc gia chúng
ta nói “khai triển”, chỉ có ViXi mới nói “triển khai”. Đúng
không? Kính xin quý vị nào nói như vậy vui lòng bỏ ra một phút
để tham khảo Việt Nam Tự điển do hai tác giả Lê Văn Đức-Lê Ngọc
Trụ biên soạn, Nhà sách Khai Trí phát hành năm 1970. Tự điển này
ghi cả hai chữ “khai triển” và “triển khai”. (Với tôi, muốn bảo
một từ nào đó là của Việt cộng thì phải tra hai loại từ điển/tự
điển của Miền Nam và của Miền Bắc để so sánh, nếu từ liên hệ chỉ
được ghi trong từ điển/tự điển Miền Bắc mà không thấy ghi trong
từ điển/tự điển Miền Nam thì tôi tạm thời sơ bộ đồng ý là từ
Việt cộng. Chỉ tạm thời thôi, chỉ sơ bộ thôi. Tôi tránh xa những
loại kiến giải hàm hồ, những lời phát biểu võ đoán khi khơi khơi
nêu ra rằng từ A là từ Việt cộng vì Miền Nam không dùng nó mặc
dầu không ai biết là có thật Miền Nam không hề dùng từ A hay
không).
Từ ngữ Việt cộng
Theo tôi, trong ngôn ngữ Việt Nam, có
một số từ ngữ Việt cộng. Trước hết, đó là các từ ngữ do bọn chóp
bu Việt cộng nghĩ ra và bắt quần chúng Việt Nam phải sử dụng.
Đại biểu cho bộ phận từ vựng Việt cộng
là hai chữ Đảng và Bác viết hoa. Vì bị áp đặt, quá hơn nữa, vì
bị khủng bố phải làm y như chúng bắt làm nên tiếng Việt trong
nước hiện nay đành chấp nhận hễ đề cập đến đảng cộng sản là phải
dùng chữ “Đảng” viết hoa, hễ nhắc đến già Hồ thì phải gọi là
“Bác”. Tờ tạp chí Văn Học của Hà Nội còn khoe khoang là “ta” đã
đạt được thành công ngôn ngữ học khi chỉ dùng gọn ghẽ chữ “Đảng”
để chỉ đảng cộng sản Việt Nam! Người cộng sản công khai tuyên
dương một vụ cưỡng bức văn học qua lạm quyền chi phối ngôn ngữ
dân tộc!
Có
những từ ngữ Việt cộng thuộc lĩnh vực chính trị-xã hội-văn học
thường gặp trong các bộ môn khoa học nhân văn. Đó là các khái
niệm “học tập cải tạo, đánh tư sản mại bản, ngụy quân ngụy
quyền”; đó là những nhóm chữ “anh hùng lao động, gia đình liệt
sĩ, nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ công huân, nhà giáo nhân dân...”.
Trong khoa học ứng dụng có những chủ thuyết mà giới cầm quyền
cộng sản ra sức đề cao do nhu cầu tuyên truyền tính ưu việt của
chế độ; tên gọi các chủ thuyết liên hệ cũng thuộc từ vựng cộng
sản: học thuyết Lyssenko, diện châm diện chẩn, hoạt động thần
kinh cao cấp. Sở dĩ gọi là nhóm chữ thuộc từ vựng cộng sản – hay
từ vựng Việt cộng, tùy trường hợp, tùy tình huống – vì chính
sách độc tài độc đảng đã đưa chúng vào đời sống các dân tộc sống
dưới gông cùm xã hội chủ nghĩa một cách rất tàn bạo dã man. Dựa
vào uy quyền Staline, Lyssenko không những đã cưỡng bách giới
nông học sinh học Liên Xô cũ phải áp dụng học thuyết sai trái
của mình mà còn ra tay thủ tiêu các đối thủ. Việt cộng đề cao
một cách mù quáng cái gọi là “hoạt động thần kinh cao cấp” trong
khoa sinh lý học, chúng phong thần “nhà khoa học” giả hiệu, Đại
tá Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thiện Thành, người tiếp thu Bệnh viện
Vì Dân Sài Gòn sau ngày 30/04/75.
Từ ngữ và từ vựng Việt ngữ.
Hoàn cảnh từ “chất lượng”
Rất nhiều người dị ứng với hai chữ
“chất lượng” mà bà con cho là từ Việt cộng. Điều đó chưa chắc.
Trước hết, tôi gặp mục từ “chất lượng”
trong một vài cuốn từ điển của Miền Nam và của Tây Đức:
Hán-Việt Từ điển Đào Duy Anh, 1951,
ghi mục từ “chất”;
Pháp-Việt Từ điển Đào Duy Anh, 1957,
ghi mục từ “masse” và dịch là “chất lượng”;
Hán-Việt Từ điển Nguyễn Văn Khôn,
1960, ghi mục từ “chất lượng” và giảng là “(Lý) Lượng của vật
chất”.
Tự
điển Việt-Đức xuất bản ở Wiesbaden (Tây Đức cũ), 1972, ghi “chất
lượng (phys.) Masse.”
Như vậy chất lượng (zhìliàng) có hai
nghĩa, nếu theo cách dùng của chữ Hán. Nghĩa thứ nhất thuộc phạm
vi môn vật lý học và có nghĩa là khối, khối lượng (tức tương
đương với mass, TVT chú); nghĩa thứ hai là chất, chất lượng, ví
dụ nói “công trình chất lượng” nghĩa là chất lượng của công
trình hoặc nói “đề cao sản phẩm chất lượng” nghĩa là nâng cao
chất lượng của sản phẩm.
Hai nữa, “chất lượng” là một từ kép
được tạo thành do ghép một danh từ với chữ “lượng”. Nhờ sự tiếp
tay của một số bằng hữu – có người hiện ở trong nước – tôi đã
góp nhặt được một danh sách các từ gồm một danh từ + lượng, như
dưới đây. Để tìm biết gốc gác của những danh từ ghép có tên
trong danh sách, tôi sẽ căn cứ vào hai từ điển, một của Miền Nam
(Lê Văn Đức-Lê Ngọc Trụ, viết tắt LVĐ-LNT), một của Miền Bắc
(Hoàng Phê, viết tắt HP). Tôi sẽ kèm theo ví dụ, chú thích, giải
nghĩa. Nếu từ điển có ghi thì tôi dùng dấu cộng (+), nếu từ điển
không ghi thì tôi dùng dấu trừ (-).
Danh sách những từ ghép có chữ lượng
Chữ
“chất lượng” được cấu tạo bằng chữ “chất” và chữ “lượng” và hàm
nghĩa là “lượng của chất”. Giải thích như vậy thực là khó hiểu
nhưng chính cái nội hàm ngữ nghĩa đó mới là quan trọng; vì thế
xin chuyển qua một chữ khác cho dễ hiểu hơn, chữ “hàm lượng”.
Hàm lượng là lượng của một chất chứa (hàm) trong một hỗn hợp
tính bằng phần trăm (%). Tiếng Pháp là teneur. Larousse giảng
teneur là ce qu’un mélange contient d’un corps particulier
(lượng một chất nào đó chứa trong một dung dịch) Teneur en
alcool (Hàm lượng rượu). Teneur d’un minerai: proportion de
substance utile contenue dans un minerai (tỷ lệ một chất hữu ích
trong một quặng kim loại); còn từ điển Hoàng Phê thì cho ví dụ
nơi mục từ “hàm lượng”: Hàm lượng sắt trong quặng. Các loại ruợu
đều có hàm lượng ruợu. Ruợu cidre có hàm lượng ruợu rất thấp, độ
5-6%, cidre doux có hàm lượng ruợu là 0%; các loại eaux-de-vie
có hàm lượng rượu cao hơn nhiều, 40-45%. Như vậy khi nói “hàm
lượng” là chúng ta hiểu cái lượng (ví dụ lượng rượu) chứa (hàm)
trong nước. “Sản lượng” là cái lượng sản xuất được; “sản lượng”
là productivité. “Dung lượng” là cái lượng chứa đựng được
(capacité). “Lưu lượng” là cái lượng chất lỏng hay chất khí đi
qua (lưu) một nơi trong một đơn vị thời gian, tiếng Pháp là
débit, débit d’un cours d’eau, d’une pompe (lưu lượng một con
suối, lưu lượng một ống bơm). “Tửu lượng” là lượng rượu uống
được mà không... nằm ngay đơ.
Những người dị ứng với “chất lượng”
cho rằng chất là chất, lượng là lượng, ghép hai chữ như vậy thì
chỉ có Việt cộng mới làm! Họ không hiểu rằng trong tiếng Việt,
cách kết hợp một danh từ nào đó với chữ “lượng” là một hình thức
tạo từ hợp lý và khoa học. Tuy nhiên khi “lượng” đi kèm một tính
từ, một động từ thì những chữ ghép mang chữ “lượng” không thuộc
nhóm từ ngữ chúng ta đang bàn; đó là trường hợp những chữ định
lượng, ước lượng, thương lượng hay đại lượng (rộng lượng,
généreux), v.v. Có người vẫn chưa hiểu nguyên tắc tạo từ tôi vừa
trình bày, mặc dầu tôi đã cố gắng nhiều để giải thích.
Tóm lại, “chất lượng”:
1. không phải là từ ngữ ViXi (bởi vì
tôi đã tìm thấy nó trong ít nhất ba bốn cuốn từ điển của Miền
Nam, như đã trình bày);
2. là một từ ngữ được tạo thành một
cách khoa học và hợp lý;
3. có giá trị tương đương với “phẩm
chất”, “tính chất”.
Tiếng Việt của người quốc gia.
Tiếng Việt hiện thông dụng trong nước
“Chất lượng”
có từ đồng nghĩa là “phẩm chất”. Bản
thân tôi khi sử dụng Việt ngữ, chỉ dùng từ “phẩm chất” bởi vì đó
là một từ quen thuộc và dễ hiểu, ý nghĩa rõ ràng không gây thắc
mắc. Tôi viết: “Hàng hoá do Đức sản xuất được bảo đảm tiêu chuẩn
và phẩm chất” thay vì “Hàng hoá do Đức sản xuất được bảo đảm qui
cách và chất lượng”. Tôi dùng từ “tiêu chuẩn” thay cho từ “tiêu
chí”, tôi gọi cuốn Larousse là “tài liệu tham khảo” thay vì gọi
nó là “tư liệu tham khảo”.
Trong khi đó thì cách đây mấy hôm, hôm
thứ sáu 14/12/2018, Diễn đàn Mỹ Loan đưa lên internet bài viết
của ký giả Trọng Nghĩa nói về lực lượng hải quân Hoa Kỳ và Trung
cộng; trong bài từ đầu đến cuối tác giả chỉ dùng từ “tàu sân
bay” mà không hề dùng từ “hàng không mẫu hạm”. Có hai “vi hữu”
góp ý ngắn gọn một cách đứng đắn chững chạc: Ông Katumtran và
cựu Đại tá (VNCH) Thomas D.Tran. Cả hai tuyệt đối không hề để lộ
một chút khó chịu nào đối với ba chữ “tàu sân bay”!
Thực tế hiện thời là như vậy. Bà con
trong nước đang nói tiếng Việt với những từ ngữ mà người quốc
gia tỵ nạn cộng sản nhất là những người thuộc thế hệ thứ nhất
không biết đến hay không ưa thích. Nhưng không phải do vậy mà
lại khái quát hoá để cho rằng Việt ngữ quốc nội là Việt ngữ của
Việt cộng. Tiếng Đức trên vùng lãnh thổ Đông Đức cũ không phải
là tiếng nói của Đức cộng.
Ngôn ngữ là một khoa học. Phán đoán về
từ vựng, từ ngữ, từ cú, từ chương, từ ý, từ luật, từ nguyên, từ
nghĩa, v.v. là một công việc thuộc phạm vi rất chuyên môn; không
những nó cần đến những kiến thức tích lũy mà còn đòi hỏi tính
cẩn trọng và tính khách quan. Bàn về từ Việt quốc và từ Việt
cộng là việc làm hết sức bổ ích và hấp dẫn nhưng không phải vì
thế mà cứ nói bừa nói ẩu, nói lấy được.
Trần Văn Tích
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
... hỡi Thần dân, hãy đi và loan Tin Mừng... Chúa Cứu Thế giáng trần
|
Hình nền:
Nguồn: Internet eMail by tvt chuyển
Đăng ngày Thứ Hai, December 17, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang