Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký
Chủ đề:
Cuộc di tản của KQVNCH
Tác giả:
Trần Lý
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Tập
“Quân sử Không Quân” trang 199 ghi lại: “Về Không quân VNCH ngoài
một số nhỏ quân nhân và gia đình được di tản bằng phi cơ C130,
C141 của KQHK từ ngày 20/4, đa số còn lại chỉ di tản sau ngày
28/4/1975, khi Bộ Tư lệnh KQ không còn hoạt động theo đúng chức
năng của một Bộ Tư lệnh nữa.”
Số lượng phi cơ của KQVN bay thoát được
sang Utapao–Thái Lan, do các tác giả đưa ra, không thống nhất,
theo Robert Miskesh trong “Flying Dragons: The South Vietnamese
Air Force” thì tổng cộng vào khoảng 132 chiếc, gồm khoảng 25 F5,
27 A37, 11 A1, 13 C47, 6 C130, 3 AC–119, 5 C7, và 45 UH1. Trong
khi đó Wayne Muntza, trong “The A–1 Skyraider in Viet Nam: The
Spad’s Last War”, và Ralph Wetterhahn trong “Escape to Utapao”
thì con số máy bay được cho là 165 chiếc. Thêm vào đó là các U–17
và O–1, ngoài ra không kể vài phi cơ dân sự của Air VN.
Cũng vào ngày cuối cùng, một số trực
thăng đã bay ra đáp xuống các chiến hạm của HQHK, con số này được
ước lượng là khoảng 100 chiếc, đa số là UH1 và CH47. Cũng có
những chiếc tuy bay được ra biển nhưng do trục trặc kỹ thuật,
hoặc hết nhiên liệu đã rớt xuống biển. Con số này được ước lượng
là khoảng 18 chiếc.
37 năm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975,
các tài liệu quân sự được giải mật và những bài hồi ký, bút ký
của nhiều tác giả trong cuộc đã giúp “vẽ lại” toàn cảnh (tuy có
thể chưa hoàn toàn chính xác) về cuộc di tản hay đúng hơn là “tự
tan hàng” của KQVNCH.
Cuộc di tản chiến thuật, rút bỏ Quân
Đoàn 2, ngày 6 tháng 3 năm 1975 đã bỏ lại tại Pleiku 64 phi cơ
các loại.
Ngày
Quân Đoàn 1 tan hàng tại Đà Nẵng (30 tháng 3, 1975), 180 phi cơ
đã bị bỏ lại. Trong số này có 33 phi cơ vận tải C–7 Caribou đang
bị đình động còn bọc kín trong bao tồn trữ.
Trong những tháng cuối củng của cuộc
chiến, khả năng chiến đấu của KQVNCH càng ngày càng bị giới hạn
do không còn một hệ thống chỉ huy và kiểm soát hữu hiệu. KQVNCH
không có những phi cơ trang bị hệ thống chỉ huy, dẫn đạo không
trợ bay trên vùng cần yểm trợ hành quân (theo phương pháp của
KQHK, dùng các C–130 làm trạm chỉ huy trên vùng). Trong khi đó sự
kiện bị mất các Đài Kiểm báo và Không trợ như Trung Tâm CRC
(Combat Report Center) Panama Đà Nẵng, các Trạm CRP (Combat
Report Point) Peacock PleiKu, Pyramid Ban Mê Thuột... đã khiến Hệ
thống Kiểm Báo Chiến Thuật trở thành tê liệt, vô hiệu. Tuy Trung
Tâm CRC Tân Sơn Nhất vẫn còn hoạt động nhưng nhiệm vụ chính lại
không phải là để điều hành các phi vụ yểm trợ chiến trường, hoặc
hướng dẫn oanh tạc các mục tiêu dưới đất. Các phi vụ oanh tạc tùy
thuộc vào các phi cơ Quan sát FAC (Forward Air Controller = Điều
không tiền tuyến) và tùy phi công có mặt trên vùng nhận định mục
tiêu bằng mắt thường.
Vào thời điểm của Trận Xuân Lộc: KQVNCH
còn 1,492 phi cơ các loại, trong đó có 976 chiếc hoạt động được,
135 chiếc hư hỏng không bay được và 381 chiếc kể như phế thải.
Lực lượng phi cơ chiến đấu gồm 169 chiếc A–37 (trong đó 92 chiếc
khả dụng) và 109 F–5s (93 chiếc khả dụng).
Những phi vụ hành quân cuối cùng của
KQVNCH trên không phận Sài Gòn:
Trong những ngày cuối cùng của VNCH,
KQVN vẫn còn hoạt động với một số phi vụ yểm trợ bộ binh và chống
pháo kích. Đại úy phi công Trần văn Phúc PĐ518 ghi nhận một số
phi xuất trong những ngày 28 và 29 tháng 4 như:
PĐ518 với Phi vụ Phi Long 51 do một phi
tuần gồm 2 Skyraiders (một do Đại úy Phúc và 1 do Thiếu tá Trương
Phùng) bay vào sáng 29/4. Phi cơ của Thiếu tá Phùng bị phòng
không BV bắn hạ. Ông đáp xuống ruộng gần cầu Bình Điền, bị bắt và
sau đó bị CQ hành quyết vào ngày 30 tháng 4. PĐ514 với một phi
tuần 2 Skyraiders cất cánh từ Cần Thơ để bay trên không phận Sài
Gòn vào sáng 29 do các Thiếu tá Hồ ngọc Ân và Đại úy Nguyễn Tiến
Thụy điều khiển.
Những phi vụ Tinh Long của các AC–119
như Tinh Long 06, Tinh Long 07...
Tinh Long 07 (sáng 29) do Trung úy
Trang văn Thành điều khiển đã bị SA–7 của CQ bắn hạ, phi cơ gẫy
làm đôi và rơi ngay tại vòng đai phi trường. Phi hành đoàn gồm 9
người, 8 hy sinh ngoại trừ nhân viên nhảy dù thoát được.
Theo Đại úy Phúc, ngoài Tinh Long 07,
còn có thể có thêm 2 AC–119 khác bị bắn hạ (?) (một rơi tại đường
Ngô Quyền, và một rơi tại Tân Tạo).
Sáng 30 tháng 4, một phi xuất A–37
(PĐ526) từ Cần Thơ, phối hợp với O–1 (PĐ112) từ Đồng Tâm bay yểm
trợ khu vực Hoàng Hoa Thám ngay trước giờ Dương Văn Minh tuyên bố
đầu hàng. (A–37 do Trung úy Nguyễn Mạnh Dũng điều khiển); (O–1 do
Đại úy Mai Trí Dũng). Đây có thể là phi vụ hành quân cuối cùng
của KQVNCH.
(Xin xem bài: Những Phi vụ hành quân sau cùng của KQVNCH, của
Trần Lý)
Những
giờ phút cuối cùng tại Bộ Tư lệnh KQVNCH
Chiều 28 tháng 4, CSBV đã dùng 4 A–37
(lấy được, từ Phan rang) oanh kích Phi trường TSN, gây tổn hại
cho 3 chiếc C–119 và nhiều C–47.
Tối 28 tháng 4: một sự kiện “kỳ lạ” đầy
bí ẩn đã xảy ra tại TSN: Tác giả Thiên Lôi Ngô Đức Cửu trong
“Chuyện 30 năm trước” ghi lại như sau:
“8:00g tối 28 tháng 4 năm 1975, tôi trở
về ụ đậu phi cơ đầu phi đạo 07 phải, nơi tạm trú của 3 Phi Đoàn
524, 534 và 548 di tản từ các căn cứ về. Bước xuống xe, tôi thấy
các nhân viên phi đạo đang bận rộn kéo các A–37 trang bị đầy bom
đạn từ trong vòm trú ẩn ra đậu hàng ngang dài phía trước, cách ụ
50 feet. Tôi bước đến hỏi Trưởng phi đạo tại sao dời phi cơ khỏi
ụ?
Anh ta trả
lời: theo lệnh trung tá kỹ thuật và Bộ CH Hành quân.
Tôi vào phòng trong ụ, nhắc điện thoại
gọi TT Hành quân, thì sĩ quan trực cho biết hình như lệnh của Bộ
Tư lệnh KQ hay Bộ TTM... gì đó?
Tôi hỏi: Anh có biết là hồi chiều phi
đạo 07 vừa bị dội bom không? Tôi liên lạc với Đại tá Ước, nhưng
không được. Trở lại bãi đậu, tôi yêu cầu Trưởng phi đạo di chuyển
phi cơ trở lại ụ, nhưng không được.”
Tôi tự hào trong hàng ngũ phi công khu
trục KLVNCH, nhất là KĐ92 có các PĐ524, 534, 548 cho đến giờ phút
này: 22:18g tối 28 tháng 4 tất cả phi công đều có mặt ứng chiến,
không thiếu một ai.
Suốt đêm tất cả anh em 3 Phi Đoàn chờ
đợi, điều động cất cánh, nhưng tuyệt nhiên không một tiếng điện
thoại reo.
Nửa
đêm VC bắt đầu pháo kích và hơn 50 A–37 bị phá hủy. Giờ đây hơn
trăm phi công chiến đấu bằng tay không ư?
6:15g sáng 29, tất cả phi công lên xe
chạy về Bộ Chỉ huy KĐ33. Đại tá Thảo chạy vào rồi chạy trở ra.
Đến nơi các phòng vắng lặng, không còn ai cả. Trở lại sân cờ
KĐ33, Đại tá Thảo tuyên bố tạm thời tan hàng, anh em rán tự tìm
lấy phương tiện di tản.
Mọi người xuống xe, nhưng chạy về đâu
bây giờ? Tan hàng, nghe thảm thiết quá. Một trong những đơn vị
chiến đấu kiên cường nhất của QLVNCH, giờ đang bị bó tay. “Lệnh
ai sắp hàng ngang trên 50 chiếc A–37, cánh liền cánh, xăng nhớt,
bom đạn trang bị đầy đủ để hủy diệt? Nếu không cho chúng tôi
chiến đấu thì cũng để chúng tôi có phương tiện ra khỏi vòng đai
đang bủa quanh phi trường chứ? Chúng tôi đâu có... rã ngũ?”
Sự kiện phi cơ bị “tự hủy”(?) này cũng
được ghi nhận trong “Can trường trong Chiến bại” của Tướng Hải
Quân Hồ văn Kỳ Thoại, trang 306–307 như sau:
“Tới đêm 28 tháng 4, tại căn cứ Duyên
đoàn ở Vũng Tàu, một sĩ quan KQ cấp tá xin vào gặp tôi và cho
biết có một số trực thăng đang đậu tại Vũng Tàu, có Tướng Huỳnh
Bá Tính, Sư Đoàn Trưởng SĐ3KQ muốn đến gặp tôi, cần trình bày một
sự kiện quan trọng.
Tướng Tính vào căn cứ duyên đoàn gặp
tôi và các tướng lãnh khác (Nguyễn duy Hinh, Trần văn Nhựt...) kể
chuyện xảy ra, rất bi thảm. Ông không biết lịnh từ đâu... bỗng
nhiên một số phi cơ phát nổ, sau đó được biết có lệnh của Sài
Gòn... cho phá hủy các phi cơ của KQ?
Tướng Tính phân vân không muốn về trình
diện Bộ TLKQ khi ông chưa biết ai ra lệnh hủy phi cơ thuộc SĐ của
ông? Chúng tôi thuyết phục ông Tính liên lạc trực tiếp với Tướng
Minh TLKQ.
Trong đêm 28, rạng sáng 29 tháng 4 CQ bắt đầu pháo kích vào Phi
trường TSN phá hủy nhiều phi cơ.
Khoảng 8:00g sáng, Tướng Phan Phụng
Tiên, Sư Đoàn Trưởng SĐ5KQ đến gặp Tướng Minh, và sau đó bỏ đi.
10:30g sáng 29 tháng 4, sau khi họp
riêng với Tướng Minh Tư lệnh KQVN, Tướng Nguyễn Cao Kỳ (không có
một chức vụ chính thức nào trong Chính Phủ cũng như trong Quân
Lực VNCH), bay trực thăng riêng về Bộ TTM. Thấy không còn ai
Tướng Kỳ gặp Tướng Ngô Quang Trưởng ngồi không nên rủ Ông Trưởng
cùng lên trực thăng, theo đoàn tùy tùng bay ra USS Midway đang
đậu ngoài khơi Vũng Tàu.
Khoảng 11:00g, Trung tướng Nguyễn văn
Mạnh Cựu TMT Liên Quân cùng với Trung tướng Dư Quốc Đống vào gặp
Tướng Minh. Sau khi chờ không thấy HK liên lạc như đã dự trù,
Tướng Minh cùng các Tướng Tá Bộ binh và KQ tùy tùng đã di chuyển
sang DAO để chờ di tản.
Kể từ 1:00g trưa: Trung Tâm Hành quân
KQ kể như bỏ trống. Các Phi Đoàn trưởng ra lệnh tự tan tan hàng,
phi công bay đi đâu hoặc chạy đâu, tự ý quyết định.
Riêng SĐ4KQ tại Trà Nóc Cần Thơ, còn
hoạt động (cho đến sáng 30/4 một số phi vụ vẫn từ Cần Thơ bay lên
yểm trợ chiến trường quanh Sài Gòn) và Chuẩn tướng Nguyễn Hữu
Tần, Sư Đoàn Trưởng có thể được xem là vị Tư lệnh sau cùng của
KQVNCH (?).”
Trong bài bút ký “Giây phút nát lòng” (Lý Tưởng Tháng 4/2002),
Tác giả Không Quân Liệt Lão, Chỉ huy trưởng Phòng vệ BTLKQ đã kể
lại những giây phút tan hàng tại Tân Sơn Nhất với những đoạn tạm
trích như sau:
“Tôi lên trình diện Tư lệnh bộ, toan
phúc trình tình hình phòng thủ, nhưng chẳng ai bận tâm. Người
người nhìn nhau đăm chiêu dường như trong thâm tâm ai cũng muốn
buông rơi tất cả... Ai cũng thần sắc không còn, dũng khí tiêu tan
như ‘đại bàng xệ cánh’. Tôi trông chờ một lệnh họp khẩn cấp,
duyệt xét tình hình chung, lấy quyết định tối hậu ‘Chiến’ hay
‘lui’. Chiến thì chiến ra sao? Lùi thì lùi thế nào? Có tuần tự,
trước sau, không bỏ một ai hay hỗn loạn... mạnh ai nấy chuồn? Tôi
chờ lệnh, nhưng không có lệnh?”
Bài viết có thêm những chi tiết di tản
của một số Tướng KQ và BB như:
“Tôi đưa tay chào nghiêm túc theo quân
cách, Cửu Long (danh hiệu của Tường Minh, Tư lệnh KQ), chào trả,
ngập ngừng chân bước, ái ngại nhìn tôi và đột nhiên dứt khoát:
Toa ở lại, đi sau với Lành (Tướng Võ
Xuân Lành) nghe...”
“Tôi mỉm cười, quay bước vào phòng tình
hình, lúc này chỉ còn Ông Linh, ông Lành. Ông Lượng đã đi đâu lúc
nào tôi không biết. Được một lúc khoảng 10:00g gì đó, Ông Ước
(Đại tá Vũ văn Ước) đáp trực thăng trên sân banh, chạy vội vào
gặp ông Lành, xong cùng ông Lành trở ra, kéo luôn theo tôi, miệng
nói:
Đi mày...
Tôi nhìn Lành, quay qua hỏi Ước: Đi
dâu?
Qua Tổng
Tham mưu xem tìmh hình ra sao?
Ước nói và nắm tay tôi lôi đi. Tôi,
Ước, Linh lên trực thăng qua đáp tại sân cờ trước tiền đình Bộ
TTM. Linh, Ước chạy lên văn phòng TTM trưởng, tôi không theo.”
Đảo mắt chỗ khác thấy trực thăng Tướng
Kỳ. Đàn em trước kia của tôi hiện là cận vệ ông Kỳ, vội từ trực
thăng nhảy xuống chạy đến tôi nói nhỏ: Trực thăng sẽ bay ra Blue
Ridge, ông hãy lên, cùng đi...
Tôi hỏi: Tướng đâu?
– Họp trên văn phòng TTM Trưởng...
Tôi bước lại trực thăng, nhìn vào...
thấy Hà Xuân Vịnh (đại tá) ngồi trên đó từ hồi nào. Tôi leo lên
ngồi cạnh. Đang miên man suy nghĩ cho mạt vận của đất nước, mạt
kiếp của mình thì ông Linh từ bộ TTM chạy ra một mình đến bên
trực thăng có tôi và Vịnh đang ngồi đăm chiêu, mỗi người một ý
nghĩ... Linh cứ loanh quanh ở dưới chẳng chịu bước lên cùng chúng
tôi. Tôi vội leo xuống, lại gần Linh nhỏ to: “Linh, Kỳ sẽ rút ra
Đệ Thất hạm đội. Hãy lên, cùng đi. Hết cách thôi...”
Linh có điều gì bất ưng, nhất định
không lên tàu. Tôi hỏi: Sao? Linh nói: thiếu gì máy bay. Tôi vội
báo động: Máy bay nào? Còn duy nhất chiếc này thôi. “Chiếc kia
kìa”, Linh vừa nói vừa chỉ tay về chiếc trực thăng mà tôi, Ước và
Linh vừa đáp hồi nãy. “Tàu còn đó, hoa tiêu bỏ đi rồi...” Tôi nói
với Linh vì thấy họ phóng jeep ra khỏi TTM.
Linh nhất định không lên tàu, tôi đành
ở lại bên anh.
Tôi còn đang phân vân bàn thảo với Linh
những bước kế tiếp, thì ông Kỳ, từ đại sảnh bộ TTM bước ra, hướng
về trực thăng, dẫn theo số đông tướng lãnh bay đi cùng Ước để lại
tôi và Linh tự quyết định lấy phận mình.
Tôi và Linh, đồng thời cả Đặng Duy Lạc
(KĐ Trưởng KĐ62) không biết từ đâu chui ra, gọi QC/TTM yêu cầu hộ
tống chúng tôi về lại Bộ TLKQ. Xe rồ máy phóng đi trực chỉ cổng
Phi Long.
Tinh
cầu trên vai, Linh cho lệnh mở cửa. Quân ta phớt tỉnh không nghe.
Đặng Duy Lạc ngồi yên như khúc gỗ. Tình hình thực gay cấn.
Thấy ông Linh hết “linh”, tôi bước
xuống xe tiến thẳng đến chỗ anh KQ bất tuân thượng lệnh, điềm đạm
ra lệnh mở cổng. Anh liu riu vâng lời.
Chúng tôi vào Bộ Tư lệnh KQ gặp ông
Lành.
Niềm tự
hào của KQ đang ở chỗ này: Tướng Lành, trước thế quân tan vỡ,
quân binh đang đua nhau bỏ ngũ, ông vẫn trầm tĩnh, kiên trì thủ
đài Chỉ huy Hành quân Chiến cuộc KQ. Ông giữ vững liên lạc với
SĐ4KQ, SĐKQ duy nhất còn hăng say chiến đấu trong khi nhiều đơn
vị đã tự ngừng nghỉ.
Ông Linh tóm lược tình hình bên Bộ TTM
cho ông Lành rõ, ông đề nghị rút khỏi Tân Sơn Nhứt... Tướng Lành,
nói với Linh trước sự hiện diện của tôi và Đặng Duy Lạc:
Moa chưa có lệnh.
Ông vẫn đợi lệnh... phải chúng tôi vẫn
đợi, vẫn chờ... nhưng chờ lệnh ai đây? Mọi người đã bỏ đi cả rồi,
tội cho ông Lành vẫn ngồi chờ lệnh... mà lệnh của ai đây? Tôi
buột miệng:
Ông chờ lệnh ai? Còn ai đây nữa mà ra lệnh cho mình?
Ông Lành trầm ngâm không nói, chúng tôi
lặng yên chờ... (lại chờ) quyết định của ông, chợt Tướng Lê quang
Lưỡng (Nhảy Dù) xịch jeep đến, thấy tụi này còn đương nhìn nhau,
hỏi:
Tụi toa
định làm gì đây?
Ông Lành ngượng nghịu chưa biết phải
nói sao cho đỡ khó nói? Tôi nhìn thẳng Tướng Dù nói nhanh:
Tụi này zulu đây. Ông có theo thì cùng
đi?
Zulu? zulu
bỏ mấy đứa con (ý nói quân Dù) lang thang... sao đành?
Ông Lành hỏi: Toa còn mấy đứa con?
Sáu đứa chung quanh Đô thành...
Lúc này trực thăng TQLC Mỹ đổ bộ và bốc
người loạn cào cào trên không phận Sài Gòn.
Tôi đỡ lời ông Lành:
Tân sơn Nhất không giữ được... KQ chúng
tôi phải rút khỏi tầm pháo địch trước đã.
Ông Lưỡng vội hỏi: Tụi toa định rút đi
đâu?
Tôi nhanh
nhẩu: Có thể vùng 4... có thể đi luôn... Chờ moa một chút, cho
moa về thu xếp với mấy đứa con cái đã...
Nói xong, ông Lưỡng lên xe jeep về Sư
Đoàn Dù.
Trong
khi chờ Tướng Dù trở lại, các sĩ quan cấp Không Đoàn và Tham mưu
Bộ Tư lệnh KQ hiện diện cùng với một số binh sĩ thuộc Tổng hành
dinh KQ vội tập họp quanh chúng tôi tại tiền đình Bộ TL... bao
quanh, nghe ngóng tình hình... Tôi nói thẳng:
Dưới áp lực của pháo Cộng, Bộ TLKQ buộc
phải rút khỏi đây. Ai muốn đi theo, hãy sẵn sàng. Kể từ giờ phút
này, các anh không còn trách nhiệm gì với KQ nữa... Các anh có
thể rời đơn vị lo cho sự an nguy của vợ con càng sơm càng tốt.
Cùng trong lúc đó, Tướng Dù đã trở lại.
Chúng tôi thảo luận kế rút đi.
Khi xét kỹ lại trong chúng tôi... không
ai là hoa tiêu vận tải. Tướng Lành, Thảo nâu, Duy Lạc... đều là
hoa tiêu phóng pháo. Ông Linh đề nghị qua DAO.
Tôi hỏi nhỏ ông Linh: SĐ5KQ thì sao?
Các hoa tiêu đã tự ý rút cả rồi... Linh thở dài trả lời. Sau phút
suy tính, vị chỉ huy đoạn hậu BTLKQ cho lệnh rút... Tất cả lên 3
jeep trực chỉ DAO.
Tới cổng DAO, một dân sự Mẽo, mặc áo
giáp, M17 cầm tay chặn lại:
Generals only. Y hách dịch ra lệnh.
Hai Tướng KQ, một Tướng Dù bước vào
trong hàng rào kẽm gai... Tôi lắc đầu quay ra, tự tay gỡ kẽm gai
bước khỏi vùng phân ranh Mỹ–Việt.
Anh Mẽo gác cửa chẳng hiểu tại sao cái
anh phi hành đã vào rồi lại bỏ ra... khi nhiều người muốn vào lại
không được.
Tác giả sau đó, cùng một số sĩ quan cấp tá quay lại BTLKQ để tìm
phương cách khác tự di tản.
(Ghi chú: Danh sách một số tướng, tá và
chức vụ tại Bộ TLKQ, trong những ngày cuối cùng của VNCH:
Trung tướng Trần văn Minh, Tư lệnh KQVN
Thiếu tướng Võ Xuân Lành: Tư lệnh phó
Chuẩn tướng Võ Dinh: TM Trưởng
Chuẩn
tướng Đặng Đình Linh: TM Phó Kỹ thuật/Tiếp vận.)
Bác sĩ Phạm gia Lữ trong bài “Tân sơn
Nhất trong giờ hấp hối” (Lý Tưởng, tháng 4/2002) kể lại một số
diễn biến tại Trung Tâm Y Khoa KQ với nhiều chi tiết khá... chua
chát của một đơn vị hầu như bị bỏ quên?
Chiều thứ hai 28 tháng tư... lệnh giới
nghiêm 24/24 bắt đầu, cổng Phi Long đóng cửa. Phi trường TSN vừa
bị A–37 oanh kích trước đó...
Khoảng nửa đêm, Thiếu tá L. nhào vào bô
bô nói: Tình hình thế này mà các cậu ngủ được thì lạ thật. Đàn
anh biến đi đâu hết rồi. (hắn ám chỉ các anh lớn của KQ)... họ
đang lập cầu không vận đi Côn Sơn kia kìa... SĐ5KQ đang tổ chức
di tản cho thân nhân binh sĩ thuộc SĐ đi Côn Sơn.
Đêm 28, CQ pháo kich vào phi trường gây
thiệt hại cho nhiều máy bay.
... Khoảng 7:00g sáng 29/4, trong lúc
quanh quẩn tại BCHHKQ, tôi gặp Đại tá H Giám đốc Trường Chỉ huy
và Tham mưu Trung cấp KQ trước cửa văn phòng ông, vẻ buồn bã lộ
trên nét mặt... tuy thuộc cấp chỉ huy nhưng không cổ cánh, máy
bay không có trong tay, nên cũng chẳng xoay sở gì được... Đại tá
Th. Chỉ huy trưởng Trung Tâm Kiểm báo, cũng là người rất kỷ luật,
cứ nằm lỳ trong đơn vị để làm gương cho thuộc cấp nên cũng bị kẹt
trong cơn hấp hối của TSN.
Khoảng 10:00g, cùng Thiếu tá Vũ BH
thuộc trường CH/TM chúng tôi cùng lái xe đi thăm tình hình...
Trên đường chạy ra Phi đạo, một dãy dài xe hơi bỏ trống, nối dài
từ cửa chính vào văn phòng Tư lệnh ra đến ngoài đường.
Tôi gặp chiếc falcon màu vàng nhạt của
Thiếu tá Khoa (đen), vẫy tay ra hiệu cho anh ngưng lại và hỏi:
Đi đâu bây giờ?
Khoa trả lời vắn tắt: Theo moa...
Vừa khỏi vòng rào BTL, Kh quẹo phải rồi
quẹo trái, thì ra anh ở nhà cũ của LCK, sau khi vợ con hành lý
lên xe, chúng tôi nối đuôi nhau trở ra phi đạo. Trạm canh ra phi
đạo không còn quân cảnh canh gác.
Bay đi Utapao:
Để thoát khỏi Việt Nam, các phi cơ vận
tải, phản lực... nếu đủ nhiên liệu có thể tự bay sang Singapore
(590 miles về phía Tây–Nam) hoặc gần hơn là sang Utapao (Thái
Lan) (350 miles phía Tây–Bắc). Đa số các phi cơ vận tải và phản
lực đã chọn Utapao, chỉ một số rất ít C–130 bay đến Singapore.
Bài viết chính thức về cuộc di tản của
các phi cơ VNCH đến Utapao trong những ngày cuối cùng của cuộc
chiến VN: “Escape to Utapao” của Tác giả Ralph Westerhaan đã được
đăng trên Tập san Air and Space/Smithsonian Số Dec–Jan 1997.
“Vài ngày trước khi xảy ra cuộc di tản
của KQVNCH ra khỏi Sài Gòn, Tướng KQHK Harry Aderholt, Chỉ huy
trưởng Phái bộ Quân viện HK tại Thái Lan (MAC–Thai) đã gửi Đại úy
KQ Roger L YoungBlood bay đến Phi trường Trat, nằm sát biên giới
Thái–Miên. Bay trên một chiếc phi cơ AU–23 của Không lực Thái
(AU–23 là một phi cơ cải biến từ loại Pilatus PC–6, có khả năng
đáp được xuống những phi đạo thật ngắn) YoungBlood bay vòng vòng
trên không phận Thái cùng một phi công phụ VNCH. Phi công phụ này
giữ tần số vô tuyến và hướng dẫn các phi cơ VN bay về Utapao.”
Skyraiders A–1:
11 chiếc Skyraiders đã đến được Utapao,
gồm 5 A–1E, một A–1G và 5 A–1H. Trong số này 7 chiếc thuộc Phi
Đoàn 514, 3 chiếc thuộc PĐ518 và một thuộc PĐ530: Chiếc Skyraider
A–1H, số hiệu 139606 thuộc PĐ518 là chiếc Skyraider sau cùng bay
khỏi VN đến Utapao, phi công đã chở cả gia đình “nêm” chật cứng
trong phòng lái (danh từ lóng của KQ Mỹ gọi đây là một hell
hole).
Chim
lạc lối về...
Trên một chiếc A–1E, phi công (Thiếu tá Hồ văn Hiển PĐ514) đã cất
cánh, chở theo 15 người, nhét cứng trong... “blue room”... Tác
giả Phi Long 51 trong bài “Chuyến bay định mệnh” (trên Diễn đàn
Cánh thép) ghi lại:
“Sáng 29... tôi trở lại Bộ chỉ huy Hành
quân KQ sau 10 giờ và khám phá ra PĐ518 đã cất cánh đi Cần Thơ.
Tôi gặp Trung tá NCP trong BCH và tìm phi cơ để đi... Do cơ
trưởng Lợi huớng dẫn, chúng tôi tìm được một AD–5 (chiếc này có 2
chỗ ngồi lái và một phòng trống khoảng 3x4x3 feet cao ở phía sau
ghế pilot). Phi cơ trang bị đầy bom đạn. Sau khi thay bình điện,
phi cơ rời ụ và tuy quá tải cũng cất cánh được, không liên lạc
được với đài kiểm soát. Phi cơ bay đi Cần Thơ xin đáp nhưng bị từ
chối, sau đó đành bay ra An Thới (Phú Quốc), thả bớt bom xuống
biển. Tại An thới phi cơ được bỏ bớt đạn đại bác, tạm bị giữ,
không cho cất cánh. Đến 10:00g sáng, sau khi có lệnh đầu hàng,
phi cơ bay đi Utapao, cũng vẫn với 15 người trên phi cơ.”
Số Skyraiders bị bỏ lại là 40 chiếc,
trong đó 26 chiếc bỏ lại ở TSN.
F–5s:
Trong số 26 chiếc F–5s bay thoát khỏi
VN (gồm 22 chiếc F–5E và 4 chiếc F–5A/B), có 2 trường hợp đặc
biệt được Anthony Tambini ghi lại trong F–5 Tigers over Việt Nam:
Một chiếc F–5F (loại 2 chỗ ngồi), đã
chở theo 4 phi công trong 2 phòng lái, bằng cách tháo bỏ các dù,
hạ ghế xuống thấp hết mức, một phi công ngồi và phi công thứ nhì
đứng khom lưng đối mặt, lưng dựa vào cockpit.
Phi cơ cất cánh khi phi trường đang bị
pháo kích: lúc đầu phi cơ định bay lên với hệ thống thắng để mở.
Cảm nhận được tình hình không thể bay lên, phi công đã phải mở dù
“drag chute”) để làm chậm vận tốc... sau đó đóng hệ thống thắng
để phi cơ bay lên được và bay đi Thái Lan. Tuy nhiên, có lẽ hệ
thống thắng đã bị hư hại khi bị pháo kích nên không còn sử dụng
được. Phi cơ đáp xuống một phi dạo thô sơ và chật hẹp, không
ngừng được nên đâm vào cây và phát nổ, gây tử thương cho cả 4 phi
công. (Các phi công tử nạn gồm các Thiếu tá Mai Tiến Đạt, Nguyễn
Đức Toàn, Ngô văn Trung và Đại úy Lê Thiện Hữu.)
Một F–5A khác, cất cánh với 3 phi công,
cất cánh ngược hướng bay, bay qua đầu các phi cơ đang đậu trên
phi đạo chờ đến lượt bay lên. Phi cơ đến được Utapao.
Số F–5 bị bỏ lại gồm 87 chiếc, trong đó
có 27 F–5E.
A–37s:
Gần 50
chiếc A–37 đã bị hủy diệt trong đợt pháo kich đêm 28/4 (xem phần
trên) và Đại tá Thảo (KĐ trưởng KĐ33) đã cho lệnh tan hàng vào
khoảng 8:00g sáng 29/4.
Thiếu tá Ngô đức Cửu, đón được một L–19
và về được Trà Nóc (Cần Thơ). Tại đây ông trình bày tình hình của
Bộ Tư lệnh KQ Sài Gòn (bỏ ngỏ) và hướng dẫn các PĐ A–37 còn lại
bay đi Utapao:
“Từ Bình Thủy đi Utapao, hướng 300,
khoảng 45 phút là đến. Anh em nên lấy bản đồ ra kiểm soát lại và
ghi các chi tiết tần số tower.”
10:00g sáng 30/4 khi có lệnh “đầu
hàng”, Căn cứ Bình Thủy cũng tự động tan hàng... Bãi đậu phi cơ
vắng lặng, không còn quân cảnh, không còn chuyên viên kỹ thuật.
“Tôi rất thán phục anh em A–37 Cần Thơ,
có nôn nóng nhưng rất trật tự có thể nói là... lịch sự... Tôi lên
tiếng vì nhu cầu, tất cả hoa tiêu A–37 phải rời VN, anh em bắt
cặp lấy, mỗi phi cơ phải đi được 3 người, không dù không hành
lý... ngoại trừ Phi công bay ghế trái phải đội helmet để liên
lạc... tất cả phi cơ phải bay ở 12 ngàn bộ, không cần dưỡng khí.”
Đa số phi cơ bình điện yếu, Thiếu tá
Cửu và Thiếu tá Kim (Liên đoàn trưởng Kỹ thuật) đã dùng APU để
khởi động từng phi cơ theo thứ tự. Thiếu tá Cửu lên chiếc sau
cùng, rời phi đạo để cùng hợp đoàn gần 30 chiếc A–37 bay đi
Utapao.
Đây có
thể được xem là “chuyến di tản” trật tự và “thành công” nhất của
KQVNCH.
Ngoài
ra, còn có một A–37 đáp xuống một xa lộ gần Căn cứ KQ Korat, phía
bắc Bangkok, gần một trường học, bom đạn còn đầy dưới cánh và
Tướng Aderholt đã phải gửi một Đại úy phi công Mỹ đến để bay
chiếc này về Căn cứ Udorn.
Theo thống kê 27 chiếc A–37 đến được
Utapao. 95 chiếc bị bỏ lại VN.
Phi cơ vận tải:
Tân Sơn Nhất là căn cứ tập trung của
nhiều Phi Đoàn vận tải của KQVNCH. Cuộc di tản cũng rất hỗn loạn,
nhiều phi cơ bị bỏ lại vì không có phi công, không người đổ xăng,
có những trường hợp phi cơ không cất cánh nổi do quá tải, hay do
quá vội. Một số phi cơ vận tải đã bay được sang Utapao do đã ở
sẵn tại Côn đảo, tất cả đều chở vượt quy định. Có những C–47 bay
đến Utapao với cả trăm hành khách (bình thường chỉ chở 30 binh
sĩ), bánh đáp bị gãy khi chạm đất.
Phi công Hungphan trong bài hồi ký
“Những giờ phút sau Tinh Long 07” ghi lại:
“Sáng 29/04/75... đồng loạt không ai
bảo ai, chúng tôi tháo chạy về phia Không Đoàn bộ (PĐ437), cạnh
một bên là đại bản doanh của PĐ435, chúng tôi đang ngơ ngác tìm
nơi trú ẩn, thì thấy ông PĐ trưởng Trung tá MMC bước ra, nhìn
chúng tôi lên tiếng... ‘giờ này pilot quý lắm, ai ở Phi Đoàn nào
về Phi Đoàn nấy...’ chúng tôi im lặng rút sâu vào tầng dưới của
SĐ bộ, thấy đủ mặt văn võ bá quan... TT Vinh con 435, TT Vinh Trô
437, Trung tá Dinh, Đại úy Chư... đã có mặt từ lúc nào? Gần giống
một cuộc họp của Không Đoàn.
Không biết thời gian nặng nề, dai dẳng
này kéo dài bao lâu, thỉnh thoảng như để phá tan bầu im lặng,
tiếng pháo lại vang lên phía bên ngoài. Bỗng nghe tiếng điện
thoại reo vang trên lầu, rồi lại im lặng, tất cả mọi khuôn mặt
không giấu vẻ lo lắng, đợi chờ. Tình hình căng thẳng, khoảng mười
phút sau, tiếng chuông điện thoại lại một lần nữa reo lên, và
chưa hết tiếng reo, bỗng một tiếng của ai đó hét to ra xe...
(nghĩa là chưa ai nghe điện thoại). Không ai bảo ai, chúng tôi
chạy nhanh và chen chân nhảy lên xe.
Tôi cũng nhảy lên một step van, chạy
một quãng, 4–5 anh phòng thủ, súng ống đầy mình chạy ra chận lại,
có tiếng trong xe la lớn: ‘ĐM, lên xe luôn, giờ này mà chặn cái
gì?’ thế là thêm đông. Đến parking tôi chạy về chiếc GZA 027,
Herky 027, mà tôi biết tàu tốt... vì tôi mới bay về tối hôm qua.
Trên phòng lái, có độ 10 ông pilot C–130... phí thật.
Chỉ một phút sau, chúng tôi take–off...
2 phút sau đã có cao độ an toàn (TT Nhân nhảy vào ghế pilot thay
Đại úy Chuân, ngồi co–pilot là Trung tá Đinh.)”
(14 chiếc C–130 bị bỏ lại, 9 chiếc đến
được Utapao, ngoài ra còn 1 chiếc đã đào thoát sang Singapore từ
khoảng đầu tháng 4). Tác giả “Không quân liệt lão” trong bài
“Giây phút não lòng” (xem phần trên) ghi tiếp:
Thảo bảo tôi: Mình ra khu trực thăng,
moa thấy nhiều lắm, đậu phía gần phi đạo hướng Bà quẹo đó. Đến
khu trực thăng, lên chiếc nào mở máy cũng không nổ, tàu nào cũng
khô ran... (Tướng Tiên cho lệnh rút xăng khỏi tàu vì sợ các phi
công tự động tan hàng). Chọn trực thăng không xong, Thảo Nâu chở
tôi trên jeep đi tìm Cessna. Gặp Cessna, Thảo leo lên, bảo tôi
ngồi ghế phải, hắn quay máy, máy nổ. Bỗng nhiên con tàu xao động
dữ dội. Quan quân ở đâu đông thế đang giành nhau leo lên tàu...
Cessna chỉ có 5 chỗ, làm sao chở nổi cả chục người... Không ai
chịu xuống.
Tôi tự quyết định nhường chỗ, mở cửa buớc xuống, leo lên jeep để
lái đi, có QC Vân cùng bỏ Cessna lái đi... tìm xem còn chiếc nào
để quá giang.
Trên đường rời khỏi SĐ5KQ, ngang qua văn phòng Tư lệnh phó SĐ,
thấy có ánh đèn, cửa mở, tôi đậu xe bước vào. Gặp Đinh thạch On
ngồi thẫn thờ sau bàn giấy. Tôi hỏi:
– On, sao còn ngồi đây? Tất cả bỏ đi
hết rồi, anh cũng đi đi thôi.
On như người mất hồn: C–130 tụi nó lấy
trốn cả rồi.
Tôi nhắc: còn C–47 mà. On thở dài: Đã lâu lắm, tôi không lái C47.
Sau khi ngồi chờ ông On, lôi quyển kỹ
thuật C–47 ra “ôn bài”, cả đám đi tìm C–47 để chạy. Đến bãi đậu,
các phi cơ đều bất khả dụng: hoặc không xăng, hoặc bị trúng đạn
pháo kích. Đang tuyệt vọng, cả đám tìm được một C–47 đang nằm
trong hangar, khóa kín. Đó là chiếc phi cơ riêng của Tư lệnh Vùng
2. Sau đó có thêm Đại úy Qui chạy đến. Phi cơ chở đến gần 80
người, cộng theo thiết bị linh tinh, cố gắng cất cánh để sau cùng
đến được... Utapao.
Nhóm của BS Phạm gia Lữ (xem phần trên)
sau đó đến phi đạo C–47 để tìm máy bay di tản, có chiếc không
khởi động được do bình điện yếu. Chiếc DC–6 “Bình Long Anh dũng”
tuy nằm cạnh nhưng được canh giữ. Sau đó tìm được chiếc C–47 của
Tư lệnh KQ, Kh bắn bể khóa. Tất cả leo lên tàu để bay ra Côn Sơn.
Sau những trục trặc như không có bản đồ phi hành, phi cơ hết dầu
thắng (tìm được 2 gallon nơi đuôi phi cơ). Phi cơ đáp được xuống
Côn Sơn... Thiếu tá Khoa bay thêm một chuyến trở lại Sài Gòn (TSN
đã bỏ ngỏ) để đón thân nhân và bay lại ra Côn Sơn. Dùng nón sắt
để chuyển xăng, phi cơ đã bay đi Utapao sáng 30/4 khi Dương Văn
Minh ra lệnh đầu hàng.
Tác giả Nguyễn Cao Thiên trong bài
“PĐ314, Chuyến bay không phi vụ lệnh” (Đặc san Liên khóa 64 SVSQ,
2009) ghi lại một số chi tiết mô tả tình trạng hoảng loạn, vô
trật tự... tại TSN khi phi trường bị pháo kich. Sau khi PĐ phó
Tấn từ KĐ trở về cho biết “Trên đó có ai đâu, vắng hoe?”. Mạnh ai
nấy chạy... tự tìm phi cơ để... bay đi... Có phi cơ cất cánh quá
vội, quên cả gỡ kẹp đuôi, nên bị rơi ngay tại phi trường. Chiếc
C–47 của PĐ314 bay đến Utapao với trên 40 người.
(16 chiếc C–47, đủ loại kể cả EC, AC
đến được Utapao. 38 chiếc bỏ lại.)
Ngoài ra cũng có 3 AC–119 và 6 C–7A
Caribou đến Utapao, 37 chiếc AC–119 cùng 6 chiếc C–119 vận tải bị
bỏ lại. Số Caribou lên đến 33 (trong tình trạng đình động.)
Tại Utapao còn có:
– 14 chiếc Cessna U–17 Skywagon
– 12 chiếc UH–1
– 3 chiếc O–1 Bird dog.
Bảng tổng kết của HK ghi nhận: số phi
cơ của KQVN bỏ lại còn có 434 chiếc UH–1, 114 chiếc O–1, 32 chiếc
CH–47 Chinook và 72 phi cơ các loại khác gồm U–17, O–2A, T–37,
T–41, và cả U–6 Beaver.
Bay ra biển:
Các phi cơ trực thăng (UH–1 và
Chinook), khi tự động tan hàng, đa số tìm đường thoát bằng cách
bay ra biển, để đáp xuống bất cứ tàu bè nào đang di chuyển ngoài
khơi: đáp trên chiến hạm Mỹ, nếu có chỗ đáp là tốt nhất, đáp trên
chiến hạm VN... và trong tinh trạng “bi thảm nhất” là đáp xuống
biển và phi công tự thoát, nếu may mắn sẽ được tiếp cứu và vớt
lên tàu.
Trường hợp đặc biệt nhất được ghi vào lịch sử KQ và HQ Hoa Kỳ là
trường hợp đáp của một L–19 chở đầy “hành khách” trên Hàng Không
Mẫu hạm.
Sau
đây là một số trường hợp được kể lại trong các bài hồi ký:
Phi Đoàn Thần Tượng 215:
Khoảng 10:00g sáng 29 tháng 4, bộ chỉ
huy Phi Đoàn 215 đã dùng 3 trực thăng để “di tản” về Côn Sơn.
Trên các trực thăng có Phi Đoàn trưởng (Trung tá Khưu văn Phát),
PĐ phó (Thiếu tá Đức), các phi đội trưởng... Tuy nhiên do hết
xăng nên cả 3 chiếc sau khi gặp Tàu chở dầu của hãng Shell đã cố
gắng thả người (nhảy từ máy bay xuống sàn tàu từ cao độ chừng 3m)
và phi công còn lại sau cùng đã đáp xuống biển, bơi thoát khỏi
chiếc phi cơ đang chìm và được ca–nô vớt... Cả 3 phi công (Đại úy
Chín, Đại úy Vĩnh và Thiếu tá Lương) đều được an toàn. (Vĩnh
Hiếu: Phi Đoàn Thần Tượng Giờ thứ 25).
Phi Đoàn Lôi Vũ 221:
Phi Đoàn di tản từ Biên Hòa về TSN
trong đêm 27 tháng 4, khi phi trường bị pháo kích. Chiều 29 tháng
4, Trung tá Nguyễn văn Trọng, PĐT tuyên bố giải tán Phi Đoàn. 13
trực thăng của PĐ bay được ra Hạm đội HK. Trong đoàn di tản còn
có các Đại tá Phước, Đại tá Vy (Sư Đoàn phó SĐ1KQ) (Tâm tư Lôi
Vũ–52, Van Nguyên).
Phi Đoàn Lôi Thanh 237 (Chinook CH–47):
Ngày 29 tháng 4, lúc 4:00g sáng, 4 trực
thăng Chinook CH–47 đậu song song với nhau trước phi cảng Hàng
Không dân sự. Các nhân viên phi hành chờ quyết định của Thiếu tá
Nguyễn văn Ba, Phi Đoàn phó, nhưng ông vẫn trì hoãn chờ PĐ trưởng
(Trung tá Ch.) còn đang kẹt ở Biên Hòa. Các sĩ quan tham mưu của
PĐ đều vắng mặt. Sau đó, ông quyết định di tản 4 phi cơ khả dụng
đi Vũng Tàu. Khi 4 phi cơ vứa đáp xuống Vũng tàu thì phi trường
này cũng vừa bị pháo kích. Chỉ 3 phi cơ bay về Cần Thơ, một chiếc
đã tự tách khỏi hợp đoàn. 3 phi cơ đáp xuống Mỹ Tho, 1 bay trở
lại Sài Gòn để đón gia đình, khi trở lại Mỹ Tho, phi cơ bị trục
trặc nên đành bỏ lại nơi bờ sông. Hai chiếc còn lại cất cánh lúc
2 giờ trưa, bay ra hạm đội HK thả người xuống chiến hạm Kirk, và
phi công “ditching” để sau đó được vớt (Chuyến bay cuối cùng
–Nguyễn văn Ba– Lý Tưởng Úc châu, số kỷ niệm Ngày Không Lực
1/7/2011).
O–1
Birđ Dog (L–19) đáp trên Hàng Không Mẫu hạm
Một trường hợp đặc biệt nhất của cuộc
di tản, được ghi vào quân sử Hoa Kỳ, phi cơ được lưu giữ tại Viện
bảo tàng là trường hợp dùng L–19 đáp xuống Hàng không Mẫu hạm
Midway của Thiếu tá Lý Bửng, sĩ quan trưởng phòng hành quân của
PĐ Sao Mai 114/KĐ62CT/SĐ2KQ.
Việc O–1 đáp trên Hàng không Mẫu hạm
đang di chuyển là chuyện không thể tưởng tượng nổi, ngay cả với
các phi công Hoa Kỳ và những chuyên viên thiết kế máy bay của
hãng Cessna.
Điều gây “kinh ngạc” hơn nữa là trên phi cơ còn có thêm 6 người
(vợ và 5 đứa con) ngồi chật cứng trên ghế sau.
Phi công Lý Bửng kể lại như sau (Chuyến
bay về vùng tự do của KQ Lý Bửng – Đặc san Lý Tưởng số 02/2010):
“Sáng 29 tháng 4, tôi và Hường, Nhị
cùng bay chiếc O–1 này ra Côn Sơn. Vợ con tôi đã ra Côn Sơn bằng
phương tiện trực thăng trước, hình như của PĐ215. Chiếc O–1 này
tình trạng máy tốt, chỉ có vô tuyến là không hoạt động được. Tôi
cất cánh từ TSN trong lúc phi trường đang bị pháo kích. Chúng tôi
quyết định bay ra Côn Sơn vì không rõ tình hình Cần Thơ.
Đêm nghỉ tại Côn Sơn, chúng tôi chưa
biết chắc sẽ đi Thái bằng phi cơ gì. Sáng 30 tháng 4, có lệnh đầu
hàng, tôi sắp xếp cho tất cả anh em PĐ114 trật tự lên các C–123
và C–130 đi Thái Lan. Tôi và gia đình dự trù sẽ đi chiếc C–123
sau cùng, nhưng chiếc này bị hư không cất cánh được. Khoảng 130
người còn lại đành chờ tàu HQ. Cảnh tượng xuống tàu rất hỗn loạn.
Tôi quyết định dùng chiếc O–1 mà tôi đã bay ra Côn Sơn hôm qua để
chở cả gia đình bay đi... nhưng chưa biết đi đâu? Trời rất xấu,
mưa mù mịt, tôi bay rase motte trên mặt biển, khoảng từ 500 đến
700 bộ. Trong lúc bay tôi thấy nhiều trực thăng bay ra biển, tôi
cũng lấy hướng bay này... cho đến khi thấy chiếc hàng không mẫu
hạm.
Chiếc O–1
bị hỏng hệ thống vô tuyến nên tôi không thể liên lạc được với ai.
Tôi dùng phương thức bay qua đài kiểm soát của chiến hạm, lắc
cánh để cho biết hệ thống vô tuyến bị hỏng và xin đáp. Dưới mẫu
hạm bắn hỏa pháo đỏ liên tiếp ra dấu cho biết là họ không chấp
thuận cho hạ cánh, có lẽ vì không còn chỗ? Tôi lấy bản đồ, giấy
tờ trong máy bay viết chữ xin hạ cánh vì phi cơ còn có vợ con...
và buộc vào botte để thả xuống sàn tàu. Sau đó nhân viên trên tàu
xô một số trực thăng xuống biển và dọn các trực thăng khác để lấy
chỗ cho tôi đáp. Phi đạo họ dành cho tôi đáp là cạnh ngắn, khoảng
150 feet.”
Sau
một lần đáp thử để ước lượng các thông số kỹ thuật, như gió
ngang, sự di chuyển của mẫu hạm... Phi công Lý Bửng đã đáp thành
công xuống Mẫu hạm Midway trước sự kinh ngạc và thán phục của
nhân viên thủy thủ trên tàu.
Trong “chiến dịch di tản Frequent
Wind”:
Hàng
không mẫu hạm Midway đã tiếp nhận khoảng 60 trực thăng của
KQVNCH, trong đó có chiếc UH–1 của Tướng Kỳ và cả vài trực thăng
của Air America.
Chiến hạm USS Kirk, trong thời gian yểm
trợ đoàn tàu di tản của HQVNCH đã là nơi đáp cho 16 chiếc trực
thăng của KQVNCH. Sàn đáp của chiến hạm chỉ dành cho một trực
thăng nên sau khi đáp, trực thăng phải đẩy xuống biển để lấy chỗ
cho chiếc kế tiếp. Ngoài 16 chiếc UH–1, còn có 1 Chinook sau khi
thả người trên sàn đáp đã phải đáp xuống biển, phi công được cứu
thoát. Số người trên các trực thăng đáp xuống USS Kirk lên đến
gần 200 người. USS Kirk chở được về Subic Bay 3 chiếc UH–1.
Các chiến hạm khác như Blue Ridge,
Mobile (LK 115)... đều tiếp nhận các trực thăng của KQVN.
Tài liệu của Air America ghi nhận một
số trường hợp các phi công VN dùng súng “tạm mượn” phi cơ của Air
America để bay ra Hạm đội Hoa Kỳ: Chiếc UH–1H (69–16715) của Air
America mang dấu hiệu ICSS (Ủy Ban Liên hợp 4 bên) đã do phi công
VN bay ra đáp tại Chiến hạm Blue Ridge trưa ngày 29/4. Tất cả có
6 chiếc trực thăng bị phi công VN mượn tạm, trong đó 5 chiếc loại
UH–1 và một chiếc Bell 204B (?), chiếc Bell này sau đó đáp trên
USS Kirk. (Air America in South Viet Nam: The Collapse. Tác giả
Joe Leeker)
Số
phận những phi cơ đến được Utapao:
Ngay khi các phi cơ của KQVNCH đáp
xuống Utapao, vừa ngừng bánh, tắt máy... các nhân viên phi đạo
lập tức sơn lại cờ, chuyển từ VNCH sang thành máy bay của Hoa Kỳ.
Người Thái không muốn “chứa chấp” những người Việt vừa phải bỏ
nước ra đi nên HK đã phải lập cầu không vận, dùng các C–141 để
đưa người tỵ nạn sang Guam.
Một trục trặc nhỏ đã xảy ra: 65 người,
tất cả trên cùng một chuyến C–130 đến Utapao đã đòi trở về VN
dưới sự lãnh đạo của Trung úy Cao van Le (?), những nhân viên
KQVN này khi bay khỏi TSN, không biết là họ sẽ phải biệt xứ,
trong khi gia đình còn kẹt lại tại VN, và dọa sẽ tự tử nếu không
được như ý. Một Đại tá KQVN và một Tuyên úy QĐHK đã giúp điều
đình để giải quyết vấn đề và còn 13 người cương quyết đòi về...
Sau cùng cả 13 người đã được chích thuốc ngủ để đưa lên C–141 đi
Guam.
CSVN đã
lên tiếng đòi hỏi chủ quyền về những máy bay tỵ nạn tại Thái và
Hà Nội đã đòi đưa một phái đoàn đến Thái để kiểm kê các phi cơ.
Chính quyền Thái, do áp lực của Hà Nội đã đòi “tạm giữ” các máy
bay đang ở Utapao. Tướng Aderholt cho biết “các phi cơ này thuộc
quyền sỡ hữu của HK theo một điều khoản có ghi trong Thỏa ước
Viện trợ Quân sự Mỹ–Việt” nhưng chưa chắc Thái đồng ý nên ông tìm
cách chuyển các phi cơ khỏi Thái càng nhanh càng tốt. Trước hết,
Aderholt “tặng” cho Tư lệnh KQ Thái 5 chiếc F–5 (để mua chuộc
giới quân sự Thái, thật ra Aderholt không có quyền nhưng trước
chuyện đã rồi HK khó lấy lại được 5 phi cơ này). Và ngay khi Hàng
không mẫu hạm Midway ghé một Căn cứ HQ Thái gần Utapao ngày 5
tháng 5... khoảng 140 phi cơ đủ loại đã được chở ra khỏi Thái
(trong số này có lẽ gồm cả một số phi cơ, trong tổng số 93 chiếc
của Không lực Khmer đã bay sang Thái khi Nam Vang thất thủ). 4
chiếc Skyraiders được Aderholt cho bay đi, cất giấu tại Căn cứ
Takhli. Mẫu hạm Midway đã chở về Guam 101 phi cơ của KQVNCH,
trong đó có 21 chiếc F–5E.
Theo “Escape to Utapao” một chiếc
C–123K được đưa ra khỏi Thái (số đuôi 54–00592). Chiếc này hiện ở
Phi trường Avra Valley và không ai biết về trường hợp này. (Theo
danh mục trong Flying Dragons trang 164 thì chiếc này của
KQVNCH).
Tài
liệu của Hải Quân Thái ghi nhận: trong danh mục phi cơ thuộc HQ
Thái có một số phi cơ “cũ” của KQVNCH như:
– C–47A (43–48101, VNAF)
– VC–47D (43–48777, VNAF “EY”
– AC–47D
(43–49095, VNAF “EK”
– RC–47 (43–49701,
VNAF) và (43–49925, VNAF “EF”) và (44–76418, VNAF “EB”)
– EC–47 P (45–1044, VNAF “WA”).
Ngoài ra còn 3 chiếc U–7 mang các số
đuôi 71–1438; 71–1442 và 7–1455 được ghi là VNAF.
Trần Lý
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Biên Hùng chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, November 28,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang