Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự truyện
Chủ đề:
Đời Lao tù cộng sản
Tác giả: Nguyễn Thiếu Nhẫn
Bấm vào đây để in ra giấy (PDF)
Chiều 30 tháng 4 năm 1975, tôi và T đứng trên lầu 9 cao ốc ở đường
Nguyễn
Huệ nhìn xuống đường Tự Do. Bộ đội miền Bắc – những người
vừa chiến thắng trong cuộc nội chiến, ngoại khiển, đang diễn
hành trên đường phố Sài Gòn với chiến xa bọc thép của Liên Sô
dẫn đầu. Những người lính miền Bắc ốm yếu, xanh xao, ngụy trang
sơ sài cho có lệ. Bánh xích xe tăng Liên Sô và dép râu bộ đội
miền Bắc đang cán và giẫm lên đường Tự Do.
Phía dãy nhà
đối diện, dân chúng túa ra xem mỗi lúc một đông. Những người
Việt gốc Hoa cầm cờ Trung Cộng và cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền
Nam vẫy vẫy chào mừng đoàn quân chiến thắng.
Tôi bỗng ứa
nước mắt!
T cầm tay tôi, nói:
“Thôi mình đi xuống,
anh.”
Tôi và T đi xuống.
Tôi biết mình đang bước
xuống tầng đầu địa ngục.
Tôi và T
trở về Vĩnh Long trên một chiếc xe cam-nhông trước kia dùng để
chở heo, vì mùi phân heo còn nồng nặc. Mụ chủ xe tham tiền đã
rước khách không còn có chỗ để ngồi. Ai cũng muốn trở về quê
quán sau cuộc binh đao để xem gia đình còn mất ra sao. Trước đó
mấy ngày, tôi đã thờ ơ nhìn những người tất tưởi, lũ lượt đi về
phía bến Bạch Đằng. Sau này tôi mới biết, ở đó, có một chuyến
tàu cuối cùng đưa hàng ngàn người rời khỏi Việt Nam, đó là chiếc
tàu Trường Xuân do thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy điều khiển.
Những ngày ở Vĩnh Long tôi như người bị ốm đứng. Buổi trưa,
có tiếng lựu đạn nổ ở Cầu Lầu: một nghĩa quân đã rút chốt lựu
đạn tự sát. Buổi tối, có tiếng những bước chân chạy đuổi sau
nhà: “cách mạng” đang truy đuổi bọn phản động.
Tin từ
Khám Lớn: một Đại tá của quân lực Việt Nam Cộng Hòa tự sát vì bị
bạc đãi.
Một tháng để tất cả các quân nhân, công chức
“ngụy” trình diện học tập đã hết.
Tôi trở lên Sài Gòn, về
Biên Hòa để gặp lại ông nội tôi trước khi đi trình diện học tập
cải tạo 10 ngày theo lệnh của Ủy Ban Quân Quản thành phố Hồ Chí
Minh là tên mới của Sài Gòn. (Sài Gòn ơi! Ta mất người như người
đã mất tên!) Ông nội tôi đã nhìn tôi, rồi thở dài: “Vậy mà nội
tưởng vợ chồng con đã đi...” Đó là câu nói cuối cùng của ông nội
tôi – người đàn ông vợ chết từ năm 40 tuổi vẫn ở vậy nuôi con,
nuôi cháu cho nên người.
Trại tù “cải tạo” đầu tiên trên
đường bước xuống tầng đầu địa ngục là thành Ông Năm ở Hốc Môn.
Cùng với những người tù khác, tôi đã phải học những bài học: “Đế
quốc Mỹ, tên sen-đầm quốc tế – Ngụy quân, ngụy quyền, tay sai
của đế quốc Mỹ.” Và nhiều bài học khác mà tôi đã quên tên. Tôi
đã cặm cụi chép vào quyển tập học trò những câu khẩu hiệu:
“Sống, chiến đấu, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại – Học, học
nữa, học mãi – Lao động là vinh quang...” Và còn nhiều câu khẩu
hiệu mà tôi không còn nhớ, cũng như không dám nhớ!
Như đa
số các tù binh, tôi thuộc loại “ngậm miệng qua sông.” Để chứng
tỏ mình đã có tiến bộ về mặt tư tưởng, vào những ngày 19 tháng
5, ngày 2 tháng 9, ngày Tết Âm lịch, tôi đã sáng tác thơ ca tụng
“cách mạng” gửi đăng “báo tường”.
Chính ở nơi đây, tôi đã
cay đắng nghe viên thiếu úy bộ đội miền Bắc mà các “cải tạo
viên” thường gọi là “anh hai thơ” (vì lúc nào anh ta cũng ngâm
nga thơ của Tố Hữu), đọc cho nghe câu thơ mà anh ta bảo là của
một chị phụ nữ miền Nam. Câu thơ như sau:
“Có chồng bộ
đội là tiên
Có chồng quân ngụy đảo điên cửa nhà!”
Cũng
chính nơi đây, chúng tôi đã dở khóc, dở cười khi được các “đỉnh
cao trí tuệ” dạy dỗ. Chuyện mới nghe tưởng chừng như chuyện tiếu
lâm mà lại là sự thật, tôi xin được kể lại như sau:
Sau
một thời gian học tập, chúng tôi được phát giấy để làm bản tự
kiểm. Thôi thì đủ thứ tội tình phải cố nhớ ra để mà “tự kiểm”:
Trong thời gian phục vụ trong hàng ngũ ngụy quân đã đốt bao
nhiêu cái nhà? Đã hãm hiếp bao nhiêu phụ nữ? Đã giết bao nhiêu
“cách mạng”?
Viết xong phải thông qua tổ, đội rồi nộp lên
Ban Chỉ huy trại.
Sau đó, tất cả các tù binh được lệnh
xếp hàng ngồi dưới đất để nghe Ban Chỉ huy trại gọi vào hạch
sách về những điều mình đã tự khai.
Chỉ huy trại là một
người miền Nam tập kết, cấp bậc Đại úy mà các tù binh vẫn quen
gọi là “ông Răng Vàng” vì nguyên hàm răng trên của ông là “kim
loại màu vàng” – nói theo cách nói của “cách mạng”.
Một
tù binh khai: “Cấp bậc: Đại úy, chức vụ: Quyền Tiểu Đoàn Trưởng”
bị “ông Răng Vàng” đập bàn, hét:
“Mẹ bố, quân ngụy các
anh là láo lếu: ai chẳng biết các anh là Đại úy, là có quyền,
còn bày đặt khoe khoang.”
Nói xong, ông ta lấy viết gạch
bỏ chữ “Quyền” trước ba chữ “Tiểu Đoàn Trưởng”.
Một tù
binh khác khai: “Cấp bậc: Đại úy. Binh chủng: Biệt Cách Nhảy Dù”
bị “ông Răng Vàng” chỉnh:
“Mẹ bố, ngụy các anh là ưa khoe
khoang: ai chẳng biết các anh “biết cách” nhảy dù.
Nói
xong, “ông Răng Vàng” lấy viết sổ toẹt hai chữ “Biệt Cách”.
Một tù binh khác khai địa chỉ: “...đường Huỳnh Tịnh Của – Đa
Kao”, đã phải dở khóc, dở cười khi bị một ông sĩ quan bộ đội
người miền Trung “dạy dỗ” như sau:
“Ngụy các anh là ưa
rắc rối: “Huỳnh Tịnh – Đa Kao” là người ta hiểu rồi. Còn bày đặt
là “Huỳnh Tịnh của Đa Kao” làm gì cho rắc rối.”
Nói xong,
ông ta bèn gạch bỏ chữ “Của” một cách ngon ơ!
Cùng với
những tù binh khác, sau đó chúng tôi được đưa đến Long Giao, rồi
về trại cải tạo Suối Máu ở Biên Hòa. Tôi vẫn tiếp tục “ngậm
miệng qua sông” và làm thơ ca tụng “cách mạng” vào những ngày lễ
lạc của những người thắng trận , với hy vọng là được “cách mạng”
biết là mình đã “học tập, lao động tốt và đã có tiến bộ về mặt
tư tưởng!”
Năm 1977, cùng với những người tù khác, tôi đã
lênh đênh trên tàu Sông Hương lưu đày ra miền Bắc.
Tầng
địa ngục thứ tư mà tôi phải đi qua là trại Nghĩa Lộ nằm trong
một thung lũng là trại cải tạo đầu tiên tôi đặt bước chân lưu
đày ra miền Bắc. Đêm đầu tiên mặc bộ đồ tù màu xanh có sọc
trắng, các tù nhân trông giống như những đạo tì đi khiêng quan
tài người chết.
Chính nơi đây, những người tù miền Nam
mới thực sự biết đến cái đói. Mỗi bữa ăn chỉ được một miếng bột
mì đen khuấy chín để đặc lại với vài cọng rau muống luộc chấm
mắm tôm khuấy lỏng.
Mỗi ngày tù nhân phải leo lên núi
chặt giang, đốn củi.
Ở đây, tôi cũng lại tiếp tục “ngậm
miệng qua sông” để mà sống. Có ai đó đã vô cùng có lý khi nói
rằng: “Thà làm con chó sống hơn là làm con sư tử chết!”
Cái đói là đòn cân não tàn phá nhân phẩm của những người tù.
Người ta giành nhau từng phần chia lớn, nhỏ. Tù nhân đã phải tìm
bắt tất cả những con vật động đậy có thể ăn được. Bỏ cấp bậc,
lon lá xuống, mặc vào bộ quần áo tù, rất dễ nhận ra nhân cách
của mỗi người. Có những người để lập công chuộc tội đã lén lút
báo cáo người này có tư tưởng phản động, kẻ kia có âm mưu chống
đối.
Ở trại Nghĩa Lộ, người nằm cạnh tôi là anh Trương
Văn Tuyên (hiện định cư tại Canada), là người bị cấm thăm nuôi ở
trại Suối Máu. Theo lời anh ta thì anh ta tốt nghiệp Quốc Gia
Hành Chánh, cấp bậc Trung úy, cựu Quận trưởng quận Hoài Nhơn,
Bình Định.
Chuyện anh ta bị cấm thăm nuôi thì có nhiều
chuyện lắm. Như chuyện anh ta “khoe” là “có quen với cán bộ quản
giáo, nhưng chỉ quen cái lưng vì lúc đánh nhau anh ta đã rượt
mấy ông bộ đội chạy có cờ.” Chuyện anh ta kể với tôi nguyên nhân
chính là do lần anh ta kể chuyện chính quyền Việt Cộng gửi công
hàm đòi chính phủ Thái Lan phải trao trả các phi cơ mà các phi
công của miền Nam lấy và bay qua Thái Lan. Chính phủ Thái Lan đã
gửi công hàm trả lời và trong công hàm chỉ vỏn vẹn có ba chữ
viết tắt “B.C.T”. Anh ta đố mọi người có biết ba chữ viết tắt
này nghĩa gì không. Người thì cắt nghĩa ba chữ “B.C.T” là “Bộ
Chính Trị”, kẻ thì bảo là “Ban Cải Tạo”. Cuối cùng, khi mọi
người chịu thua, Tuyên cười khì khì bảo ba chữ B.C.T là viết tắt
của ba chữ “Bú C. Trừ.” Sau đó, có người đi báo cáo để lập công
nên anh ta bị cấm thăm nuôi.
Ở đây, anh ta lại tiếp tục
chống đối. Khi viên Trại phó tên Điền, cấp bậc Đại úy ra lệnh
tập họp các tù nhân ở hội trường và phổ biến quy định các trại
viên khi gặp các cán bộ phải nói: “Kính thưa Ngài Trại Trưởng,
Kính thưa Ngài Trại phó, Kính thưa Ngài cán bộ quản giáo...” Khi
trại phó Điền ra lệnh giải tán lớp học, gặp tôi trên đường về
lán trại, Tuyên khoanh tay, cúi đầu, nói lớn:
“Kính thưa
Ngài trại viên”
rồi cười lớn làm tôi hoảng quá.
Buổi chiều, nhân lúc rửa chén ở dưới suối, tôi có nói với anh ta
không nên chống đối ra mặt chỉ thiệt cho thân mình. Tôi nói xa,
nói gần với anh ta về chuyện Hàn Tín lòn trôn giữa chợ, về
chuyện “mang thiên quá hải”. Từ đó, anh ta thân với tôi hơn và
anh ta thay đổi rõ rệt.
Trong thời gian này, trại phát
động làm báo tường. Những trại viên có bài vở đóng góp sẽ được
nghỉ lao động một ngày. Mỗi ngày lên rừng chặt, cột, vác về trại
15 cây giang rất là nặng nhọc đối với một người ốm yếu như tôi;
do đó, tôi đã làm bài thơ “Đại dương trong lòng con sóng nhỏ” ca
tụng công đức của ông Hồ Chí Minh để được nghỉ lao động một
ngày.
Bài thơ như sau:
“Con chưa khóc Bác một lần
Để nghe biển lớn vỗ nâng tâm hồn
Con chưa hát bản Kết Đoàn
Bác đưa tay bắt nhịp tràn yêu thương
Kiếp xưa đã lỡ cung
đường
Nên con sóng nhỏ đau thương lạc loài
Trên cao Bác
vẫn vẫy tay
Gọi con sóng nhỏ về đây nhập nguồn
Xa rồi
thung lũng đau thương
Hạt mưa sa đã về nguồn yêu thương
Muôn vàn cảm tạ công ơn
Tấm lòng biển lớn bao dung ngất trời
(quên mất 2 câu)
Bác ơi! Ơn Bác tái sinh
Trên
đường sống lại, trăm năm ghi lòng!”
Trương Văn Tuyên là
người biết về âm nhạc, anh ta đã đem bài thơ phổ nhạc và đem hát
trong buổi lễ sinh nhật của ông Hồ Chí Minh.
Hôm sau, lúc
xuống suối rửa chén, gặp đại úy Hồ Bác Ái là người làm việc
chung Phòng với tôi ở Bộ Tổng Tham Mưu, anh ta đã hỏi tôi một
cách mỉa mai:
“Ông anh đổi họ hồi nào vậy, ông anh?”
làm tôi ngượng chín người. Từ lúc đó, tôi cố ý tránh gặp mặt
anh ta. Tôi là người tham sống, sợ chết. Tôi là kẻ ngậm miệng
qua sông. Tôi đã muối mặt ca tụng Bác, Đảng với mục đích duy
nhất là chứng tỏ mình đã có tiến bộ về mặt tư tưởng để được Đảng
và Nhà Nước khoan hồng, để được sớm đoàn tụ với gia đình, theo
như lời phủ dụ của các cán bộ quản giáo. Có điều tôi đã không
bước trên xác đồng đội mà đi, tôi chưa làm cái việc đốn mạt là
làm “ăng-ten” báo cáo người này, người nọ để lập công.
Cuối năm 1977, trong đêm, chúng tôi, những tù nhân thuộc các
diện Chiến Tranh Chính Trị, Cảnh Sát, Tình Báo tức các loại được
Việt Cộng gọi là ác ôn được chất lên những chiếc molotova có mui
che bằng lá gồi chuyển trại.
Tầng địa ngục thứ năm của
chúng tôi là trại cải tạo Tân Lập ở Lào Kai. Ở đây tôi ở đội 4
rồi sau đó được đưa qua đội 5 của phân trại K.4 phụ trách việc
làm gạch.
Mỗi ngày chỉ tiêu được giao cho 3 tù nhân là
đạp nhuyễn đất để làm thành một cối đất để đóng thành 200 viên
gạch.
Cái đói ở đây thật khủng khiếp. Ăn ít như tôi mà
đêm nào tôi cũng phải uống thêm nửa “gô” nước cho đầy bụng để cố
dỗ giấc ngủ.
Mỗi ngày ra hiện trường lao động, tôi được
hai anh em cùng cối đất giao công tác là lén bứt rau tàu bay rửa
sạch, bỏ vào ống vầu (một loại giống như tre ở miền Nam), lén
đặt vào đống lửa, sau đó lấy ra chia nhau ăn cho đầy bụng để mà
đạp đất giữa trời.
Dù đã được các cảnh vệ cảnh cáo là ăn
rau tàu bay sẽ bị mất máu, các tù nhân vẫn lén lút ăn rau tàu
bay để có đủ sức mà hoàn tất chỉ tiêu, để khỏi bị phê bình là
chây lười lao động.
Ở đây có một số anh em tù ở trại K.1
chuyển vào. Có người đã dè bỉu chuyện một ông Tướng, khi anh em
chia thức ăn làm rớt một cọng rau muống xuống đất, ông này đã
nhặt lên, không cần phủi bụi, đưa vào miệng ăn. Tôi thì tôi chỉ
thấy chua xót.
Ở đây tới Tết, tôi có làm bài thơ để tặng
T. Bài thơ có cái tựa dài thoòng như sau:
Thơ cổ đề tranh
bốn mùa trong phòng người vợ cô đơn
Mai:
Gió đông
nói với mai vàng
Xuân này thiếp đã vắng chàng ba xuân.
Lan:
Mùa hè hoa lựu đỏ cành
Như lan vương giả
thiếp đành cô đơn.
Cúc:
Mây mùa thu biếc tủi hờn
Cúc hiu quạnh nở trong vườn nhà ai.
Trúc:
Mùa đông
xám vẫn còn đây
Ngựa qua rừng trúc lưu đày mù sương.
Viên trung sĩ công an phụ trách đội nhà bếp là một tay sính thơ
văn. Không biết ai giới thiệu với anh ta là tôi biết làm thơ,
anh ta cho gọi tôi lên văn phòng, chỉ mấy bức tranh mai, lan,
cúc trúc và ra lệnh cho tôi làm mấy câu thơ và hứa sẽ “bồi
dưỡng” cho tôi một ký mật. Đúng là buồn ngủ lại gặp chiếu manh.
Tôi lại cố chứng tỏ mình đã được:
“Đảng cho sáng mắt,
sáng lòng
Xin làm một giọt máu hồng về tim!”
bằng cách
sửa bốn câu lục bát viết cho T thành những vần thơ ca tụng công
ơn trời biển của Bác, Đảng và nhân dân, như sau:
“Mai:
Mai vàng nở khắp muôn phương
Đảng đưa ta tới một vườn đầy
Xuân
Lan:
Nhờ ơn Bác với nhân dân
Mùa Hè thơm
nức hương lan đại đồng.
Cúc:
Mùa Thu cách mạng
thành công
Cúc vàng khoe sắc, muôn lòng nở hoa.
Trúc:
Đông về, Bác bận đi xa
Trúc rừng Pắc Bó thiết tha ơn
Người!”
Dù đã tìm mọi cách để chứng tỏ mình đã “sáng mắt,
sáng lòng” tới như vậy, nhưng lúc Trung Cộng và Việt Cộng đánh
nhau, tôi cũng như những người tù khác bị còng chung chiếc còng
“made in Vietnam xã hội chủ nghĩa” làm bằng kẽm gai, leo lên xe
molotova của Liên Sô, giã từ Phố Lu:
“Đoạn đường ta đã
kinh qua
Mùa Đông buốt giá thịt da ngỡ ngàng.”
về trại
cải tạo Cây Dừa ở Hạ Hòa thuộc tỉnh Vĩnh Phú. Hạ Hòa nổi tiếng
với câu ca dao:
“Thương nhau cho thịt, cho xôi
Ghét
nhau đem đến Mai Côi, Hạ Hòa.”
Ở đây, may mắn tôi được
biên chế vào đội nhà bếp. Ngày ngày “đốt lửa lên em” để nấu bo
bo, bắp xay, sắn duôi, sắn khúc. Chứng bệnh hiểm ác: tràn dịch
màn tinh hoàn bắt đầu hành hạ tôi. Ngày nào, tôi cũng xách cái
bìu dái sưng đỏ lên phòng y tế xin thuốc, mà thuốc ở phòng y tế
thì có gì đâu ngoài thuốc xuyên tâm liên.
Tôi càng khủng
hoảng hơn khi mượn quyển Tự Điển về y học của anh Lê Đình Ái mà
người nhà đã đem vào cho anh khi còn ở trại Suối Máu ở trong
miền Nam. Quyển sách ghi rõ về bịnh tình của tôi như sau: “Tràn
dịch màn tinh hoàn: do bị thương ở hòn tinh lúc nhỏ, bị phát ra
khi cơ thể suy nhược. Đông y không có cách chữa. Chỉ có thể chữa
bằng cách giải phẫu. Nếu để lâu sẽ tuyệt tự.” Cái kiểu này là
“chết ngộ dồi!” Tôi mới cưới vợ có sáu tháng, chưa có con cái là
phải khăn gói gió đưa lên đường... cải tạo. Bây giờ lại bị cái
bệnh có nguy cơ tuyệt tự thì còn biết nói thế nào.
Ở phân
trại K.4 còn gọi là trại Cây Dừa có thằng tù hình sự tên
Hùng-lợn vì bị tội ăn cắp một con lợn mà bị tù đã 7 năm, từ trại
tù thiếu nhi đến trại tù người lớn, tối ngày vừa vác củi, gánh
rau vừa ư ử ngâm nga câu thơ của ông Thiếu tá công an Bùi Văn
Chiếu. Sở dĩ tôi biết được tên họ của ông giám thị trại giam này
vì thấy có đóng dấu, ký tên trong “Giấy Ra Trại” mà tôi được cấp
vào tháng 4 năm 1980:
“K 4 đó rộn ràng biết mấy...”
Một bữa, nó vừa đặt gánh rau muống xuống bếp trại, ngồi bệt
xuống đất, vê một “bi” thuốc lào vừa ư ử: “K.4 đó rộn ràng biết
mấy...”. Tôi, lúc đó, mặt mày đầy mồ hôi, mồ kê vì đang chụm lửa
để nấu nước, bèn thêm vào:
“Chỉ thấy người vào, chẳng
thấy người ra.”
Hùng-lợn trố mắt nhìn tôi:
“Ông
anh này... kinh nhỉ! Chỉ thấy người vào chẳng thấy người ra!”
Thực tình lúc đó tôi chỉ muốn chết. Đêm mùa Đông bệnh nó lại
hành hạ tôi không sao ngủ được. Cả trại đặt cho tôi cái tên tục
tĩu chịu không nỗi: Thằng Dái Bò!
Lúc Trung Cộng đánh
nhau với Việt Cộng, anh đội trưởng đội nhà bếp là anh Trần Hòa
Bình và các anh Lâm Đại Tòng (hiện định cư tại Canada), Đỗ Tài
(hiện định cư tại San Jose) là những người Việt gốc Hoa bị đưa
ra khỏi đội nhà bếp. Tôi được chỉ định làm đội trưởng đội nhà
bếp.
Tháng 4 năm 1980, tôi có tên trong danh sách được
xét tha theo diện “quan tha, ma bắt.” Trong số 120 người tù được
tha, tôi lại là người mạnh khỏe nhất, chỉ có kẹt một nỗi là cái
bìu dái sưng đỏ, đau nhức chịu không nổi. Những người khác, kẻ
thì bị bệnh teo cơ, kẻ thì bại xuội, người thì bị ho lao, phải
chống những cây gậy “tự biên, tự diễn” tức là tự mình “sáng chế”
ra mà lết trở về với đời.
May mắn khi tôi trở về, T, vợ
tôi, vẫn còn:
“Ngày anh xa vắng, em không trang điểm đợi
chờ
Nửa đêm đốt ngọn đèn mờ
Khuê phòng thổn thức cô
liêu...”
Chúng tôi lại cùng nhau nhắc chuyện ngày xưa:
“...Giữa Sài Gòn bỗng tình cờ gặp em
Lầu cao mỉm nụ cười
duyên
Nhìn lên anh bỗng nghe thèm yêu đương
Anh – đời dạn
gió phong sương
Em – hoa khuê các dậy hương xuân thì...”
(trích trong “Tiếng hát từ hố thẳm nhân gian” thơ Nguyễn
Thiếu Nhẫn)
để cùng ngâm lại những câu thơ cổ nói về hôn
lễ của nhà thơ Viên Linh:
“Hôm nay ngày của hai người
Có khung cửa nhỏ khép đời chung quanh
Có ơn cha mẹ sinh thành
Có anh em đến chúc mình bền lâu
Tim hồng, ý biếc ơn nhau
Ngón tay ơn nhẫn, đêm thâu ơn đèn...”
Bệnh tôi được chữa
khỏi nhờ người anh bà con bên vợ là bác sĩ Dương Minh Trí, chủ
nhiệm khoa Niệu của bệnh viện Bình Dân. Tôi có hai đứa con trai.
Khi vợ tôi mang thai đứa thứ hai thì tôi bị tiếp tục đi tù vì
tội “hoạt động tình báo kinh tế, móc ngoặc cán bộ, lũng đoạn tài
sản xã hội chủ nghĩa” chỉ vì tôi mua xà phòng bán đi, bán lại
kiếm lời để nuôi sống gia đình. Ở phòng hỏi cung, viên công an
điều tra lật qua, lật lại tờ khai lý lịch mà tôi đã nộp theo
lệnh khi xin về địa phương cư trú, vỗ bàn hét lớn:
“Mày
là Đại úy Tổng Tham Mưu Trưởng?”
Tôi đã nhỏ nhẹ trả lời:
“Thưa tôi chỉ là đại úy làm ở Bộ Tổng Tham Mưu. Còn Tổng
Tham Mưu Trưởng là đại tướng Cao Văn Viên.”
Viên công an
hỏi cung đập bàn, đứng dậy và trong lúc bất ngờ nhất y tống vào
mặt tôi một cú đấm. Tôi đưa hai tay bị còng chùi máu ứa ra ở
khoé miệng. Viên công an gầm gừ:
“Tao không cần biết mày
là cái gì. Tao sẽ đưa mày trở lại mấy cái chỗ mà mày đã cải tạo
để cho mày biết thân.”
Viên công an đã không thực hiện
được lời nói là đưa tôi trở lại sáu tầng địa ngục mà tôi đã đi
qua. Tôi được đưa tới hai tầng địa ngục khác còn cay đắng hơn
nhiều là trung tâm tạm giam huyện Long Hồ và sau đó là trung tâm
tạm giam tỉnh Cửu Long, tức Khám lớn của tỉnh Vĩnh Long ngày
trước.
Tôi lại phải đánh những sợi lát thành dây bính,
nghe nói là để xuất khẩu qua Liên Sô, vẹo cả hai ngón tay trỏ
trong hai năm. Sau đó, được thả ra vì “xét thấy là không cần
thiết phải truy tố.”
Lúc tôi được ra tù, đứa con thứ hai
đang bị sốt xuất huyết đang nằm ở nhà thương. Rời nhà giam, tôi
lại tới nhà thương để nuôi con.
Sau đó, tôi tìm mọi cách
để ra đi, vì biết mình không thể nào sống cùng những người cộng
sản. Họ có chịu cho mình “hòa hợp, hòa giải” với họ đâu. Trăm
thứ tội tình cứ đổ trên đầu thằng “ngụy.”
May mắn mà tôi
và đứa con trai 5 tuổi được tới đảo Bidong sau khi chiếc tàu
vượt biển bị cướp hai lần.
Tháng 3 năm 1987, tôi và đứa
con tới định cư ở Des Moines, thủ phủ của tiểu bang Iowa thuộc
miền Trung Tây nước Mỹ.
Ở đảo tỵ nạn tôi bắt đầu viết
quyển hồi ký “Những Trại Biến Hình” với những câu lục bát mở đầu
như sau:
“Hốc Môn nhát cuốc bắt đầu
Long Giao đất đỏ
lệ trào chứa chan
Đường về Suối Máu gian truân
Đường ra
Nghĩa Lộ muôn phần đắng cay
Lạnh lùng sương trắng Lào Kai
Đường về Vĩnh Phú tương lai mịt mù
Ra tù rồi lại vào tù
Long Hồ, Khám Lớn mịt mờ tương lai.”
với ý định “tố cáo
chế độ Hà Nội giết người chậm nhưng hữu hiệu.”
Phần đầu
quyển hồi ký đã đăng tải trên tạp chí Sóng ở Canda và tuần báo
Sáng ở Nam California.
Quyển hồi ký, sau đó, đã được đăng
tải trên bán tuần báo Quê Hương ở San Jose với cái tựa “Hồi Ký
Tù, Viết Ngoài Đời”.
Quyển hồi ký đã hoàn tất, nhưng tôi
không có ý định xuất bản vì tôi nghĩ rằng những người Mỹ có thẩm
quyền đều biết những điều đó – nhưng những đau thương đó không
phải là của họ! Những người Việt tỵ nạn đi trước thì đang lo gầy
dựng lại tương lai ở xứ người.
Sau này, tôi có tìm đọc
những quyển hồi ký về tù cải tạo thì thấy những người này không
viết về chính mình mà lại viết về những người khác mà lại nghe
qua những lời kể lại.
Anh em tù cải tạo qua Mỹ theo diện
HO ngày một nhiều. Cảnh đời của mỗi người còn bi đát hơn tôi
nhiều. Thôi hãy để đau thương được lắng im!
Tôi viết “TỰ
THÚ CỦA MỘT TÙ BINH” chỉ có mục đích trình bày
những yếu đuối của bản thân trong thời gian “cải tạo”. Với tôi,
sống bình thường trong các trại tù “cải tạo” của Việt Cộng đã
là... “anh hùng” lắm rồi! Phần khác, cũng để trình bày
vì sao đã không thể có sự hòa hợp hòa giải giữa những người miền
Nam bại trận và những người miền Bắc thắng trận; Bởi, những
người thắng trận có bao giờ chịu đưa bàn tay ra bắt với những
người miền Nam như những người anh em, đồng bào của họ. Lúc nào,
đối với họ, những người bại trận miền Nam cũng là những “thằng
ngụy”!
Nguyễn Thiếu Nhẫn
Bấm vào đây để in ra giấy (PDF)
Những bài liên hệ
Về Bài Thơ Ca Tụng HCM của nhà văn Lão Móc
Trung tâm lưu trữ các Ngày lễ mừng Bổn mạng BCND/QLVNCH...
|
Hình nền: Bản đồ VIỆT NAM hoàn toàn. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by nmh chuyển
https://nguyenthieunhan.wordpress.com/2010/04/26/thang-t%c6%b0-den-t%e1%bb%b1-thu-c%e1%bb%a7a-m%e1%bb%99t-tu-binh
Đăng ngày Thứ Hai,
January 29, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang