Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút Ký
Chủ đề:
lính kể chuyện chiến tranh
Tác giả:
KQ Phạm Ngọc Sang
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Cộng
quân tấn công căn cứ Không Quân Phan Rang và trung tâm thị
xã:
Ngày 16/4/1975, Cộng quân đã mở cuộc tấn
công cường tập vào vị trí phòng ngự của lực lượng Dù và Địa
Phương Quân vòng quanh căn cứ Không Quân đồng thời pháo kích
vào khu vực phi cơ đậu và phi đạo. Cùng lúc đó, Cộng quân
tấn công mạnh vào thị xã Phan Rang.
Trưa ngày
16/4/1975, thị xã Phan Rang nằm trong tay Cộng
quân. Tại bộ Tư lệnh mặt trận Phan Rang đặt trong căn cứ
Không Quân, Cộng quân xua quân tiến sát đến vòng đai phi
trường, Trung tướng Nghi, Tư lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 3,
và Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân,
cho lệnh các sĩ quan và đơn vị trú phòng tùy nghi phân tán.
Sau hàng loạt pháo kích bắn phá căn cứ phi trường, doanh
trại, và hệ thống công sự phòng thủ, Cộng quân cho bộ binh
và thiết giáp đánh thẳng vào căn cứ. Trung tướng Nguyễn Vĩnh
Nghi và Chuẩn tướng Sang đã bị Cộng quân bắt sau đó.
15 Ngày Tử Thủ Phan Rang:
Nhớ lại
suốt hạ tuần tháng 3 năm 1975, sau khi có lệnh bỏ Huế và Đà
Nẵng, các đơn vị ta cứ lần lượt tháo lui, làm các tỉnh
thành, quận lỵ phải rút theo, tạo ra cảnh đổ vỡ tan thương
cho không biết [bao]
nhiêu gia đình quân nhân cũng như dân chính. Tốc độ rút lui
nhanh hơn tốc độ truy đuổi. Các đơn vị VC đến tiếp thu,
không bị đánh chận nên cứ ung dung tiến vào thành phố đã bị
bỏ ngỏ.
Đến khi vào tiếp thu Nha Trang, chúng vẫn cứ
tin rằng Phan Rang cũng đã bỏ chạy, nên tiếp tục cho các
toán tiền thám cứ tiến vào. Ngạc nhiên, và cũng là lần đầu
tiên bị ngăn chận trước khi đến Phan Rang, chúng bèn tháo
lui về hướng Bắc, vào ẩn nấp trong vùng Ba Ngòi chờ viện
binh. Mãi đến ngày 16/4/1975, khi tung ra toàn lực áp đảo,
chúng mới vào được Phan Rang. Vào thời điểm các đại đơn vị
ta rút lui mà không có một sự kháng cự đáng kể nào để làm
khó khăn và thiệt hại cho đối phương, thì căn cứ Phan Rang
đã anh dũng chống cự, và đã làm thiệt hại đáng kể cho quân
đội chánh quy Bắc Việt. Chiến trận tại Phan Rang có thể chia
ra làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhứt từ
ngày 1 đến 3/4/1975, là giai đoạn hình thành tuyến
phòng thủ, với Sư Đoàn 6 Không Quân và Tiểu Đoàn 5 Dù thuộc
Lữ Đoàn III Dù cùng một số đơn vị Địa Phương Quân còn lại.
Sư Đoàn 6 Không Quân gồm:
– 3
Phi đoàn A–37, 524, 534, 548
– 1 Phi đội A–1
– 2 Phi
đội tản thương 259–B và 259–C
– 2 Phi đoàn Trực thăng 229
và 235.
Lữ Đoàn III Dù gồm:
–
Bộ chỉ huy
– Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù.
Giai đoạn thứ
hai từ ngày 4 đến 12/4/1975, là giai đoạn củng cố tuyến
phòng thủ, với sự thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân Đoàn
3, với Lữ Đoàn II Dù. Đây là thời gian đem đến ít nhiều lạc
quan trong việc ổn định tình hình sau nhiều ngày xáo trộn.
Một số đơn vị nhỏ của địch đã hoàn toàn bị đẩy lui khỏi đèo
Du Long rút về ém quân tại khu Vườn Dừa, Cam Lâm đợi tăng
viện.
Lữ Đoàn II Dù gồm:
– 3
Tiểu Đoàn 3, 7, 11
– 1 Tiểu Đoàn Pháo binh
– Các đại
đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp
vận.
Giai đoạn thứ ba từ 13 đến 16/4/1975,
là giai đoạn của trận chiến quyết định, với các đơn vị gồm:
– Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân gồm 3 Tiểu Đoàn 31, 36, và
52.
Tăng cường cho Bộ Tư Lệnh Tiền phương:
Toán Thám sát/Nha Kỹ thuật.
Sư Đoàn
2 Bộ binh gồm:
– 2 Trung Đoàn 4 và 5
– 2
Pháo đội gồm 10 khẩu 105ly
– 2 Chi đội Thiết Vận Xa gồm
10 chiếc.
Lực lượng Hải Quân gồm:
– Duyên Đoàn 27
– 2 Khu trục hạm
– 1 Giang pháo
hạm
– 1 Hải vận hạm và một số tàu yểm trợ.
Trong hai ngày 13 và 14, Lữ Đoàn II Dù được lịnh rút
về Sài Gòn. Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân và Sư Đoàn
2 Bộ binh ra thay. Vừa thay quân vừa chiến đấu, và phòng
tuyến Phan Rang bị tràn ngập vào trưa ngày 16/4/1975, bởi 2
Sư Đoàn VC325 và 3 Sao vàng, cùng với các đơn vị của Đoàn
968VC. Trong ngày 14/4/1975, ngoài Duyên Đoàn 27 đã có mặt
tại Phan Rang, Hải Quân Sài Gòn tăng cường khẩn cấp 2 Khu
trục hạm, 1 Giang pháo hạm, 1 Hải vận hạm cùng một số tàu
yểm trợ.
Lực lượng địch: Theo tù
binh thuộc Đoàn Hậu cần 57 địch bị bắt tại đèo Du Long ngày
9/4/1975, các cấp chỉ huy địch ngỡ Phan Rang đã bỏ chạy, nên
tiếp tục cho các bộ phận truy đuổi, cứ yên tâm tiến vào tiếp
thu. Bị đánh đuổi, chúng lui về lẩn trốn vùng Vườn Dừa, Ba
Ngòi chờ đại quân của 2 Sư Đoàn 3 và 325 VC từ phía Bắc đến.
Các nhóm du kích vẫn hoạt động gần phi trường. Đoàn 968 VC
vừa ghi nhận có mặt (xác nhận bởi Đại tá Nguyễn Thu Lương và
Trung tá Phạm Bá Mạo khi bị đơn vị này bắt tại mặt trận).
1. HÌNH THÀNH TUYẾN PHÒNG THỦ
Kể từ ngày 1/4/1975, sau khi Nha Trang bỏ
ngỏ, căn cứ Phan Rang đương nhiên trở thành căn cứ tiền
tuyến của Miền Nam. Buổi tối cùng ngày, Trung tá Lê Văn
Phát, Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn III Dù cùng Bộ chỉ huy Lữ Đoàn
và một phần của Tiểu Đoàn 5, trên đường rút từ Khánh Dương
xin vào để chờ phi cơ về Sài Gòn. Căn cứ tôi lúc bấy giờ rất
là trống trải vì một số lớn quân nhân Địa Phương Quân canh
gác vòng đai đã bỏ nhiệm vụ. Trong căn cứ, một số quân nhân
trẻ nổ súng loạn xạ vì lo sợ vu vơ. Ngoài thị xã, Tỉnh
trưởng đã rời nhiệm sở, dân chúng thì ngơ ngác, phân vân.
Trên Quốc lộ 1 và 11 hướng về Sài Gòn, từng đoàn xe dân sự
và quân sự chật ních người rầm rộ tiếp nối nhau chạy giặc.
Tệ hại hơn nữa là Đà Lạt cũng bỏ chạy, và đoàn xe của Trường
Võ Bị Đà Lạt đang theo Quốc lộ 11 trên đường đi Bình Tuy
cũng vừa chạy ngang căn cứ. Lúc này thực sự, căn cứ tôi đang
trở thành tiền đồn và đang ở trong tình trạng hết sức cô
đơn.
Chuẩn bị tìm phương kế giữ an toàn, tôi chỉ thị
hạn chế sự ra vào căn cứ để tránh xáo trộn do toán người
tháo chạy mang đến. Vì vậy nên khi nghe có đơn vị Dù xin vào
căn cứ, tôi liền hỏi xin lệnh Bộ Tư Lệnh KQ. Được biết đó là
do Bộ Tư Lệnh Dù yêu cầu để Lữ Đoàn III được văo căn cứ như
đơn vị tăng phái phối hợp phòng thủ, tôi mới thuận cho đoàn
quân của Trung tá Phát vào phi trường. Thật là đúng lúc cần
thiết và tôi rất bằng lòng có thêm người để giữ an toàn cho
căn cứ hiện trong tình trạng bỏ ngỏ. Tôi phối họp ngay với
Trung tá Phát để phối trí việc phòng thủ căn cứ với Không
Đoàn Yểm Cứ của Trung tá Phạm Bá Mạo và Trung tá Nguyễn Văn
Thiệt vì căn cứ mênh mông với vòng đai hình vuông mỗi cạnh
6km, mà Liên Đoàn Phòng Thủ chỉ có khả năng phụ trách canh
gác vòng đai gần mà thôi. Dù muốn dù không, căn cứ Không
Quân Phan Rang đã trở thành tiền đồn của Miền Nam mà tôi
đang là người có nhiệm vụ phải chống giữ. Tôi chỉ thị Trung
tá Diệp Ngọc Châu Phụ tá Nhân Huấn phải theo dõi sát vấn đề
nhân viên, để đừng xảy ra tình trạng bung chạy, vì quá hoang
mang, giao động trước việc, có thể chiến đấu như bộ binh.
Trung tá Phát sử dụng Đại đội Trinh sát Dù, bung ra kiểm
tra nội vi căn cứ và đánh đuổi một vài tên du kích mon men
vào Đồn Đại Hàn gần cổng số 2 của căn cứ. Về phần Không
Quân, các cấp phi hành và kỹ thuật để am hiểu tình hình mới,
chấp nhận thực trạng và hết mình nỗ lực chiến đấu vì nhu cầu
phòng thủ. Vào buổi chiều, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh
Quân Đoàn 2 ghé căn cứ thăm hỏi tình hình. Sáng hôm sau, rời
căn cứ bay về Sài Gòn.
Ngày 2/4/1975,
Sài Gòn tăng cường 1 đơn vị Dù. Trung tá Phát liền sử dụng
để kiện toàn an ninh cho phi trường và phối hợp với các đơn
vị Địa Phương Quân trong việc giữ an ninh cho thị xã. Lúc
2:00g chiều, tôi bay xuống Phan Thiết đón Trung tướng Nguyễn
Văn Toàn Tư lệnh Quân Đoàn 3. Khi gặp tôi, ông nói sở dĩ
muốn gặp tôi tại Phan Thiết là để xác nhận sự hiện hữu của
Phan Rang, mà giờ này lẽ ra cũng đã bỏ chạy như Nha Trang và
Cam Ranh rồi. Sau khi nghe tôi thuyết trình tình hình, Trung
tướng Toàn nói:
– Kể từ buổi thị sát này, Phan Rang
sáp nhập vào Quân Đoàn 3, trở thành cứ điểm cực Bắc của Quân
Đoàn. Cùng ngày tôi nhận được lệnh Bộ Tổng tham mưu chỉ định
tôi phụ trách bảo vệ Phan Rang.
Ngày 3/4/1975,
TĐ5 Dù để trạm kiểm soát các khu vực cạnh thị xã và nội vi
phi trường. Từ Ba Râu đến Thị xã, dân chúng bớt hoảng sợ mặc
dầu sanh hoạt vẫn còn rụt rè. Trong căn cứ Không Đoàn Yểm Cứ
đã chấn chỉnh an ninh nội bộ khiến cho căn cứ lần lần lấy
lại sinh hoạt bình thường.
Đại tá Lê Văn Thảo Không
đoàn trưởng Không Đoàn 92 Chiến Thuật với 3 phi đoàn A–37,
524 Thiên Lôi, 534 Kim Ngưu, và 548 Ó Đen đã sát cánh cùng
đoàn viên xuất kích đêm ngày rất hữu hiệu. Trung tá Lê Văn
Bút Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật với 2 phi
đoàn trực thăng 229 và 235, 1 phi đoàn Quan sát 118, và một
bộ phận của Phi đoàn 530 A–1 với Phi đội tản thương 259–C,
đã bay thi hành nhiều công tác khó khăn nguy hiểm. Trung tá
Đỗ Hữu Sung và đoàn kỹ thuật gan dạ, chu toàn mọi công tác
sửa chữa và trang bị dưới làn pháo kích ngày đêm của địch.
Theo tin tức của các quân nhân ta từ các nơi ghé xin
phương tiện về Sài Gòn, thì VC đang xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba
Ngòi. Tôi liền cho phi cơ quan sát bao vùng và chỉ điểm cho
phi cơ A–37 đánh phá. Cộng thêm các khó khăn, việc tiếp tế
nhiên liệu đang gặp trở ngại vì xe bồn không cung cấp như
bình thường, bởi cảng Cam Ranh đã bị địch chiếm. Vì vậy hàng
ngày, tôi phải nhận tiếp tế từ Sài Gòn bằng phi cơ C–130,
một số lượng nhiên liệu tối thiểu cho hành quân mà thôi. Để
tránh hỗn loạn khi bị pháo kích dồn dập, tôi cũng phải cho
nửa số phi cơ về trú đêm ở Sài Gòn, để sáng hôm sau trở ra
với đầy nhiên liệu. Trong ngày, khi biết có tàu Mỹ đang lảng
vảng ngoài vịnh Phan Rang để chở một số người, tôi liền cử
Trung tá Lý Văn Bút dùng trực thăng đáp trên một trong những
tàu đó để chào hỏi và cho biết hiện tình ở Phan Rang. Tiếp
đón và trả lời những điều muốn biết trong lối 1/2 giờ, Hạm
trưởng thúc giục Trung tá Bút rời tàu. Xuyên qua lời trình
thuật của Trung tá Bút, tôi đã hiểu rõ ràng là trong cấp
thời, Mỹ không còn có ý định dính líu gì nữa đến cuộc chiến
đang diễn tiến hiện nay.
2. BỘ TƯ LỆNH TIỀN
PHƯƠNG
Phan Rang nằm vào phía Nam của một
thung lũng hẹp bao bọc bởi các dãy núi về hướng Tây, Bắc,
và Đông–Bắc, có các cao điểm và đèo Du Long rất thuận tiện
cho việc phòng ngự. Ngày đêm phi cơ trong căn cứ liên tục
quan sát bao vùng và oanh tạc ngay các mục tiêu bị phát
hiện. Các đơn vị VC đã tiến quá xa với hậu tuyến của họ. Họ
chỉ mới tiếp thu Nha Trang và Cam Ranh. Với mức độ hành quân
10 cây số ngày hoặc gia tăng với phương tiện chiếm được thì
không thể tập trung tấn công ngay được. Có thể có những phần
tử lẻ tẻ đã xâm nhập và đang ém quân, nhưng ngoài ra Phan
Rang chưa có nguy cơ bị tấn công ngay bởi quân chánh quy.
Muốn tấn công, có thể chỉ có từ 2 hướng: 1 là từ hướng Bắc,
theo QL1 tiến qua đèo Du Long thẳng vào thị xã, và 2 là từ
hướng Tây tấn công từ Khrông Pha qua Tân Mỹ hướng về thị xã
Phan Rang. Ngoài ra còn có một ít đường mòn từ Vườn Dừa, Ba
Ngòi chạy theo hướng Nam Tây–Nam sát căn cứ KQ hướng về Tân
Mỹ có thể chọn để xâm nhập được. Trong lần bay quan sát
chiều ngày 14/4/1975, tôi thấy một vài thiết vận xa địch
trên những đường mòn này vào hướng Tây–Bắc của căn cứ, cách
khoảng 8km. (Đương nhiên, khi bị phát hiện, chúng đều lẩn
trốn trước khi bị oanh tạc).
Thị xã và Phi trường
Phan Rang nằm vào phần Nam của cái thung lũng đó. Quốc lộ 1
và đường xe lửa chạy song song xuyên qua đèo Du long về thị
xã, tách ra tại Thôn Ba Râu, chạy sát phi trường rồi tiến về
Nam không qua thị xã. Từ thị xã đến Du Long khoảng 15km, với
Ba Râu khoảng 9km, và với Cà Đú khoảng 4km. Từ Cà Đú đến thị
xã, mặt đất bằng phẳng. Phi trường Phan Rang rất rộng, hình
vuông, mỗi cạnh trên dưới 6km, nằm giữa QL1 và QL11, và sát
với đường xe lửa về hướng Đông, cách thị xã 5km và Nha Trang
khoảng 80km. Có 2 đường bay song song, 1 bằng xi măng cốt
sắt và 1 bằng vỉ nhôm dài 10,000 bộ, rộng 150 bộ. Có đầy đủ
cơ sở cho kỹ thuật, tiếp liệu với các bồn xăng và kho bom
theo tiêu chuẩn an ninh tối tân. Việc phòng thủ bao gồm 60
chòi gác, với 2 cổng chung quanh căn cứ do 7 đại đội Địa
Phương Quân phụ trách.
Ngày 4/4/1975,
Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chánh thức đến Phan Rang cùng
với toán truyền tin và chuyên viên, nhận trách nhiệm phòng
thủ Phan Rang, và thiết lập Bộ chỉ huy Tiền Phương trong Căn
cứ của Sư Đoàn 6 Không Quân, nằm vào lối 5km Bắc Tây–Bắc của
Thị xã Phan Rang. Ông cho biết là đã được Thượng cấp chấp
thuận gởi ra một số đơn vị chưa bị ảnh hưởng của việc rút
quân để giữ Phan Rang. Bởi tin tưởng vào lời hứa hẹn này nên
ông rất vui lòng đảm nhận chức vụ. Vì địa thế của Phan Rang
có nhiều thuận lợi cho việc phòng thủ, nên Trung tướng Nghi
quan niệm: “Phải chống giữ mặt Bắc từ Quận Du Long, mặt Tây
từ Quận Tân Mỹ, và phải giữ an toàn cho căn cứ Không Quân,
cũng như giữ an ninh cho Thị xã phối hợp với một số đơn vị
Địa Phương Quân còn lại.”
Theo quan niệm đó, Trung
tướng Nghi thảo ra kế hoạch phòng thủ Phan Rang với một lực
lượng cỡ 2 Sư Đoàn mới có thể trong tạm thời phòng thủ được.
Đó là:
– Mặt Bắc trên Quốc lộ 1 trấn giữ các điểm cao
tại đèo Du long với một dải chiến tuyến hùng hậu tại Du Long
cùng các tuyến phụ tại Ba Râu và Ba Tháp để ngăn chận mọi
cuộc tấn công hướng vào thị xã hoặc vào căn cứ.
– Mặt
phía Tây, trên Quốc lộ 11, án ngữ tại vùng Tân Mỹ, một chiến
tuyến để chận địch và bảo vệ mặt Tây và Nam của phi trường.
– Bảo vệ an ninh cho thị xã và phi trường do các đơn vị
chánh quy phối hợp với Địa Phương Quân phụ trách.
Ngày 5/4/1975, trong ngày, thỉnh thoảng vẫn
có vài quân nhân Không Quân thất lạc trình diện xin phương
tiện về Sài Gòn và luôn xác nhận là vẫn có 1 số VC xuất hiện
ở Vườn Dừa, Ba Ngòi. Chúng nói vì có quân Dù của ta ở phía
trước nên chúng còn nấp chờ chi viện. Ngoài ra Tướng Times,
phụ trách an ninh cho Tòa Đại sứ Mỹ, đến thăm và nói sẽ sắp
xếp cho người của ông thường xuyên ở lại đây để chuyển tin
ngay về tòa đại sứ. Trong mấy ngày qua, tôi đã điều hành
công việc như là cấp có trách nhiệm ở Phan Rang, ngoài trách
vụ chuyên môn là phụ trách Sư Đoàn 6 KQ. Vô tình tôi đã biến
căn cứ Không Quân Phan Rang thành một cứ điểm phòng thủ tiền
tiêu của cuộc chiến tranh rất phức tạp này.
Ngày 6/4/1975, sinh hoạt trong căn cứ Không Quân đã
có sự bình thường và các phi vụ đều được thi hành như thông
lệ. Thêm một số quân nhân của 7 Đại đội Địa Phương Quân phụ
trách canh gác vòng ngoài phi trường tiếp tục trở về. Quân
địch sau khi chiếm Nha Trang, liền vội vã đến tiếp thu Cam
Ranh. Toán viễn thám của họ đã chạy theo tiếp thu, có thể đã
xâm nhập từ Vườn Dừa, Ba Ngòi, qua đồi Du Long, xuống về
phía Nam. Các Sư Đoàn xâm nhập chưa thấy xuất hiện. Chỉ biết
có đơn vị F10 hoặc 968 đang ẩn núp xâm nhập lẻ tẻ.
Ngày 7/4/1975 là ngày đáng ghi nhớ. Đại tá
Trần Văn Tự, Tỉnh trưởng Phan Rang, vừa trở về với một số
công chức, và đang tập họp các lính Địa Phương Quân và
Nghĩa Quân. Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn
II Dù, với 3 Tiểu Đoàn 3, 7, 11, và 1 Tiểu Đoàn Pháo binh
cùng các Đại đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin,
Yểm trợ Tiếp vận lần lượt đến căn cứ. Trung tướng Nghi liền
giao cho nhiệm vụ chiếm các cao điểm và tổ chức tuyến phòng
thủ tại Du Long mặt Bắc và tại Tân Mỹ mặt Tây. Tập trung lực
lượng khi cần để chận không cho địch vượt qua Du Long. Sử
dụng Tiểu Đoàn 5 Dù của Trung tá Phát hiện có mặt tại căn cứ
giữ an ninh cho phi trường.
Ngày 8/4/1975,
khi đơn vị cuối cùng của Lữ Đoàn II Dù đến căn cứ, Đại tá
Lương liền điều động giải tỏa đoạn Quốc lộ 1, từ Thị xã đến
Du Long, qua các Thôn Cà Đú, Ba Tháp, Ba Râu, và Du Long,
với 2 Tiểu Đoàn 11 và Tiểu Đoàn 3. Trên đường tiến quân,
Tiểu Đoàn 3 Dù đuổi địch chạy tán loạn khỏi Ba Tháp và Ba
Râu. Địch tổn thất khoảng 1 đại đội với nhiều vũ khí. Tiểu
Đoàn 11 được trực thăng của Sư Đoàn 6 Không Quân, đưa đến
chiếm Du Long, và các cao địa trọng yếu kiểm soát đường đi
Du Long. Bắt sống tại đèo Du Long, 7 xe tiếp tế thuộc đoàn
hậu cần địch cùng một số quân lính VC, vì ngỡ Phan Rang đã
bị chúng chiếm, nên cứ ngang nhiên di chuyển. Đồng thời, tìm
thấy bộ đồ bay của Trung úy Lý Tống, thuộc Không Đoàn 92
Chiến thuật/Sư Đoàn 6 Không Quân, còn để tại vùng đèo Du
Long, khi phi cơ A–37 của mình vừa bị bắn rơi, lúc cùng phi
đội oanh tạc khu Vườn Dừa. (Trung úy Lý Tống là người đã thả
truyền đơn chống cộng tại Sài Gòn năm 1992, tại Cuba trong
năm 2000, và tại Sài Gòn cuối năm 2000, nhân dịp Tổng thống
Bill Clinton đến thăm Việt Nam).
Tại phía Tây, phần
lớn của Tiểu Đoàn 5 Dù đã trấn ngữ đầu cầu hướng về Tân Mỹ,
ngừa được sự tấn chiếm từ hướng này. Trong căn cứ, toán
Trinh sát Dù cũng lại đuổi khỏi đồn Đại Hàn một số quân nhân
địch vừa lén lút xâm nhập. Tiểu Đoàn 7 trừ bị giám sát việc
giữ an ninh trong căn cứ Không Quân với Tiểu Đoàn 5 của Lữ
Đoàn III Dù. Kết quả là trong ngày này, Phan Rang đã hoàn
toàn kiểm soát được tình hình vốn bị trì trệ từ khi Nha
Trang và Cam Ranh tháo chạy. Buổi sáng, lúc Trung úy Nguyễn
Thành Trung vừa oanh tạc Dinh Độc Lập, thì Bộ Tư Lệnh Không
Quân bảo tôi phải cho ngăn cản và bắt đáp, nếu Trung bay qua
Phan Rang. Lệnh đã được cấp tốc thi hành, và Trung đã không
bay qua đây. Đặc biệt Cha giáo xứ Hộ Diêm, với niềm phấn
khởi, đến thăm Trung tướng Nghi để hoan nghênh quân Dù đã
giải tỏa được Phan Rang. Điểm đáng đề cao là chính Cha, cùng
với lực lượng Nghĩa Quân và Nhân dân tự vệ của giáo xứ, đã
thành công bảo vệ địa phận mình chống lại các cố gắng len
lỏi xâm nhập của địch.
Ngày 9/4/1975,
Trung tá Lê Văn Bút, Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến
Thuật, bay chỉ huy 40 trực thăng HU với 12 trực thăng võ
trang cơ hữu cùng 8 trực thăng Chinook từ Biên Hòa biệt
phái. Mục đích là để lên Khánh Dương tìm kiếm và chở về các
toán còn kẹt lại của Lữ Đoàn III Dù, gồm 2 Tiểu Đoàn 2 và 6
cùng một số quân của Tiểu Đoàn 5, lúc Nha Trang rút chạy.
Cùng đi có Trung tá Trần Đăng Khôi, Lữ đoàn phó Lữ Đoàn III
Dù phụ giúp tìm kiếm, chọn bãi đáp để rước toán thất lạc này
trở về. Bấy giờ khu vực Khánh Dương đã trở thành vùng địch
kiểm soát, nên tôi cho bay theo 2 phi đội A–37 yểm trợ. Kết
quả là đoàn trực thăng đã mang về đến căn cứ Phan Rang, hơn
600 người mà phần lớn là quân nhân của các Tiểu Đoàn 2 và 6,
cùng một số thất lạc của Tiểu Đoàn 5 với một số ít dân sự
chạy loạn đi theo. Toán này vào buổi chiều được chở toàn bộ
vào Sài Gòn. Cuộc hành quân trực thăng vận thành công tốt
đẹp, đem về được số quân nhân thất lạc của Lữ Đoàn III Dù.
Thật đúng là một chuyến bốc quân lịch sử. Đoàn trực thăng 60
chiếc đã phải bay qua vùng địch chiếm với mọi hiểm nguy và
bất trắc khôn lường.
Trong thị xã, Đại tá Trần Văn Tự
Tỉnh trưởng tiếp tục chấn chỉnh các phần vụ hành chánh, đồng
thời lo chỉnh đốn hàng ngũ các đơn vị Địa Phương Quân. Ngoài
thị xã, dân chúng hãy còn e dè ở lại, nhưng không tuôn chạy
nhiều như những ngày trước. Cuộc sống có chỉ dấu trở lại
bình thường, tạo nhiều phấn khởi.
Các ngày 10
và 11/4/1975 có được sự yên tĩnh trong toàn bộ vùng
Phan Rang. Bộ Tư lệnh tiền phương đang trù tính kế hoạch
chiếm lại Cam Ranh để sau đó lấy lại Nha Trang. Địch sau khi
bị đuổi khỏi các địa điểm xâm nhập đang tập trung ém quân
tại vùng Vườn Dừa ở Cam Lâm chờ đợi viện quân.
Ngày 12/4/1975 là ngày khởi đầu có bất trắc
trong việc phòng thủ Phan Rang.
Lệnh từ Quân Đoàn 3
cho biết sẽ rút Lữ Đoàn II Dù và Tiểu Đoàn 5 Dù vào ngày
13/4/1975, và thay bằng Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân với 3
Tiểu Đoàn, và Sư Đoàn 2 Bộ binh với 2 Trung Đoàn, cùng 2 Chi
đội Pháo và Chi đội Thiết vận xa. Liên Đoàn 31 Biệt Động
Quân vừa rút khỏi Chơn Thành, sau nhiều ngày tác chiến gian
khổ với nhiều tổn thất, chưa kịp nghỉ dưỡng quân, thì được
tung ra tiền tuyến với quân số thiếu thốn trầm trọng. Sư
Đoàn 2 Bộ binh cũng vừa tháo chạy từ Quảng Ngãi, vừa tập
trung tại Bình Tuy và đang được bổ sung quân số thì được
lịnh phải ra Phan Rang, trong khi cả đơn vị hãy còn hoang
mang, dao động. Vì chưa kịp bổ sung thiết bị, đơn vị này
phải thu lượm một số pháo và thiết vận xa để mang theo cùng
với các Trung Đoàn ra Phan Rang bằng đường bộ.
Bộ
Tổng tham mưu Phòng 7 vừa bổ sung toán thám sát, vì kiểm
thính phát hiện rộ lên nhiều liên lạc vô tuyến của các đơn
vị địch xung quanh Phan Rang. Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng Tư
lệnh Sư Đoàn Dù và Trung tướng Trần Văn Minh Tư lệnh Không
Quân, cùng đến thám sát công cuộc phòng thủ. Cả hai vị đều
tỏ ý bất đồng về việc điều quân này. Trung tướng Minh nói để
căn cứ Không Quân làm tiền đồn là sai lầm vì khi hữu sự,
dưới lằn đạn pháo thì không thể sửa chữa, trang bị cho phi
cơ có khả năng hành quân như yêu cầu được. Chuẩn tướng Lưỡng
cũng nói, muốn giữ Phan Rang làm bàn đạp để lấy lại Cam Ranh
và Nha Trang, tại sao lại rút đơn vị đang chiến đấu tốt mà
thay bằng 2 đơn vị đã từng vội vã rút quân và còn đang chờ
đợi bổ sung quân số. Trung tướng Nghi cũng bất ngờ vì không
có được những đơn vị như đã hứa trước lúc ra nhận trách
nhiệm phòng thủ Phan Rang.
3. TRẬN CHIẾN
QUYẾT ĐỊNH
Ngày 13/4/1975
là ngày đánh dấu nhiều việc không may xảy đến cho tuyến
phòng thủ Phan Rang. Trong ngày, liên tục toán kiểm thính
Phòng 7 TTM báo cáo có sự hoạt động bất thường của các đơn
vị Sư Đoàn 325 và Sư Đoàn 3 Bắc Việt. Tướng Times của Tòa
Đại sứ Mỹ hấp tấp bay đến, dẫn theo Ông Lewis, chuyên viên
truyền tin, để chuyển về Tòa Đại sứ mọi biến chuyển mới nhứt
của mặt trận. Ông Lewis ở lại, rất tích cực làm việc và rất
bình tĩnh lúc địch dồn dập tấn công. Sau mấy ngày ém quân,
địch bắt đầu chuyển quân từ khu ém quân và khởi sự pháo kích
văo căn cứ Không Quân. Các đơn vị địch đang tìm cách tấn
công các điểm cao ở vùng đồi Du Long và phía Đông Ba Râu.
Đơn vị địch 968 cũng bắt đầu xâm nhập lẻ tẻ từ phía Tây của
căn cứ Không Quân, phối họp với từng đợt pháo kích. Tiếc
thay, trong tình thế như vậy mà cơ cấu phòng thủ phải thi
hành lệnh thay quân đang chiến đấu tốt, bằng 2 đơn vị vừa
mới được bổ sung sau khi bị tổn thất nhiều về trang bị và
tinh thần. Trong khi bộ phận lớn của Lữ Đoàn II Dù, gồm Tiểu
Đoàn 7 với các bộ phận nặng và Tiểu Đoàn 5 của Lữ Đoàn III
Dù rời căn cứ, thì Đại tá Nguyễn Văn Biết, chỉ huy trưởng
Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân và 3 Tiểu Đoàn 31, 36, và 52
cũng vừa từ Biên Hòa tới bằng phi cơ C–130. Quân số Liên
Đoàn gồm khoảng 1,000 người. Các đơn vị liền vội vã đến trám
vào các địa điểm đóng quân của Tiểu Đoàn 11 Dù tại Du Long
và Ba Râu. Tiểu Đoàn 31 trám tại Du Long, Tiểu Đoàn 36 trám
từ Ba Râu đến Cà Đú, và Tiểu Đoàn 52 làm trừ bị. Đang thay
quân thì chạm súng với các toán thăm dò của địch. Cùng lúc,
Trung Đoàn 4 của Sư Đoàn 2 Bộ Binh, quân số khoảng 450
người, từ Bình Tuy theo đường bộ cũng vừa tới, và được giao
trách nhiệm trấn giữ mặt Tây căn cứ và bảo vệ phi trường
thay cho Tiểu Đoàn 5 Dù vừa rời căn cứ.
Theo khuyến
cáo của Bộ Tư lệnh Không Quân, Đại tá Nguyễn Đình Giao, Tham
mưu trưởng Sư Đoàn 6 Không Quân được nhiệm vụ cùng các
chuyên viên về Tân Sơn Nhứt để phụ lo việc quân số và tiếp
liệu cho Sư Đoàn.
Ngày 14/4/1975,
Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh Sư Đoàn 2 Bộ binh, cùng
Trung Đoàn 5 vừa đến với khoảng 450 quân, được giao nhiệm vụ
bảo vệ mặt Nam căn cứ và phi trường vì Lữ Đoàn II Dù đã hết
nhiệm vụ, và đã bàn giao với Trung Đoàn 4 hôm qua. Lực lượng
Pháo binh chỉ có 1 Pháo đội 105ly hiện diện tăng phái cho
Tiểu khu trong đó có 1 Trung đội đóng tại An Phước, phía Nam
phi trường lối 10km. Thị xã được phòng vệ bởi khoảng 1 Tiểu
Đoàn Địa Phương Quân còn lại. Cùng lúc, Chuẩn tướng Trần Văn
Nhựt, theo lệnh, đề cử Đại tá Trương Đăng Liêm Trung đoàn
trưởng Trung Đoàn 4 giữ chức vụ tỉnh trưởng thay Đại tá Trần
Văn Tự. Cũng để dự phòng cho những ngày tác chiến sắp tới,
Bộ Tư lệnh Không Quân cũng vừa gởi đến một phi cơ C–47 để
tăng cường phương tiện hành quân cho Bộ Tư lệnh Hành quân.
Bên ngoài căn cứ, từ sáng sớm, địch lần lượt tung vài
đơn vị cấp Đại đội từ khu ém quân, đánh thăm dò cơ cấu phòng
thủ tại Du Long và Ba Râu. Một trong các đơn vị này đã xâm
nhập được vào cổng số 2 phi trường về phía Bắc, lúc mờ sáng.
Phi cơ trực thăng tuần tiểu phát hiện, và cùng với trực
thăng võ trang, yểm trợ cho một bộ phận của Tiểu Đoàn 11 Dù
đang chờ phi cơ về hậu tuyến, được gởi ra tiêu diệt toán xâm
nhập này. Kết quả địch rút chạy, bỏ lại gần 100 tên bị hạ
với khoảng 80 vũ khí đủ loại, trong đó có 2 súng cối 82ly và
2 khẩu đại bác không giựt 75ly. Ta chỉ có 6 chiến sĩ hy sinh
và 1 thiết vận xa phòng thủ phi trường bị cháy. Trung tướng
Nghi tưởng thưởng ngay huy chương Anh dũng bội tinh cho các
quân nhân hữu công. Khoảng trưa, Tướng Nghi và tôi cùng Đại
tá Lương chạy xe thong thả từ phi trường đến Ba Tháp, Ba
Râu, và Du Long thị sát công việc phòng thủ. Tại Du Long
Tướng Nghi có tập họp và trấn an số Nghĩa Quân có mặt tại
đây.
Tóm lại, mặc dầu hôm nay có các cuộc đánh thăm
dò của địch, mặt trận vẫn đứng vững như những ngày qua.
Ngày 15/4/1975 từ sáng sớm địch liên
tục pháo từng chập vào căn cứ. Buổi chiều khoảng 2:00g có
phái đoàn của Trung tướng Trần Văn Đôn Tổng trưởng Quốc
phòng và Trung tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân Đoàn 3 đến
thị sát mặt trận. Sau khi thăm thị xã, nghe Tướng Nghi
thuyết trình tình hình và ghi nhận các đề nghị, Trung tướng
Tổng trưởng Quốc phòng tỏ vẻ chú trọng đến việc phòng thủ
Phan Rang và hứa sẽ tìm mọi cách bổ sung đầy đủ mọi trang
thiết bị thiếu hụt. Từ chiều trở đi, Trung tướng Nghi liên
tiếp nhận được tin địch sẽ tập trung tấn công đêm nay. Một
trong những công điện của Bộ chỉ huy địch với danh hiệu Sông
Hồng, đóng tại Ba Râu, cho hay địch sẽ tấn công vào Phan
Rang lúc 5:00g sáng. Tiến quân theo đường rầy xe lửa cùng
với 300 chiến xa, theo Quốc lộ 1 phát xuất từ rừng dừa ở Ba
Ngòi. Biết ý định của địch, Trung tướng Nghi báo động ngay
mọi nơi đề phòng, đặc biệt là Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân có
nhiệm vụ án ngữ ở Du Long. Quả nhiên, sau 8:00g tối địch gia
tăng cường độ pháo vào phi trường, đồng thời cho di chuyển
suốt đêm rất nhiều đoàn xe chở bộ binh, thiết giáp, pháo
binh, v.v. Chúng vượt đồi Du Long, chủ yếu chỉ để tràn qua
phòng tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 31 Biệt Động Quân mà
tiến nhanh về hướng Nam. Tiểu Đoàn 31 đã ở tại chỗ chiến đấu
gan dạ mặc dầu đoàn xe địch vượt qua được. Tại Ba Râu, Ba
Tháp, và Cà Đú, từ địa điểm đóng quân chờ di chuyển về hậu
cứ, từ 2:00g sáng trở đi, Tiểu Đoàn 11 Dù trừ và Tiểu Đoàn 3
Dù, cùng với Tiểu Đoàn 36 Biệt Động Quân vừa trám chỗ, chạm
địch ác liệt, làm chậm sức tấn công ồ ạt của đoàn cơ giới
địch. Liên tục bị oanh kích, chúng tẻ xuống đường, tắt đèn
và lại tiến tới. Phi cơ A–37 không ngớt tung xuống đợt oanh
tạc ngăn chặn, nhưng vì không đủ phương tiện soi sáng và hỏa
long, nên chúng vẫn tràn qua, sau khi bị tổn thất khá nặng
nề. Bên ta có 4 A–37 bị bắn bể bình xăng phải về đáp. Trận
này Không Đoàn 92/Chiến thuật đã tung toàn lực phi cơ cơ hữu
kể cả 4 A–1 của Phi đoàn 530. Tôi cùng Trung tá Lưu Đức
Thanh Phụ tá Hành quân Sư Đoàn 6 KQ đích thân theo dõi trận
đánh suốt đêm. Chúng tôi liên tục đốc thúc phần tham gia của
Không Quân, kể từ lúc các đơn vị bộ binh chạm súng, liên tục
báo cáo địch đang sử dụng hàng đoàn xe để đến sáng chạy từ
Du Long tràn xuống. Cuối cùng, đoàn xe tắt đèn vượt qua Ba
Râu, và chiếm thị xã lúc 7:00g sáng ngày 16/4/1975.
Tại Bộ chỉ huy tiền phương, Trung tướng Nghi cũng theo dõi
trận chiến suốt đêm và không nhận được tin gì từ Du Long của
Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân sau 3:00g sáng. (Sau này, Thiếu
tá Đào Kim Minh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 36 Biệt Động
Quân và Thiếu tá Nguyễn Văn Tú Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 31
Biệt Động Quân có nhiệm vụ trấn giữ Ba Râu và Du Long cho
biết không hiểu vì lý do gì mà từ 2:00g sáng không liên lạc
được với Bộ chỉ huy. Sở dĩ cần liên lạc khẩn cấp là vì đã 3
ngày, từ lúc thay quân, cứ liên miên đụng địch nên cấp số
đạn dược mang theo đã gần cạn. Đến sáng, khu vực trách nhiệm
vẫn yên tịnh như sau những lần chạm súng. Trên đường vẫn an
toàn nhưng nhìn vào phi trường thấy đang bị pháo kích).
Ngày 16/4/1975, lúc vừa sáng, địch lại
lẻ tẻ xâm nhập vào cổng số 2 của phi trường về hướng Bắc và
kho bom ở hướng Tây. Đến khi phòng không chúng bắn trúng
chiếc phi cơ quan sát O–1 vừa cất cánh quan sát hành quân,
phải trở lại đáp khẩn cấp, thì đồng thời chúng gia tăng số
lượng pháo kích. Lúc bấy giờ mới khoảng gần 8:00g sáng. Đại
tá Biết bỗng báo cáo là Du Long bị mất và địch đã vào thị xã
khiến cho Trung tướng Nghi phải tìm phương thế thích nghi.
Cùng lúc, Chuẩn tướng Nhựt vừa đặt văn phòng cạnh Văn phòng
Trung tướng Nghi, liền được mời tham gia vào việc duyệt xét
tình hình. Sau đó ông đi thị sát mặt trận tại nơi trách
nhiệm của đơn vị mình.
Trong khi Trung Đoàn 4 Bộ Binh
đang án ngữ bên ngoài phía Tây của phi trường và Trung Đoàn
5 đang phòng ngự địch tràn lên từ thị xã, thì bên trong căn
cứ tình hình bắt đầu có chiều hướng bất lợi. Địch vẫn giữ
mức độ pháo kích quấy rối từng chập. Nhân có các khoảng
trống giữa những đợt pháo kích, một số lớn phi cơ đã rời căn
cứ. Còn lại chỉ có một số rất ít trực thăng võ trang và tản
thương ở lại đến phút chót.
Khoảng hơn 9:00g sáng,
khi trực thăng võ trang bị hỏa tiển SA7 bắn tại ngọn đồi gần
phi trường thì tình hình đã khá nguy ngập. Trung Đoàn 4 báo
cáo đang chạm địch. Toán Dù bảo vệ Bộ Tư lệnh Tiền phương
đang thanh toán các toán VC lẻ tẻ chạy lạng quạng gần khu
vực Bộ Tư lệnh Tiền phương. Đến lúc này, Trung tướng Nghi
vẫn tin tưởng vào khả năng chiến đấu của Trung Đoàn 4 bảo vệ
phi trường và Trung Đoàn 5 án ngữ ngăn chận địch tràn vào
cổng số 1 của căn cứ.
Đến khoảng gần 10:00g, khi
tiếng súng càng lúc càng dồn dập, Tướng Nghi liền họp cùng
Chuẩn tướng Nhựt, Đại tá Lương, và tôi để tái duyệt xét tình
hình. Vì lẽ mặt trận đã bị thủng từ Du Long và địch đang hăm
dọa căn cứ nên Trung tướng Nghi dự tính có thể sẽ dời Bộ Tư
lệnh Tiền phương về Cà Ná để lập tuyến phòng thủ mới tại đó,
nếu địch chọc thủng được phòng tuyến bảo vệ phi trường. Dự
trù sẽ đi khỏi phi trường từ cổng số 1 và đi cùng Trung Đoàn
5.
Khoảng 10:30g sáng, mãi đến khi các toán quân địch
sắp tiến vào Bộ Tư lệnh Tiền phương thì Trung tướng Nghi mới
ra lịnh rời căn cứ bằng đường bộ, từng đơn vị theo đơn vị
trưởng mình rút theo hướng Nam về Cà Ná để lập phòng tuyến
mới. Trung tướng Nghi, Đại tá Lương, ông Lewis chuyên viên
Tòa Đại sứ Mỹ cùng các quân nhân của Bộ Tư lệnh Tiền phương,
Sư Đoàn 6 Không Quân, Lữ Đoàn II Dù cùng các toán quân lẻ tẻ
của Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân lối 400 người rời căn cứ
tiến ra cổng số 1 về hướng Nam.
Đoàn quân di chuyển
trật tự đến cổng số 1 khoảng 11:00g, để cùng đi với Trung
Đoàn 5 về Cà Ná như dự định. Tại đây, vì không liên lạc được
với Chuẩn tướng Nhựt, nên Trung tướng Nghi quyết định theo
đường rào phía Nam, di chuyển dọc theo đường từ Tour Cham
đến ngã ba An Phước. Đoàn quân an toàn đến Thôn Mỹ Đức lúc
12:00g trưa. Trên đường rút khỏi Ba Tháp, Tiểu Đoàn 3 Dù lần
xuống bãi biển, tẻ sâu về hướng Nam và không còn thấy Giang
đoàn 27, chiến hạm WHEC cùng bất cứ chiếc tàu nào khác tại
[hải]
cảng Ninh Chữ. Đến một bãi cát xa hơn về hướng Nam
của thị xã, đơn vị Dù này, gặp và kháng cự với một toán quân
địch khác đến bao vây. Sau khi thoát vòng vây với ít nhiều
tổn thất, Tiểu Đoàn 3 Dù được một đoàn trực thăng, bốc về an
toàn. (Đoàn trực thăng cấp cứu này, dự trù đón Bộ tư lệnh
tiền phương, nhưng vì Trung tướng Nghi không thuận cho đáp
vì lý do an toàn bãi đáp, nên trên đường trở về, mới bốc
được toán Dù trên). Tiểu Đoàn 11 Dù còn lại rút được qua
sông, phối hợp với toán quân vừa thoát khỏi trận phục kích ở
Thôn Phú Quý về được an toàn. Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân và
Sư Đoàn 2 Bộ binh với 1 ít đơn vị cố gắng di chuyển về Nam
lại chịu thêm tổn thất trên đường rút lui. Đại tá Lê Thương,
Chỉ huy trưởng Pháo binh Sư Đoàn 2 Bộ binh, trên đường rút
về An Phước nơi có Trung đội Pháo binh đang trú đóng, cũng
gặp địch đã đóng làm nút chận tại đây rồi.
Tại phi
trường, khi đoàn quân của Trung tướng Nghi di chuyển khá xa,
thì Sư Đoàn 325 VC phối họp với Sư Đoàn 3VC cùng Đoàn 968
tấn công và chiếm phi trường lúc 11:30g trưa. Thiệt hại của
Sư Đoàn 6 Không Quân rất đáng kể vì mất toàn bộ kho bom đạn
và các trang thiết bị phụ thuộc, với lối 10 phi cơ đủ loại
không bay được. Tuy nhiên tổn thất hành quân tương đối là
nhẹ: 1 A–37 rớt, 4 A–37 bị bắn về đáp an toàn, 2 trực thăng
cháy, 1 phi cơ quan sát cùng khá nhiều trực thăng bị bắn
nhưng về đáp được an toàn. Hải Quân ta chỉ có một số ít
Giang thuyền bị chìm và 1 chiến hạm bị pháo.
Tại Thôn
Mỹ Đức lúc khoảng 4:00g chiều, Trung tướng Nghi được toán
truyền tin của Đại tá Lương cho hay có 1 đoàn phi cơ xin xác
nhận vị trí để xuống bốc. Lúc bấy giờ, với số gần 700 quân
nhân và thân nhân nên khó bốc hết được, vả lại khi trực
thăng đến, khó lòng mà giữ được trật tự, chắc chắn sẽ tạo
hỗn loạn làm lộ mục tiêu giúp địch đến vây bắt. Vì vậy Trung
tướng Nghi quyết định vì sự an toàn cho đồng đội, từng khổ
cực chiến đấu với nhau mà không vì an toàn cho bản thân, nên
ra lịnh toán cứu cấp đó không nên đáp, và chỉ nên đến ngày
hôm sau, tại 1 địa điểm xa hơn về phía Nam.
Lúc 9:00g
tối, dưới sự hướng dẫn của Đại tá Lương, đoàn người bắt đầu
rời Thôn Mỹ Đức. Chưa đi được bao xa thì bị phục kích. Trung
tướng Nghi, Ông Lewis, và tôi cùng một số quân nhân bị địch
bắt. Chúng dẫn 3 chúng tôi ngược về Nha Trang sáng hôm sau.
Trên đường tôi thấy rất nhiều xe địch nằm la liệt dọc hai
bên đường, và từng nhóm đồng bào ngơ ngác, thất thểu, lang
thang đi ngược trở về. Tôi bỗng cảm nhận rất có tội đối với
đồng bào, vì làm tướng mà không giữ được thành. Ở tại Đồn
điền Yersin 2 ngày, chúng đưa chúng tôi ra Đà Nẵng bằng
đường bộ. Tại đây, ngày 22/4/1975 chúng đem phi cơ chở chúng
tôi ra Bắc, giam tại nhà giam Sơn Tây nơi từng giam giữ tù
binh Mỹ. Chúng thả ông Lewis vào tháng 8/1975, Trung tướng
Nghi vào năm 1988, và tôi năm 1992.
4. KẾT
LUẬN
Sư Đoàn 6 Không Quân rời Pleiku ngày
16/3/1975 đến tạm trú tại Nha Trang. Ngày 22/3/1975 được
lịnh đến căn cứ Phan Rang đồn trú. Chưa kịp thích nghi với
sanh hoạt địa phương thì phải đương đầu với nhiều nỗi ưu tư
kể từ lúc Nha Trang rút bỏ. Liên tiếp trong 16 ngày, toàn
thể quân nhân Sư Đoàn 6 Không Quân đã khắc phục bao khó
khăn, trong một hoàn cảnh khác thường của một căn cứ Không
Quân bỗng trở thành một tiền đồn, vừa thi hành các phi vụ,
vừa tham gia chiến đấu như bộ binh. Địa Phương Quân và
Nghĩa Quân Phan Rang có những đơn vị hoàn thành nhiệm vụ
bảo vệ đáng khen, như việc bảo vệ Giáo xứ Hộ Diêm được an
toàn là một thí dụ.
Sư Đoàn 2 Bộ binh với 2 Trung
Đoàn 4 và 5, tuy có một số lớn quân nhân hãy còn hoang mang,
dao động vì lo lắng cho thân nhân còn kẹt lại khi đơn vị vội
vã rút lui, nhưng cũng đã cố gắng tham dự.
Liên Đoàn
31 Biệt Động Quân với 3 Tiểu Đoàn 31, 36, và 52, chứng minh
được tinh thần của người chiến sĩ mũ nâu, mặc dầu sau những
trận đánh ác liệt tại Chơn Thành được điều động thẳng ra
Phan Rang, không có một ngày nghỉ dưỡng quân, cũng như không
được bổ sung quân số, tái trang bị đầy đủ.
Lữ Đoàn II
Dù với các Tiểu Đoàn 3, 7, và 11 cùng Tiểu Đoàn 5 của Lữ
Đoàn III Dù đã chiến đấu rất tích cực và tạo được sự tin
tưởng của nhiều người, quả xứng đáng là những đơn vị thiện
chiến của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Với những đơn
vị như trên cộng thêm Phan Rang có vị trí rất thuận lợi cho
việc phòng thủ, đáng lý Phan Rang không thể bị chiếm quá
nhanh như thế được. Chiếm được Phan Rang, địch mới có lý do
tung ra kế hoạch Tổng công kích, mà đáng lý ra theo dự trù,
chúng chỉ có thể tung ra vào năm 1976 thay vì năm 1975.
Tướng VC Văn Tiến Dũng, sau chiến thắng, đã tuyên bố tại
Cuba: “Khi chiếm được Phan Rang thì coi như chiếm được miền
Nam.” Lời tuyên bố này chứng minh được việc chọn phòng tuyến
Phan Rang là một quyết định đứng đắn của Bộ Tổng tham mưu
Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Việc mất Phan Rang quả đúng là
một tổn thất quá lớn cho công cuộc bảo vệ Miền Nam vậy.
Đã hơn 25 năm, chắc chắn tôi không thể còn nhớ đầy đủ
các diễn biến liên quan đến việc phòng thủ Phan Rang. Tôi đã
tham khảo một vài tài liệu và tiếp xúc một vài thân hữu.
Cộng với ký ức, tôi đã cố gắng ghi lại trong bài viết này
mọi hiểu biết có thể có và đương nhiên chắc phải có nhiều
thiếu sót.
Viết xong ngày 15 tháng 1 năm 2002
Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang
Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by cathy chuyển
Đăng ngày Thứ
Hai, April 7, 2025
tkd (thư ký dù). Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH