Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Hồi
ký Chiến trường
Chủ đề:
Giang Lực HQVNCH & Trận BA RÀI
Tác giả:
Phan Lạc Tiếp
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trong
suốt hơn 20 năm hoạt động cuả HQVNCH, các chiến hạm cũng như các
chiến đĩnh, dù do Pháp giao lại, hay sau này do Mỹ chuyển giao, đều
do Mỹ sản xuất. Chỉ riêng chiếc Scan/Fom, tiếng Việt gọi là Tuần
Giang Đĩnh, là do Pháp đóng. Ðây là một chiến đĩnh có nhiều đặc tính
và tỏ ra rất công hiệu trong việc tuần tiễu trên sông rạch vùng Cửu
Long Giang. Việt Cộng đã nhiều phen kinh hãi trước sự xuất hiện cuả
loại chiến đĩnh này. Trong sinh hoạt cuả các giang đoàn, chiến đĩnh
này được gọi tắt là Fom. Hỏi tại sao lại gọi như thế, nhiều người đã
trả lời, vì khi chạy máy tầu nổ rất ròn kêu “fom, fom”. Nghe cũng có
lý. Nhưng đúng tên cuả nó là do chữ Scan/Fom (Service Technique des
Constructions et Armes Navals Frances Outre–Mer). Một loại tầu được
đóng để Hải Quân Pháp hoạt động ngoài nước Pháp, đặc biệt cho Ðông
Dương. Chiến đĩnh này dài 36 bộ, rộng độ 7 bộ, mũi nhọn, đáy tầu
cũng nhọn, chạy nhanh xé nước tạo thành một vùng trũng khiến cho
toàn thân tầu gần như thấp hơn mặt nước, tránh được các loại súng
lớn từ bờ muốn bắn vào phần thân tầu. Cũng vì mũi nhọn, đáy nhọn,
khi bị thủy lôi, sức công phá cuả thủy lôi tạt qua một bên, (khác
hẳn với các loại chiến đĩnh đáy bằng, khi bị thủy lôi là cầm chắc
đáy tầu bị phá). Loại Fom này, được trang bị một đại liên 12.7ly tại
mũi, với dàn pháo tháp bằng thép bao quanh, đại liên này có tầm hoạt
động mạnh, xa tới 5 cây số, và vòng hoạt động 220⁰ về phía trước và
hai bên. Trên nóc tầu có 2 đại liên 30, và sau lái 1 đại liên 30
nữa, chưa kể các loại súng nhỏ như M16, M79. Thường mỗi chiếc chỉ có
4 nhân viên. Tầu bao giờ cũng đi hai chiếc, do một hạ sĩ quan làm
thuyền trưởng trông nom cả cặp tầu. Sự lanh lẹ, gọn nhẹ cuả chiếc
Fom được ví như “con ngựa Xích Thố cuả Giang Lực”.
Ðể có một cái nhìn sống động hơn về hoạt
động cuả chiến đĩnh này, xin theo dõi bài bút ký viết về những kỷ
niệm, những nguy nan cuả các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam một thời
vùng vẫy trong khu chiến Tiền Giang, qua trận đánh tại Ba Rài.
Ðường Ði Khu Chiến
Tôi bị ra Hội Ðồng Kỷ Luật trong một
trường hợp thật ngộ nghĩnh, và bị đưa đi đơn vị tác chiến: Giang
Ðoàn 21 Xung Phong, khu chiến Tiền Giang.
Mới tới đơn vị, tin tức các nơi liên hệ
đến các cuộc đụng độ giữa các đơn vị Việt Cộng và các tầu tuần tiễu
mỗi lúc một tăng. Sự thương vong mỗi lúc một lớn. Quả thật là tôi có
“rét” thật. “Rét” nên tôi cố gắng tìm hiểu, học hỏi các kinh nghiệm
cuả các bạn sĩ quan cùng khóa tại đơn vị, và nhất là các kinh nghiệm
cuả các anh em đoàn viên đã lặn lội nhiều năm tại vùng sông nước
nguy hiểm này. Lúc ấy, năm 1965, anh Nguyễn Ðức Bổng, khóa 10, trên
tôi một khóa, làm duyên Ðoàn trưởng Duyên Ðoàn 33 bị nội tuyến, địch
giả dân đánh cá làm quen với đơn vị, rồi giữa trưa làm lễ cúng Hà
Bá, mời cả Duyên Ðoàn dự tiệc, rồi đùng một cái họ nổ súng, bắn chết
khá đông. Anh Bổng ở trên ghe chủ lực, cũng bị bắn chết. Tràng đạn
xuyên nát ngực. Khi chúng tôi đến lấy xác anh, trời đã chiều. Con
rạch Sọ Dừa, cái tên oan trái, là nơi xác anh nằm vắt vẻo bên sàn
ghe. Xác anh Bổng xám ngắt và tóp lại như một đứa trẻ, vì máu ra quá
nhiều. Xác anh nằm ở sàn tầu, phủ bằng một tấm chăn dạ lính. Máu từ
thân thể anh vẫn tiếp tục chảy dài xuống sàn tầu và bò ngoằn ngoèo
ra mé cửa sổ chiến đĩnh. Hỏa châu từ nơi nào đó bắn lên dọi sáng một
vùng trời. Tôi lại nghe anh sắp sửa lấy vợ nữa. Tôi thương anh và
càng thấy sợ. Tôi thì vừa lấy vợ. Hai vợ chồng hai nơi, Sài Gòn và
Mỹ Tho... Tôi thương vợ tôi lắm, nên nhủ lòng: “Phải cẩn thận tối
đa.”
Lúc rỗi, tôi
lên Phòng Hành Quân theo dõi bản đồ Trận Liệt, ghi các vùng nguy
hiểm vào sổ tay. Nhìn cho kỹ địa thế. Ðọc thật kỹ ký hiệu nơi có
rừng cây, nơi có dừa nước. Các nơi đã từng đụng độ. Và tôi nhận ra
rằng, đa số các nơi diễn ra cuộc đụng độ mà phần thiệt hại về ta, là
các khúc sông hẹp, uốn khúc. Ðịch nấp trong hầm bắn ra. Ta hỏa lực
hùng hậu, tầm đạn xa, lại có cả loại đạn công phá, nổ khi chạm vật
cứng như sắt, thân cây lúc này trở nên ít hữu hiệu. Và thời điểm các
cuộc đụng độ, đa số vào khoảng 4, 5 giờ chiều. Giờ mà theo thói
quen, quân ta đã lo sửa soạn ra về, máy bay khi cần khó gọi, có đến
cũng khó can thiệp. Giờ cuả địch, như thế kể như từ 4, 5 giờ chiều
cho đến 4, 5 giờ sáng.
Còn các cuộc bắn tầu, như kinh nghiệm các
bạn kể lại, thường là vào ban đêm. Lúc ấy, nếu tinh ý, ta sẽ thấy
“sao mà đất trời lạnh ngắt”. Lạnh ngắt vì khi bờ sông có người phục
kích, chim muông không dám xà xuống đậu. Có xà xuống thấy người lại
chới với bay lên. Vì thế cảnh vật bỗng trở nên vắng lặng, rờn rợn.
Lúc ấy, nếu thấy một ngọn đèn thắp lấp lánh bên bờ sông, ta có nhiều
phần chắc đó là ngọn–đèn–nhắm. Việt Cộng thắp ngọn đèn bên kia sông,
chúng nằm bên này sông, trời tối càng tốt. Khi tầu lướt trên mặt
sông, án ngữ tầm nhìn cuả ngọn–đèn–nhắm là bên này sông, chúng đã
gờm súng sẵn, cứ việc bấm cò. Chắc như bắp. Chỉ trừ khi tên xạ thủ
run tay, chậm trễ, đạn mới vượt qua sau lái.
Lúc như thế, ta mới thấy chiếc Fom hữu
hiệu như thế nào. Fom, như trên đã viết, chạy nhanh, có bị bắn, đạn
đi trên tầm nước, khó chìm. Thấy đèn nhấp nháy khả nghi, Fom, loại
tầu đi trước và đi sát mé sông, xả tốc độ, quay 90⁰, bỏ đèn nhắm cuả
địch sau lái, lấy đại liên 12.7ly bắn như mưa vào bờ đối diện. Ðâm
thẳng vào. Ðạn đan kín trời tràn ngập nơi địch trú ẩn. Tới gần, hai
đại liên 30 trên nóc tầu xả đạn quanh điểm khả nghi. Ðồng thời dùng
M79 bắn vào. Ðạn nổ bùng. Việt Cộng bạo thì nằm dí đó, ăn đạn nát
thây. Vụt chạy thì khó tránh được rừng đạn 12.7ly và đại liên 30 bắn
đuổi theo như mưa bấc.
Ðức Râu, kẻ tử thù cuả Việt Cộng
Người cho tôi kinh nghiệm về chiến thuật
phản xạ này là Trung sĩ I Lê Phước Ðức, tục gọi là Ðức Râu. Anh thâm
niên quân vụ khá bộn, đâu như xuất thân từ khóa 1, khóa 2 Ðoàn Viên,
ngành Thủy Chiến Binh (Fusilier), do Pháp huấn luyện. Bạn bè anh đã
có người có đai vàng trên mũ. Anh vẫn chỉ có ba chữ V trên vai áo.
Anh người Nam, to con, mặt hơi rỗ, râu hàm xanh ngắt. Lúc nhàn rỗi,
anh ngồi lầm lì trên tầu, bên cạnh là một thùng bia Quân Tiếp Vụ,
uống tì tì, mặt đỏ râu dựng, không nói một câu. Ít ai biết về gia
cảnh anh. Lúc nhàn rỗi đã thế, khi đụng trận, vừa ngồi trên nóc tầu,
hai chân thòng xuống bánh lái. Một tay bấm cò đại liên 30, một tay
cầm ống liên hợp điều động chiếc Fom bạn, ủi đầu vào nơi địch vừa
khai hỏa. Những lúc như thế, trời chiều đã gần tắt, mây đỏ đầy trời.
Anh lẫm liệt lao vào lửa đạn, uy dũng lừng lững, như Quan Vân Trường
với thanh Long Ðao trên mình con ngựa Xích Thố. Lúc ấy, đoàn tầu cứ
việc nhẹ nhàng tiến, và lặng lẽ theo dõi cặp Fom cuả anh làm cỏ hai
bên bờ.
Có lúc
tôi đã hỏi anh: “Sao cứ ở đây hoài, đi tầu biển cho nó thay đổi cuộc
sống chăng”, anh tợp một hơi bia và nói: “Ông thầy! Mấy thằng
fusilier (chiến binh) đi tầu là loại lính–mỡ.” Tôi phân vân hỏi:
“Lính mỡ là...?” Anh đáp: “Mang tiếng là chiến binh mà đi tầu biển
chỉ có việc lấy mỡ xoa vào nòng súng cho khỏi sét, chứ lính gì tụi
nó...” Anh ví von đến là hay, tuy có phần hơi cường điệu... Trong
đơn vị, anh là người có nhiều huy chương nhất, anh chỉ đeo có nhành
dương liễu mà thôi. Các ngôi sao vàng, sao bạc, anh bảo “đồ ăn giỗ
đó mà ông thầy...” Trong các cuộc hành quân tuần tiễu, có khi chỉ có
một chiếc soái đĩnh, hai Quân Vận Đĩnh và hai chiếc Fom, biệt phái
cho một vùng nào đó. Toán đi như thế, sĩ quan nào cũng muốn có cặp
Fom cuả anh Ðức. Bạn tôi, Trần Hữu Khánh, tay trì cuả Giang Ðoàn
nói: “Có Ðức đi theo mình yên trí lắm. Có đụng mới thấy ngựa hay...”
Tôi ở Giang Ðoàn có mấy tháng, đã thấy mấy lần đụng độ. Ðức lúc nào
cũng được nhắc đến, với các chiến lợi phẩm. Khi thì mấy khẩu CKC, Bá
Ðỏ... Chiến công lặt vặt ấy, anh bảo: “Thôi để cho mấy đứa em. Dù nó
có ở khẩu 30 sau lái, cũng là đụng trận chứ. Cho nó có chút xanh,
chút đỏ cho vui. Tôi đeo đủ rồi.”
Vào giữa năm 1965, một buổi trưa, một đoàn
tầu đi tuần trên kinh Chợ Gạo. Con kinh huyết mạch để đoàn ghe gạo,
cá từ Vùng IV về Sài Gòn qua đó. Kinh Chợ Gạo, vòng đai an toàn cho
Mỹ Tho, Bình Phục Nhất, nơi mà “mình vừa đi qua, là tụi nó ló mặt ra
liền”, chính nơi này, Ðức Râu và cặp Fom cuả anh đã làm Việt Cộng
điên đảo. Vì là tầu nhỏ, một tầu tiến vào lạch, kéo theo chiếc Fom
khác quay mũi trở ra. Như thế lạch hẹp, tầu phải vừa đi vừa vén lau
mà lủi, không thể xoay sở, chẳng thể quay đầu. Vì thế Việt Cộng tin
là “lạch hẹp, bố bảo tụi tầu cũng không dám vào đây”. Vậy mà Ðức Râu
bảo: “Ông thầy cứ nằm ngoài kinh. Ðể tôi vào.” Vào sâu nằm đó, khi ở
ngoài kinh đoàn tầu đã đi. Trong lạch um tùm, hai chiếc Fom nằm im
khe. Tụi Việt Cộng ló ra, chèo ghe đi lại. Cho thật chắc, để chúng
xuất hiện đông, là Fom khai hỏa. Chúng chạy đâu cho thoát. Lúc ấy
chiếc Fom buộc sau chiếc Fom đi đầu, mở máy chạy, kéo theo chiếc thứ
nhất trở ra kinh lớn... Sự gan dạ và thông minh ấy cuả Ðức, Ðức Râu,
đã làm địch khiếp vía. Bao nhiêu xác địch đã bị bỏ lại trên bờ kinh.
Bao nhiêu gạo, muối, đồ tiếp liệu cuả địch đã tịch thu được, một
phần không nhỏ là do Ðức với cặp Fom đem về
cuả Ðức HQ 5001, HQ 5002 gọi về, giữa
trưa: “Tôi bị bắn, lạ lắm. Lửa phát ra xanh lè. Ðạn xuyên từ bên
trái tầu, qua luôn thành bên phải, ghim vào bờ kinh nổ bùng. Chúng
bắn xong lủi rất nhanh vào khúc quẹo...” Cả Giang Ðoàn bàn tán. Các
chi tiết ấy đã được sĩ quan Ban 2 ghi lại, gửi về Bộ Tổng Tham Mưu.
Sau này mới hay đó là loại súng mới rất lợi hại cuả địch: B40. Và
cũng từ đó, thay vì chỉ là súng ngựa trời, CKC, Bá Ðỏ, Việt Cộng có
loại AK47, nhẹ, bắn liên thanh. Cũng từ lúc ấy, tin đồn Việt Cộng
treo giải, ai giết được Ðức Râu sẽ được thưởng 200 ngàn đồng, số
tiền tương đương với nhiều lạng vàng. Một gia sản lớn. Nghe thế, đọc
các truyền đơn ấy, Ðức Râu chỉ cười. Ngồi thừ trên mũi Fom, uống
rượu tì tì.
Ở lâu
quá một con tầu không nên, cần phải thuyên chuyển qua tầu khác để có
kinh nghiệm mới, và cũng là dịp cho nhân viên khác lên thay, để có
cơ hội học hỏi thêm. Ðức Râu được lên làm thuyền trưởng chiếc Tiền
Phong Đĩnh (Monitor combat), HQ 6001.
Tiền Phong Đĩnh còn gọi là Thiết Giáp
Đĩnh, là loại chiến đĩnh được trang bị hùng hậu nhất trong các chiến
đĩnh hoạt động trên sông, dài 60 bộ, rộng 17 bộ. Trước mũi là đại
bác 40ly, pháo tháp dày. Ở giữa chiến đĩnh có một súng cối 81ly, hai
đại liên 12ly và hai đại liên 30, và nhiều súng nhỏ, kể cả súng
phóng lựu M79. Hai máy dầu cặn, hai chân vịt nên xoay sở dễ dàng,
tốc độ 8 gút. Nhân viên cơ hữu độ mười người. Khi cuộc hành quân quy
mô, thường có các sĩ quan trưởng toán hiện diện tại đây. Ðức Râu
được biết “phải” rời cặp Fom cuả anh để lên làm thuyền trưởng chiếc
Tiền Phong Đĩnh HQ 6001. Anh không muốn lên, vì như nhiều người
biết, ở đây gần mặt trời, lại là chiến đĩnh lớn, khó tung hoành.
Nhưng anh không thể từ chối. Vì thâm niên công vụ, anh sẽ đeo lon
thượng sĩ nay mai, không thể ở mãi trên tầu nhỏ được.
Làm quen với chiến đĩnh này, cũng không
khó đối với anh. Với tướng mạo hùng dũng ấy, các tay đàn em sợ một
phép.
Trận Ba Rài
29/9/1965
Giang
kể:
“Cuộc hành
quân dựa theo tin tình báo cuả SÐ7BB theo đó Trung Ðoàn chính quy BV
có trang bị vũ khí nặng đã có mặt trong vùng. SÐ7BB đã mở cuộc hành
quân bao vây trước đó một ngày, lực lượng gồm nhiều Tiểu Ðoàn TQLC
và Bộ Binh SÐ7. Lực lượng này đã bị cầm chân và không rút được, phi
cơ cũng không can thiệp được vì rừng cây dầy đặc. Phía ngoài, tại
cửa sông lớn đi vào, địch đã để một thành phần súng lớn để diệt tầu
Hải Quân (sau này, khi đụng độ mới biết, vì chúng ngụy trang và bất
động).
Do đó
SÐ7BB yêu cầu Hải Quân mở cuộc hành quân phối hợp thăm dò tiếp theo
để có thể can thiệp cho kế hoạch: Rút quân và để phi cơ oanh tạc.
Giang Ðoàn 21 Xung Phong và 27 Xung Phong
do HQ Ðại úy Trần Văn Triết chỉ huy, mở cuộc hành quân thay cho HQ
Thiếu tá Huỳnh Huy Thiệp, đi họp ở Cần Thơ. Ðoàn tầu đi tới vùng
hành quân khoảng 2 giờ chiều. Tất cả nằm ngoài sông lớn. Riêng toán
cuả tôi gồm Monitor Combat 6001 và hai Fom 5001–5002 được chỉ định
đi vào kinh nhỏ bắt liên lạc với bộ binh. Toán cuả tôi chỉ huy gồm
thuyền trưởng Nguyễn Văn Ðức (Râu) và Trung sĩ Sụn (Fom). Chúng tôi
đã tiến sâu vào trong kinh và bắt liên lạc trực tiếp với lực lượng
trên bờ tại xã Xuân Sơn. Tôi báo cáo ra ngoài cho Ðại úy Triết biết.
Ðại úy Triết bèn cho một Monitor Command với hai RPC hộ tống đi vào,
và toán cuả tôi tiến ra yểm trợ. Tất cả đều yên lặng, không có cuộc
chạm súng nào, nhưng không khí căng thẳng, vì với kinh nghiệm cho
biết, tôi đoán, địch sẽ đánh. Lúc trở ra. Thông thường, bất cứ cuộc
hành quân vào sông rạch nào lúc vào không nguy hiểm bằng lúc trở ra;
do đó thường tránh đi về cùng một đường. Nhưng trường hợp này không
áp dụng được vì độc đạo.
Khi quay trở ra, tiếp tay được với toán
Ðại úy Triết, tôi nằm lại giữ an ninh thủy trình, và Ðại úy Triết
cho 3 giang đĩnh tiến sâu vào tiếp giáp với bộ binh trên bờ. Khi Hải
Quân gặp Bộ Binh, địch không kềm chân Bộ Binh nữa vì sợ Hải Quân
phản công.
Vì
thủy trình quá dài, nên toán tôi giữ an ninh khúc giữa Ðại úy Triết
cho monitor combat 6007 cuả Trung úy Bảo vào giữ an ninh khúc ngoài.
Khoảng 4 giờ chiều, một phi cơ quan sát
cho biết một tầu Hải Quân bị cháy phía ngoài đầu kinh. Ðại úy Triết
liên lạc với Trung úy Bảo không được và chỉ thị toán cuả tôi ra tiếp
cứu. Khi gần tới tầu Trung úy Bảo thì tôi bị tấn công bằng đủ mọi
loại súng nặng. Chiếc monitor combat HQ 6007 cuả Trung úy Bảo là mục
tiêu đầu tiên cho địch khai hỏa. Bảo bị thương nặng. Tầu bốc cháy và
chìm. Tôi cho lệnh 3 chiến đĩnh ủi thẳng vô bờ phản công. Ðịch đã
xuất hiện với quân phục ka–ki vàng, nón cối rất đông. Chúng mở cuộc
tấn công với mục đích cướp tầu, nhưng chúng không thể nào tiến tới
gần tầu được.
Cuộc giao tranh rất khốc liệt. Toán giang đĩnh cuả Ðại úy Triết tiến
trở ra bị ngay mấy du kích hai bên bờ bắn tỉa làm Thiếu úy Hiền và
Ðại úy David tử thương. Ðại úy Triết bèn ra lệnh cho tất cả rút ra
ngoài sông lớn nhưng toán cuả tôi vẫn nằm lì ở lại, vì đang đối đầu
quyết liệt với địch. Chúng tôi đã tận dụng hỏa lực 40ly, 20ly, đại
liên 50, 30, FM Bar. Ðịch quân không thể tiến lên được và chúng gục
xuống sau những tiếng hô đồng nhất ‘xung phong’.
Khẩu đại liên 30 bên trái ngưng nhả đạn,
tôi quay qua sờ thấy đầu Trung sĩ Ðức gục xuống, anh đã hy sinh. Tôi
được lệnh Ðại úy Triết phải rút ra ngoài. Tôi báo cáo tình hình và
cho biết tầu tôi bị trúng rất nhiều đạn súng lớn, trong đó có bị một
lỗ lớn, nếu rút ra sẽ bị chìm. Về nhân viên, có Trung sĩ Ðức hy
sinh, Trung sĩ Thức thuyền phó monitor bị thương nặng ở chân. Một
phóng viên AP bị một viên đạn vô ngực, ông ta rất tỉnh, nhưng báo sự
nguy hiểm sẽ đến với ông ta. Vài phút sau khi gặp thì ông ta cũng ra
đi. Số còn lại tất cả đều bị thương, nhưng vẫn còn chiến đấu hữu
hiệu. Chúng tôi phải tận lực mới đẩy lui được những đợt tấn công
cướp tầu cuả địch.
Khoảng 11 giờ đêm, tiếng súng thưa dần.
Tôi yêu cầu Ðại úy Triết cho vô tiếp cứu, nhưng vô hiệu.
Nằm lại một mình cho đến khi im tiếng
súng, chúng tôi 9 thầy trò đã chuẩn bị tất cả vũ khí cá nhân, lựu
đạn để nếu tàu bị chìm, không ở lại tàu được thì sáng hôm sau sẽ tìm
đường bộ về Cái Bè. Nhưng nhờ trước đó chúng tôi đã cho cột dây an
toàn từ bít sau lái lên gốc cây trên bờ, nên tàu không bị vô nước,
nhờ đó mới kèm kéo về an toàn...”
* * * * *
Con
rạch Ba Rài bắt nguồn từ Quận Lỵ Cái Bè dài trên 10 cây số, chảy ra
sông Cửa Tiểu theo hướng Bắc Nam. Lòng rạch hẹp, nơi rộng nhất ở ngã
ba Ba Rài–Cửa Tiểu, hai bên bờ rạch không quá 100 mét. Con rạch cắt
một góc chéo 25⁰ rồi uốn khúc, tạo thành một doi đất, bề ngang doi
đất không quá 600 mét. Vì thế từ cửa rạch không thể nhìn thấy phía
trong. Hai bên bờ cây rậm rạp, những hàng dừa đứng chen nhau như
thành. Suốt cả chiều dài cuả bờ rạch như thế, nên cuộc đụng độ giữa
một đơn vị chủ lực Việt Cộng với các đơn vị cuả Sư đoàn 7 Bộ Binh,
có cả Thủy Quân Lục Chiến từ mấy ngày qua. Hai bên cứ cầm chân nhau,
không bên nào tiến lui được. Hai bên đều nhìn thấy nhau, chỉ cách
mấy hàng dừa. Quá gần cho nên không thể gọi pháo binh tác xa. Quá
rậm nên không có chỗ để trực thăng đổ quân tiếp viện. Vì thế, Sư
Ðoàn 7 Bộ Binh đã trông cậy vào Hải Quân: Giang Ðoàn 21 và 27 Xung
Phong. Giang Ðoàn 21 là một đơn vị kỳ cựu, nhân viên và sông nước
quen nhau, và cả địch lẫn ta quần nhau cũng lắm. Riêng Giang Ðoàn 27
Xung Phong vừa mới thành lập, dưới quyền chỉ huy cuả Hải Quân Ðại úy
Trần Văn Triết, một sĩ quan mới từ đơn vị biển đổi về sông. Sau mấy
tháng huấn luyện, đây là lần đầu tiên Giang Ðoàn 27 Xung Phong đem
toàn lực ra quân, với tất cả các chiến đĩnh cuả Giang Ðoàn 21 Xung
Phong.
Nhiệm vụ
cuả cuộc hành quân này là Hải Quân tiến vào rạch Ba Rài, hỗ trợ cho
các đơn vị Bộ Binh rút từ Xã Xuân Sơn, phía Ðông rạch Ba Rài sang
bên kia rạch. Hải Quân, cả hai Giang Ðoàn đã tiến vào. Dưới hỏa lực
hùng hậu cuả các giang đĩnh, Việt Cộng đã án binh bất động. Ðơn vị
bạn đã rút an toàn, và dùng tầu Hải Quân băng qua bên kia bờ. Tất cả
đã diễn ra êm ả, từ 2 giờ cho đến 4 giờ chiều. Ðoàn tầu bắt đầu rút,
nước đã xuống. Tàn cây che phủ lòng sông, tối, lạnh. Việt Cộng đã
phục sẵn tại doi đất gần cửa rạch và bắt đầu tấn công vào đoàn tầu
cuả ta. Ðây là một cuộc thử lửa khốc liệt giữa một đơn vị chủ lực
cuả Việt Cộng và hai Giang Ðoàn được coi là tinh nhuệ cuả ta.
Dù trận chiến đã diễn ra trên 30 năm,
nhưng may mắn thay, các nhân sự nòng cốt cuả cuộc thử lửa này, hiện
ở Mỹ còn nhớ được, và đã thuật lại qua các câu trả lời trên giấy
hoặc qua các cuộc điện đàm mới đây. Ðó là anh Nguyễn Ngọc Giang lúc
ấy là trung úy, lên lon tại mặt trận trình bày ở phần trên; và anh
Diệm, Ðặng Diệm, người lăn lộn với Giang Ðoàn 21 Xung Phong rất
nhiều năm.
Ðặng
Diệm kể:
“Như anh
biết, tôi cũng chẳng gan dạ gì, nhưng việc tới tay thì phải làm.
Vùng sông nước này tôi hoạt động khá lâu nên khá rõ. Lúc đoàn tầu bị
tấn công, tôi ở trên chiếc monitor command. Ðại úy Davis và Thiếu úy
Hoàng Hiền cũng ở trên tầu này. Hiền bị đạn, lăn lộn dữ lắm, mấy
người ôm anh ấy để tránh rớt xuống sông. Lúc đã rút ra ngoài sông
lớn, Ðại úy Triết đi Cái Bè họp với bên Bộ Binh. Trong Lúc ấy hệ
thống truyền tin vẫn mở, tiếng Giang báo cáo, kêu cứu, tất cả các
tầu đều nghe. Tôi kiểm chứng mật mã riêng với Giang. Giang trả lời
rất nhanh. Tôi gọi 4, Giang đáp lại ngay 9, để 9+ là 13. Con số 13
chỉ có hai đứa tôi biết mà thôi. Tôi tin là Giang không bị địch áp
đảo. Giang tiếp tục kêu tiếp cứu gấp rút. Các thuyền trưởng họ cùng
mở máy nghe, họ nóng ruột quá. Chỉ huy Trưởng thì đã đi họp. Tôi bèn
lấy quyết định một mình vào cứu Giang, và yêu cầu ai tình nguyện thì
theo tôi. Phải nói là lúc đụng trận thì mình không sợ, mình phản ứng
tự nhiên. Giờ cuộc đụng độ đã tàn. Nhớ lại Lúc Ðại úy Davis ngã
xuống và Hoàng Hiền lăn lộn đầy máu, tôi cũng cảm thấy hãi chứ. Mà
chắc gì địch không phục ở cửa sông. Có thể là chỗ tầu Giang đã yên,
yên thật, hay yên giả. Nhưng làm sao khác được, tôi lấy một chiếc
command, 2 LCM và 2 chiếc fom trở lại rạch Ba Rài. Tôi nói với
Giang: ‘Khi nào nghe tiếng tầu tôi thì lấy đèn pin làm hiệu...’ Phải
nói là liều chứ anh, run lắm, sĩ quan chỉ có mình tôi. Con rạch tối
om, lạnh ngắt. Khi nghe Giang báo cáo: ‘Tôi đã nghe tiếng tầu,’ là
lúc tôi thấy ánh đèn pin lập lòe cuả Giang vẫy vẫy. Tôi cho hai
chiếc fom khai hỏa phía bờ đối diện. Tầu tôi cặp vào tầu Giang. Ðón
được Giang và các nhân viên trên chiếc combat qua tầu tôi, tất cả
chúng tôi đều bê bết máu. Tầu tôi lùi ra, để cho hai chiếc LCM cặp
vào chiếc combat kéo về. Lúc trở ra. Trời đã khuya lắm, có lẽ đã quá
nửa đêm. Vừa đi vừa bắn. Về đến cửa Mỹ Tho, như anh biết là 4 giờ
sáng. May mà không có sự gì xảy ra, nếu tụi nó phục sẵn, mình làm
sao mà không bị thiệt hại. Lúc ấy thật khó nói...”
* * * * *
Trong khi cả hai
giang đoàn hầu như dốc toàn lực cho cuộc hành quân này, thì riêng
tôi được phân nhiệm đem một chiếc LCM và hai LCVP, chở theo một
trung đội bộ binh, đổ bộ bên tả ngạn sông Tiền Giang, đối diện với
vùng hành quân trên để nghi binh. Tôi còn được chỉ thị kỹ chỉ cần đổ
quân gần bờ, bắn cho có tiếng súng, đừng vào sâu, và phải rút về lúc
quá trưa, để còn liên lạc với bên Tiểu Khu lo việc làm lễ gắn huy
chương cho vị cố vấn tiền nhiệm, và cũng là lễ giới thiệu Ðại úy
Davis, tân cố vấn. Như đã dự trù, tôi đem mấy chiếc tầu về đến căn
cứ lúc 2 giờ, nằm ngủ một lát để lát nữa qua Tiểu Khu mượn ban nhạc,
thì anh Trung sĩ Vô Tuyến gõ cửa, tôi bảo “vào đi”. Anh ta nói, mặt
xám ngắt:
–Ông
thầy xuống Phòng Vô Tuyến đi. Tôi chạy xuống ngay, đóng cửa lại, và
mở cả hai hệ thống truyền tin. Tiếng súng vọng lại từ mặt trận dội
về xen lẫn các cuộc đối thoại giữa các chiến đĩnh trên hệ thống chỉ
huy. Có Lúc tiếng nổ dội về, và hệ thống âm thoại tắt... Ðúng là
đụng to rồi. Tôi ra lệnh cho đóng cổng trại, cấm trại 100%, để sẵn
sàng nhận lệnh từ mặt trận gọi về. Tất cả đã diễn tiến như anh Giang
đã tả.
Khi tiếng
anh Diệm êm ả gọi, cho hay: “Tụi này sẽ về đến căn cứ độ 40 phút
nữa. Sẵn sàng xe cứu thương và y tá...”
Tôi khoác áo ấm đeo súng Colt và đèn pin
đứng đợi tại cầu tầu cùng với xe cứu thuơng và cáng. Ðoàn tầu đã
nhìn thấy lấp lánh tiến về từ từ cặp vào cầu tầu. Diệm bước lên đầu
tiên, dìu Giang theo. Dưới ánh đèn vàng, chỉ thấy toàn người Giang
đầy máu. Giang vẫn đi lại được. Tất cả nhân viên trên chiếc Tiền
Phong Đĩnh cuả Giang lên ngồi kín chiếc xe Hồng Thập Tự. Sau đó, một
xe khác chở cái băng ca, xác cuả Ðức Râu vàng khè và toàn thân sũng
máu... Tất cả lặng lẽ di chuyển qua Bệnh Viện Dã Chiến. Các nhân
viên còn lại, kể cả dưới tầu, trên căn cứ xúm lại lấy ống bơm xịt,
rửa chiếc tầu vừa từ mặt trận về. Trời sáng dần, mặt sông đã óng ánh
bóng nắng, và cũng là Lúc tôi nhận thấy nước từ trên chiến đĩnh chảy
xuống vẫn đẫm đẫm máu đỏ.
Trời sáng hẳn, cả cầu tầu đã trở lại êm ả,
sạch sẽ như thường lệ.
Tổng Kết Trận Ba Rài
Ðược chỉ huy bởi một vị sĩ quan vừa từ
biển đổi về sông, kinh nghiệm chiến trận kể như còn “lỏng tay”, đây
là một cuộc tranh hùng khốc liệt. Dù địch đã chuẩn bị sẵn chiến
trường, có đủ yếu tố bất ngờ, và giờ giấc thuận tiện: Lúc 4 giờ
chiều, giờ cuả họ, nước thấp, chúng ở trên cao bắn xuống. Nhưng ta
đã “đáp ứng” ngon lành. Không ai có con số chính xác về tổn thất cuả
địch, nhưng xác địch nổi trên mặt sông nhiều gấp 3,4 lần bên xác cuả
ta, đó là chưa kể số thương vong trên bờ mà địch đã vội vã mang đi
chắc cũng không dưới 100, vì 57 súng đủ loại để lại là một chứng
minh cụ thể. Bên ta tuy có một tầu chìm, số thương vong chưa quá 20.
Và vũ khí được bảo toàn.
Tại đơn vị, những phái đoàn lên xuống tấp
nập. Ðầu tiên là các cô nữ xã hội cuả Thiếu úy Sa. Các cô đem dầu
gió, vải trắng làm khăn tang... Lần lượt là thân nhân cuả nhân viên
đơn vị. Tất cả ngồi chật ních, rũ rượi ở Câu Lạc Bộ. Hải Quân Ðại tá
Trần Văn Chơn, Tư Lệnh Hải Quân cũng có xuống. Ông xuống thăm chiếc
monitor combat HQ 6001. Ông nhìn lỗ thủng do đạn địch bắn vào, ông
xòe bàn tay che chưa kín lỗ đạn, và nói với Giang: “Có bàn tay trời
che chở cho anh...”
Trong lúc ấy tại khúc sông con rạch Ba
rài, Bộ Binh đóng đầy. Những đám khói hương cắm dọc theo mé sông,
những vũng máu đen đặc, tanh nồng. Vũ khí địch bỏ lại tất cả là 57
khẩu đủ loại. Dưới nước, tầu cuả mình ủi bãi. Nước vẫn lên xuống
điều hòa. Lâu lâu từ dưới đáy sông lại trồi lên một xác. Tầu mình
ghé lại lật xác lên nhận diện. Bạn thì vớt lên, lấy mền đắp lại.
Ðịch thì đẩy ra cho trôi theo dòng nước. Mấy ngày sau, xác Bảo mới
nổi lên. Trước khi nổi có một đám bọt xủi, rồi một cánh tay nhô lên
trước. Tay phải. Bàn tay còn cầm cái bút nguyên tử mầu vàng... Bây
giờ sau hơn 30 năm đã qua, tôi chẳng còn nhớ được kỹ. Chỉ biết chắc
là Trung sĩ Thinh từ nhà xác về, đem theo các thẻ bài là tôi ký giấy
khai tử cho các người chết, kèm theo các thủ tục xin quan tài kẽm và
lệnh di chuyển cho các quân nhân tháp tùng.
* * * * *
Một
buổi trưa ngày nghỉ, tôi trực nhật, ngồi từ trên lầu phòng ngủ sĩ
quan, nhìn qua bên kia Cù Lao Rồng. những mái nhà xen giữa mấy
lùm cây. Trẻ con nô đuà dưới mé nước. Lấy ông nhòm nhìn kỹ vào
phiá trong, có những ông già ngồi trước hiên nhà đang lặng lẽ
uống rượu. Ðàn vịt, đàn gà chạy loanh quanh. Mấy bà già và các cô
gái đun nấu gần đó. Cảnh trí êm ả, thanh bình. Nhưng tôi nghĩ:
“Rất có thể các ông già kia là các mật báo viên cuả phiá bên kia.
Ðịch lăn lộn, trà trộn với dân thật là xảo quyệt.”
Tôi đảo ống nhòm về phiá cầu tầu. Một
đoàn chiến đĩnh nằm như ngủ. Riêng chiếc Tiền Phong Đĩnh HQ 6001,
tầu cũ cuả Ðức Râu, có mấy người lính đi lại. Tôi theo dõi, và
tôi thấy họ xếp một điã đồ nhậu ra sàn tầu, một thùng bia Quân
Tiếp Vụ. Tôi nghĩ: “Lại nhậu cho đỡ buồn đây...” Nhưng không phải
thế. Mấy nhân viên ăn mặc đàng hoàng, ngồi sau các thứ họ vừa bày
ra, rồi bật diêm, đốt nhang, cắm vào một ly gạo. họ đang làm lễ,
và tôi chợt nhớ, hôm nay 49 ngày cuả Ðức Râu rồi đây. Tôi muốn
xuống với họ, xong tôi nghĩ: “Thôi để họ tự nhiên.”
Cũng xung quanh thời gian ấy, một hôm
cụ bà, thân mẫu cuả anh Hoàng Hiền tìm tới đơn vị để nhận lại các
di vật cuả con. Cụ muốn lên căn phòng cũ, nơi HQ Thiếu úy Hoàng
Hiền đã ở. “Dạ, đây là giường nằm cuả anh ấy.” Cụ ngồi xuống mé
giường, lặng lẽ. Cụ xòe bàn tay gầy vuốt lên mặt nệm. Ðôi Lúc bàn
tay cụ dừng lại như lắng nghe, như tìm chút hơi ấm nào cuả con
còn sót lại. Cụ ngồi khá lâu rồi đứng lên. Cụ nói: “Nhà tôi cũng
bị chết vì Việt Cộng, giờ lại đến nó...” Cụ nói êm ả điều hòa như
chuyện cuả ai. Mảnh sân đơn vị nắng bỏng. Cụ bước đi thong thả.
Trên đầu cụ cuốn một mảnh khăn trắng dài, phủ xuống sau lưng.
Bóng cụ đổ trên nền sân, cụ nắm chặt cây kiếm Hải Quân cuả cậu
con trai trong lòng bàn tay nhăn nheo cuả cụ.
Bây giờ, đã cuối năm 1998, đọc cuốn
Vietnam, the Decisive Battles, (Những Trận Chiến Quyết Ðịnh tại
Việt Nam), Tác giả, ông John Pimlott, có nói đến trận Ba Rài. Tôi
đọc kỹ, đây là một trận đánh khác, nhưng cũng xảy ra tại nơi
trên, nhưng thời gian trận sau diễn ra vào ngày 15 tháng 9 năm
1967, trước hai tuần lễ đầy hai năm sau trận mà hai Giang Ðoàn 21
và 27 Xung Phong đã chạm địch. Trong trận sau, các chiến đĩnh cuả
Hoa Kỳ, loại mới, tối tân hơn (ATC), đã đụng với Tiểu Ðoàn 263 D
cuả Việt Cộng. Phải chăng đơn vị này cuả địch đã đụng với Hải
Quân Việt Nam trước đó. Trận sau, dù địch có yếu tố tình cờ và
địa thế đã chọn sẵn, địch cũng đã để lại 79 xác chết.
Một sự trùng hợp nữa rất lạ lùng, trận
29 tháng 9 năm 1965, Ðại úy Davis đã chết. Trận sau, cũng có một
sĩ quan Mỹ tham dự trận đánh, tên ông cũng là Davis (Wilbert).
Ông ta sống. Và nơi diễn ra trận đánh đã được Mỹ đặt cho một cái
tên ngộ nghĩnh là Snoopy’s Nose. Với tôi, tôi đồng ý với Giang
rằng, nếu trận năm 1965, vị chỉ huy Giang Ðoàn 21 Xung Phong, HQ
Thiếu tá Huỳnh Duy Thiệp có mặt, tình thế chắc sẽ khác hẳn. Và,
Ðức Râu, vẫn dong duổi bén nhậy trên cặp Fom, con ngựa Xích Thố
cuả Giang Lực, Việt Cộng khó có khả năng khai hỏa êm xuôi như
vậy. Chính trận này, lần đầu tiên chúng dùng B40 công phá đoàn
tầu.
Ðối Phương Ðã Nói Gì Về Trận Ba Rài
Trong tập tài liệu lưu hành nội bộ nhan
đề “Những Trận Ðánh cuả Lực Lượng Võ Trang Ðồng Bằng Sông Cửu
Long”, do nhà Xuất Bản Quân Ðội Nhân Dân, Hà Nội, năm 1997, trận
Ba Rài đã được viết lại tỉ mỉ, và chiếm một số lượng trang từ 104
đến 126, người viết đề tên Trung tá Nguyễn Thanh Sơn. Ðây là một
bài viết công phu, từ những nhận định địa hình, thời tiết, tình
hình lực lượng hai bên, tình hình dân chúng, những giả thuyết
trận liệt, rồi diễn tiến trận đánh và cuối cùng là kết quả và ý
nghĩa cuả trận này.
Từ đó ta biết rằng đơn vị đối đầu với
ta tại Ba Rài ngày 29 rạng 30 tháng 9 năm 1965, là tiểu đoàn 261.
Tiểu Ðoàn này đã được trang bị vũ khí nặng. Riêng “Ðại Ðội Bộ
Binh 1” cuả Việt cộng, có nhiệm vụ “chận đánh tầu địch trên sông
Ba Rài”, có 3 khẩu DKZ 57ly, 2 khẩu 12.7ly, và ba khẩu B40. Trận
đánh đã diễn ra ác liệt, phù hợp với những ghi nhận cuả phía HQVN
ta. Có điểm kết quả trận đánh thì chúng khoác lác rất lạ, Việt
Cộng viết nơi trang 119 rằng:
“Sau một ngày chiến đấu, ta đã tiêu
diệt 500 tên địch. Bắn cháy và chìm tại chỗ 5 tầu chiến (có một
tầu đầu hàng). Thu một cối 81ly, 1 súng 12.7ly, 2 đại liên, 8 cac
bin, 1 máy vô tuyến điện và nhiều quân trang quân dụng khác. Phá
hủy một DKZ 5ly, 1 súng 12.7ly. Bắn rơi 5 máy bay.
Ta hy sinh 18 đồng chí (có 3 cán bộ
trung đội). Bị thương 32 đồng chí. Bị phá hỏng 1 B40 và 4 súng
tiểu liên”.
Thưa anh Nguyễn Thanh Sơn, không biết
anh đã căn cứ vào đâu để có kết quả như trên. Nếu có thì giờ, anh
hãy lục lại loạt bài nhan đề “Ðoàn Tầu Ði Vào Cõi Chết Ðể Tìm Ra
Lối Sống”, đăng liên tục nhiều ngày khoảng đầu tháng mười năm
1965, trên nhật báo Tiền Tuyến, Sài Gòn, người viết đã ghi lại
đầy đủ chi tiết về phía Quân Lực Việt Nam [Cộng Hòa]. Có đầy đủ
các thiệt hại, và tên tuổi cuả người đã nằm xuống trong trận này.
Ðó là một trận đánh quả có gây xúc động tới các giới chức cao cấp
cuả chúng tôi, vì trận này sĩ quan Hải Quân chết nhiều nhất: Hai
người là Trần Ngọc Bảo và Hoàng Hiền. Phía Mỹ, Ðại úy Davis, vị
tân cố vấn vừa đáo nhậm, đây cũng là lần đầu tiên các anh đã sử
dụng B40 đánh phá đoàn tầu. Một loại vũ khí mới và rất công hiệu.
Và chúng tôi rất tiếc, “Con Ngựa Xích Thố cuả Giang Lực”, Trung
sĩ I Lê Phước Ðức, người mà phía các anh đã khiếp hãi, đã treo
giải “ai giết được Ðức Râu thì sẽ được trọng thưởng...” Ðó là nỗi
đau đớn, thiệt hại cuả chúng tôi. Quả các anh có bắn cháy và chìm
1 chiếc tầu, trên có Bảo, bạn tôi chỉ huy. Tầu chìm, rồi chúng
tôi lại vớt lên, kéo về. Một chiếc khác bị thiệt hại nặng, trên
đó có Giang điều động. Chiếc tầu đó có thủng, không chạy được,
nhưng đã không chìm. Phía các anh đã nhiều phen vừa hô “xung
phong” vừa ào lên định cướp tầu. Mỗi lần như thế, lại một lần
phía các anh gục xuống. Chỉ riêng với chiếc tầu này, khách quan
mà nói, con số 20 người chết về phía các anh, có lẽ là con số quá
nhỏ. Làm gì có chiếc tầu nào hàng các anh đâu? Trong khi đó, như
bài viết ở trang 113, các anh đã phải đối đầu với “7 tiểu đoàn bộ
binh, 8 khẩu 105 và 155ly trực tiếp chi viện. Trên sông có 12
chiếc tầu chiến. Ngoài ra còn có phi cơ các loại tập trung chi
viện cho cuộc hành quân càn quét này.”
Thưa anh Sơn, có thể các anh đã ước
định sai số quân bên phía chúng tôi. Xin hãy giả thử chỉ một nửa
quân số nói trên, họ lại là một loại binh chủng mà các anh kêu là
“ác ôn, lính thủy đánh bộ,” họ đâu có phải là hàng chuối ở vườn,
đứng im cho các anh tới hạ. Nếu quả các anh có một may mắn nào
đó, tiêu diệt được độ một trăm người, tôi nghĩ cũng đã là oanh
liệt lắm. Chiến công ấy do ai chỉ huy, ai là những “xạ thủ ngoan
cường” cuả các anh, sao không thấy các anh nhắc đến?
Những luận cứ vu vơ đó chỉ làm cho tập
tài liệu cuả các anh trở thành một trò cười, không còn một chút
khả tín nào nưã. Chỉ có “18 đồng chí hy sinh,” vậy thì 57 khẩu
súng đủ loại bỏ rải rác hai bên bờ sông Ba Rài là cuả ai. Các
vũng náu đen đặc, và những xác chết nổi lên không đếm được trên
sông Ba rài, các xác đều mặc quần áo ka–ki Nam Ðịnh, là xác chết
nào hở anh Sơn???
Thưa anh Sơn,
Khi cuộc chiến còn đang tiếp diễn, các
anh cần thổi phồng chiến công để tuyên truyền, chúng tôi đọc đến
nỗi phải phì cười nhưng vẫn còn thông cảm được. Nay cuộc chiến đã
tàn. Cả khối cộng sản đã vỡ. Các anh đã phải mở cửa để long trọng
đón kẻ thù cũ là “Ðế Quốc Mỹ” vào như một thượng khách. Sự thực
về cuộc chiến đã được từ từ phơi bày. Lẽ ra đây là lúc các anh
phải thật khách quan, tìm hiểu, đối chiếu tường tận để trả sự
thật cho sự thật. Ðó mới là thái độ trí thức cuả người viết sử.
Anh đã không làm thế. Các anh đã không làm thế. Riêng anh, anh
Sơn, anh viết bừa bãi, cẩu thả, đã đành. Trên anh còn có ông Phó
Tiến sĩ Phạm Gia Ðức, người chịu trách nhiệm xuất bản. Ông Ðức có
lẽ đã không thèm nhìn lại bài viết cuả anh. Hoặc có đọc mà không
có khả năng suy xét, nhận thức. Phải chăng ông ta là một ông tiến
sĩ giấy? Học vị càng cao chỉ càng làm cho trò cười thêm lớn. Tuy
nhiên nói đi cũng phải nói lại, chính sự ngộ nghĩnh nghịch lý nói
trên đã giúp phía chúng tôi ít phải mất thì giờ so sánh, biện
bạch. Và bên cạnh đó, anh Sơn còn dẫn một câu (mà không nêu rõ
danh tánh) rằng: “Trận đánh này chỉ huy tiểu đoàn bộ binh 261 đã
xác định lực lượng nguy hiểm trực tiếp trước mắt là đoàn tầu
chiến trên sông Ba Rài” (trang 123). Thế là đủ.
Tôi xin dừng ở đây nghe anh Sơn. Trước
khi bài này được in và chuyển ngữ, chúng tôi sẵn sàng đón nhận ý
kiến từ mọi phía, kể cả tác giả bài viết cuả nhà xuất bản Quân
Ðội Nhân Dân, Hà Nội.
Ôi Những Anh Linh Bên Dòng Sông
Cũ
Bây giờ, tính từ năm 1967 đến nay, đã trên 30 năm. Cuộc chiến cũ
đã nhạt nhòa. Người chiến binh Mỹ đã trở lại Việt Nam du lịch.
Những con thuyền gỗ có mái che, chở các du khách lướt trên mặt
nước đục ngầu Cửu Long Giang được in trên các báo Mỹ. Và tôi
chắc, từ hải ngoại, có lẽ đã không thiếu bà con, bằng hữu chúng
ta trở lại thăm thân nhân, chốn cũ. Có ai đã tới Mỹ Tho không?
Trước khi đến Mỹ Tho, từ Sài Gòn đi xuống bằng Quốc Lộ 4, chúng
ta gặp tỉnh lộ 29 xuôi Nam. Qua Mỹ Hạnh Trung, vào Tỉnh Lộ 20,
tới Long Ðiền, rẽ trái vào Tỉnh Lộ 12 ta sẽ đi qua một vùng đau
khổ cũ. Phía mặt là Cẩm Sơn, phía Nam là Hiệp Ðức, Xuân Sơn, ta
sẽ gặp con rạch Ba Rài ở giữa đoạn đường này, tính từ Long Ðiền
đến An Phú. Nơi đây vườn cây xanh tốt. Mận ở vùng này nổi tiếng
dòn, đỏ au như xác pháo hồng mùa Xuân. Con rạch Ba Rài ấy có các
con thuyền đi lại. Các cô thiếu nữ má hồng trong áo bà ba tươi
mát, quần Mỹ A óng ả. Dưới sông trẻ nhỏ bơi tắm nô đùa. Các cô
gái và trẻ em này được sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến đã tàn.
Họ có biết đâu rằng, dưới lòng con rạch này, chắc còn có những
nắm xương nằm từ bao năm cũ. Và hàng cây bên sông, cây già trăm
tuổi, có còn nhớ một thời khói lửa đã bùng lên, và nếu ai tỉ mỉ,
xem lại các thân cây, những vết đạn cũ, chắc có những đầu đạn sản
xuất made in USA, và có cả những đầu đạn từ Nga Sô, Trung Cộng
đem lại. Những người trai cuả cả hai bên trận tuyến, có khi là
anh em một nhà, bạn bè một quận... đã phải ào ạt giết nhau. Những
linh hồn oan khuất chắc còn lẩn khuất bên các gốc cây xưa.
Ôi những anh linh kẻ Nam Người Bắc
Chết là oan cho một cuộc tương tàn.
Là quân nhân Hải Quân Việt Nam Cộng
Hòa, chúng ta đã làm tròn sứ mạng được trao cho. Thời cuộc đã
gọi, ta nhập cuộc. Chúng ta đã anh dũng hành động. Bạn bè ta đã
anh dũng hy sinh. Các bạn đích thực là những kẻ anh hùng. Tôi ao
ước có một ngày về thăm chốn cũ. Tôi sẽ ngồi bên bờ con rạch Ba
Rài, dưới bóng mát cuả các cây ăn trái, tôi sẽ cầu nguyện, sẽ đọc
một thời kinh Giải Oan cho những người nằm xuống tại nơi này. Hỡi
Nguyễn Ngọc Bảo, hỡi Hoàng Hiền, hỡi Lê Phước Ðức, tức Ðức Râu,
và bao nhiêu người nữa. Tôi ngưỡng mộ các anh. Xin các anh hãy
lắng lòng nghe kinh mà siêu thoát. Tổ Quốc ghi ơ các bạn.
Phan Lạc Tiếp
Tháng 11/98–2/99
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: hoàng hôn trên biển thái bình.. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Đoàn Hữu Định chuyển
Đăng ngày Thứ Hai,
June 29, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang