Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự truyện
Chủ đề: Phi vụ vắn số
Tác giả: Phạm Công Khanh 64 C (Thần Chùy
– Long Mã)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Một giấc mơ hãi hùng đến với tôi trong đêm...
Tôi
đi lạc giữa rừng núi cao nguyên, sương lạnh và giá rét, người bạn
bên cạnh tôi rên xiết vì những vết thương đang hành, anh níu lấy
cánh tay tôi và lê từng bước một cách khó khăn. Tôi cũng bị
thương nhưng có lẽ nhẹ hơn. Hai người chúng tôi cùng dìu nhau đi
trong bóng đêm, cố tìm lối thoát và lẩn tránh kẻ thù...
Một tiếng sấm ngoài trời làm tôi giật
mình thức giấc. Bừng mắt dậy, tôi biết đó không phải là một giấc
mơ – hay nói một cách chính xác hơn, giấc mơ ấy chính là những gì
đã xảy ra trong đời binh nghiệp của tôi 37 năm về trước.
Không hiểu người bạn Lý Thường Kiệt, đã
cùng đi với tôi trong khu rừng năm ấy, giờ phiêu bạt nơi đâu? Còn
hay mất? Sáng hôm sau, tôi vội vàng lên “net” gửi đi khắp nơi với
hy vọng mong manh sẽ nhận được vài tin tức về anh...
Câu chuyện ấy đã được nhà báo Anh Tử
thuật lại trên nhật báo Chính Luận trong vòng một tuần lễ với tựa
đề: “36 giờ trong rừng Bảo Lộc”.
Hôm nay, đúng 37 năm sau, tôi cũng
thuật lại chuyện này, nhưng dài hơn: “54 giờ trong rừng Bảo Lộc”.
Sau khi mãn khóa trực thăng H–34 tại
Fort Rucker, Hoa Kỳ, tháng 6 năm 1966, bốn hoa tiêu trực thăng về
trình diện Bộ Tư Lệnh Không Quân. Nguyễn Chính Tâm và tôi PCK bốc
thăm về Phi đoàn 211 (Thần Chùy) – Không Đoàn 33 Chiến Thuật,
thời gian này Phi đoàn trưởng là Đại úy Nguyễn Hữu Hậu và Phi
đoàn phó là Đại úy Nguyễn Kim Bông.
Sau một thời gian bay bổng, hành quân
đổ bộ, trực tải thương đêm, tôi đã có một số kinh nghiệm chiến
trường...
Hôm
đó, cũng như mọi ngày, trước khi rời phần sở, tôi lên Phòng hành
quân để nhận công tác cho ngày hôm sau, và được biết là phải có
mặt sớm để thi hành phi vụ VIP đi Bảo Lộc. Trung úy Lý Thường
Kiệt là trưởng phi cơ, tôi hoa tiêu phó, cùng với Trung sĩ Lê
Ngọc Hồ cơ khí viên phi hành, chở phái đoàn Bộ Xã Hội đi khánh
thành Đại Học Nông Lâm Súc tại Bảo Lộc.
Sau khi nhét hai gói Lucky Strike trong
túi theo thói quen, tôi tới đúng giờ để nhận công tác. “Check
weather” chúng tôi được biết thời tiết tại Bảo Lộc không được tốt
lắm. Tiền phi xong, chúng tôi mang phi cơ sang sân VIP nằm bên
phi cảng dân sự để đón phái đoàn của Bộ Xã Hội do Ông Nguyễn Văn
Học (Bộ trưởng) hướng dẫn. Cùng đi còn có một Bác sĩ cố vấn người
Thụy Điển, phóng viên Anh Tử của báo Chính Luận, ngoài ra còn có
con trai Ông Bộ trưởng, một sinh viên cũng đi theo. Phi hành đoàn
và phái đoàn tổng cộng 13 người!
8 giờ 30 sáng, phi cơ cất cánh, lấy cao
độ, trực chỉ Bảo Lộc, qua khỏi Định Quán, lờ mờ bên dưới (đó là
điểm check point) trời bắt đầu có sương mù, mây bắt đầu dầy, được
báo ở Bảo Lộc thời tiết khả quan hơn, tới nơi chúng tôi sẽ kiếm
“lỗ” chui xuống. Bay trên mây, gió lạnh cao nguyên luồn vào buồng
lái, tôi đốt điếu thuốc Lucky, kéo một hơi dài và cảm thấy rất ấm
áp, phấn khởi với dự tính một chuyến đi lý thú tại Bảo Lộc, khác
với những phi vụ hành quân, tản thương hay bay đêm...
Đang miên man với những ý nghĩ yên
lành, bỗng nhiên tiếng động cơ của trực thăng “ho” lên vài tiếng,
đánh thức sự cảnh giác của chúng tôi. Đẩy cần “mixture” lên
“full”, check kỹ lại những đồng hồ phi cụ, máy bay vẫn tiếp tục
“ho”. Vòng quay của máy (RPM) không được bình thường và phi cơ
mất cao độ từ từ...
Chúng tôi lọt vào đám mây, Trung sĩ Hồ
bấm intercom báo cáo tình trạng hành khách đã tỏ ra hơi mất bình
tĩnh. Anh L.T.Kiệt bay instrument quẹo lại. lấy hướng trở lại
Định Quán, tôi cố theo dõi các đồng hồ và nhìn một màu mây mù xám
đặc vây quanh. Lúc đó chúng tôi rất bình tĩnh, nhìn nhau với đôi
mắt sáng quắc, sẵn sàng đối phó với mọi bất trắc... Cao độ vẫn
mất từ từ, có những lúc tôi cảm thấy tiếng động cơ im lặng hẳn
rồi lại nổ trở lại rất nhanh.
Bỗng nhiên một màu xanh thẫm như một
tấm màn bao phủ trước mũi phi cơ tới rất gần. Có lẽ lúc đó anh
Kiệt không nhìn thấy vì còn đang cặm cụi với những đồng hồ phi
cụ. Tôi vội chụp vào cần lái, ấn intercom và hét to lên cho anh
Kiệt biết là “NÚI” và dùng động tác “Emergency – Force landing –
Flare” để “Touch down” (một phản xạ chớp nhoáng tự nhiên trong
nghề).
Một
tiếng ầm dữ dội pha lẫn với tiếng la hét của 13 người cùng với
tiếng đổ ngã của cây cối, tiếng gẫy nát của 3 cánh quạt và thân
phi cơ, xảy ra trong tích tắc. Lúc đó lồng ngực tôi như bị tức
nghẹn vì sức va chạm quá mạnh, chân tay rã rời, ngồi trong tư thế
nằm ngang, đầu chúi xuống những ngọn cỏ...
Tôi hít một hơi thật dài để trấn tĩnh.
Tiếng người rên xiết, tiếng xăng chảy róc rách và mùi xăng nồng
nặc khiến tôi trở nên sáng suốt hơn. Nhìn phía trên bên phải, tôi
thấy L.T.K. còn đang kinh hoàng mở mắt nhìn tôi. Tôi quyết định
phải rời phi cơ ngay vì sợ phi cơ phát hỏa. Trong vị thế buồng
lái nằm ngang về phía bên trái, đầu cắm xuống đất, anh Kiệt nằm
trên, thì chỉ còn một lối thoát duy nhất là cửa sổ phía bên phải
của Anh Kiệt. Tôi cố gắng lắm mới gỡ được chân của Anh Kiệt bị đè
dưới ghế ngồi, sau khi mở seat belt của anh, tôi dùng hết sức đẩy
Anh Kiệt chui ra khỏi buồng lái và tôi bò ra sau.
Tôi quan sát thấy một phần đuôi của phi
cơ bị treo tòng teng trên một cây cổ thụ. Tôi tiến lại cabin hành
khách leo vào thì thấy Trung sĩ Hồ đã tử thương, đầu anh dù đội
nón bay nhưng bị sức ép của ghế pilot từ trên dộng xuống, khiến
đầu anh bị tụt hẳn vào trong thân người. Tôi còn đang bàng hoàng
thương tiếc người đồng đội cùng phi hành đoàn thì tiếng rên xiết
đau đớn cùng với giọng nói Tây phương “Au secour” đã khiến tôi
sực tỉnh, đó là Ông Bác sĩ người Thụy Điển.
Tôi quay đầu lại, một cảnh tượng thật
hãi hùng, máu đỏ lênh láng trên sàn phi cơ, tôi tiến lại từng
người để coi sóc họ, thấy tất cả bị thương rất nặng và đang rên
xiết. Bỗng anh phóng viên Anh Tử chợt ngồi dậy, hoảng hốt nắm lấy
tay tôi rồi dáo dác tìm kiếm máy ảnh và đồ nghề của anh nhưng
không thấy. Tôi nhủ thầm: thật may mắn, còn một người không bị
thương!
Hai
chúng tôi kiểm lại số người: chỉ có 12, thiếu mất anh sinh viên
con Ông Bộ Trưởng, có lẽ anh đã bị văng đi xa. Tôi và Anh Tử chia
nhau đi tìm kiếm nhưng không thấy. Trở lại thì chân Anh Kiệt đã
sưng phù lên, có lẽ bị gãy xương. Chúng tôi và Anh Tử bàn tính,
mở bản đồ cố gắng chấm tọa độ và phương hướng.
Tôi quyết định đi một mình xuống sườn
núi, theo con suối nhỏ dẫn tới quốc lộ 20 (Sài Gòn – Bảo Lộc – Đà
Lạt) trên đèo Blao, vùng Maragui, tìm phương tiện thông báo xin
cứu cấp và chỉ định Anh tử ở lại để coi sóc anh L.T.K. và những
người bị thương. Nhưng cuối cùng Anh Kiệt và Anh Tử nhất định đòi
đi theo tôi.
Tôi trở lại băng bó cho các vị trong phái đoàn và căn dặn ở yên
tại chỗ, tôi sẽ cố gắng đi kiếm cách liên lạc thật nhanh với các
toán cấp cứu.
Lúc 3 chúng tôi bắt đầu
cuộc hành trình là vào khoảng 11 giờ trưa cùng ngày. Xuống hết
sườn núi quả nhiên chúng tôi gặp con suối nhỏ, liền đi theo với
hy vọng sẽ sớm ra đường lộ. Đi theo con suối còn có những lợi
điểm, thứ nhất có nước uống (vì thiếu ăn không sao nhưng thiếu
nước là cả một vấn đề); thứ nhì đi dưới suối sẽ không để lại dấu
vết gì.
Chúng
tôi di chuyển rất chậm chạp vì Anh Kiệt bị thương chân, đi rất
khó khăn. Theo phương thức cứ một người đi nhanh mở đường, khoảng
20 phút thì dừng lại, ngồi đợi người kia dìu hoặc cõng Anh Kiệt
tới. Cứ như thế thay phiên nhau, nếu gặp trở ngại thì quay lại
thông báo kịp thời.
Trên đường di chuyển, khoảng 4 giờ
chiều cùng ngày, chúng tôi nhìn thấy vài lon “Ration C” đã khui,
không biết của toán quân bạn hành quân hay của du kích Việt cộng?
Anh Tử thận trọng đưa ra ý kiến:
–Các anh nên lột bỏ lon là đi thì hơn.
Nếu không Việt cộng mà thấy thì ăn nói làm sao?
Nghe câu nói của anh ta trong lòng tôi
vừa thấy khôi hài vừa đáng buồn!
Tôi và Anh Kiệt chỉ cười rồi tiếp tục
đi. Cắm cúi đi cả tiếng đồng hồ, khi trời nhá nhem tối, chúng tôi
không thấy Anh Tử đâu nữa. Tôi hoang mang lo ngại, không biết anh
có lọt vào tay địch hay làm mồi cho thú dữ không? Hay là anh tự ý
tách riêng vì sợ đi chung với hai thằng phi công sẽ bị liên lụy?!
Nhưng dù là thế nào đi nữa, chúng tôi
cũng phải cẩn thận hơn. Tôi không dám đi dưới suối nữa mà cõng
Anh Kiệt lên triền núi, đi dọc theo bờ suối khoảng 50 mét. Lúc
này thì chân Anh Kiệt đã sưng to, anh không đi được nữa, chỉ còn
cách là tôi phải cõng anh mà thôi.
Trời tối đen như mực, giá lạnh của vùng
núi xoáy vào người. Tôi tìm một nơi tương đối an toàn trong bụi
rậm. Thời tiết núi rừng cao nguyên càng về đêm càng lạnh, hai hàm
răng chúng tôi đánh vào nhau lạch cạch không ngừng. Tôi xé tấm
nylon bọc bản đồ, tuy không được lớn cho lắm nhưng cũng đủ cho
hai cái đầu chui vào. Với mục đích tiết kiệm, tôi chỉ đốt một
điếu Lucky Strike cho cả hai hút chung. Khói thuốc đi sâu vào
lồng ngực và tỏa ra trong thể tích bé nhỏ của bao nylon với hai
cái đầu đã sưởi ấm chúng tôi phần nào.
Trong cơn đau, Anh Kiệt “nghiến” (anh
có biệt danh là “Nghiến” trong khoá 62KQ) ôm lấy tôi thều thào:
–Đừng bỏ tôi Kiệt nhé, con trai tôi mới
đầy tháng hôm qua, nó cần phải có cha!...
Tôi nhủ thầm trong bụng để tự trấn an
mình: Không thể có chuyện đó. Chúng ta nhất định sống để trở về!
Thế rồi, dù lạnh buốt chúng tôi cũng
ngủ thiếp đi có lẽ vì quá mệt nhọc và vì đói. Rồi đêm hãi hùng
cũng qua đi. Những tia sáng bình minh và tiếng chim hót buổi sáng
đã đánh thức chúng tôi dậy, bắt đầu cho một ngày mới...
Sau khi đi lầm lũi hàng giờ, chúng tôi
tới một rừng đầy chuối. Tôi ngước nhìn lương thực mà Thượng Đế
ban cho, đây rồi một buồng chuối chín vàng óng ánh. Tôi vội đặt
Anh Kiệt nằm xuống vì cây cao quá, tay không thể với tới được,
tôi tìm một cục đá nhọn và ngồi đẽo vào thân cây. Tới lúc chỉ cần
xô nhẹ một cái là cây chuối ngã xuống, thì một bầy khỉ không đông
lắm, xuất hiện, và chúng bu lại để cướp lấy các trái chuối chín
vàng. Không biết là chúng “cướp” của tôi hay chính tôi tới “cướp”
của chúng, nhưng chúng còn để lại cho chúng tôi một số trái còn
xanh. Tôi vội bẻ lấy và nhét đầy vào hai túi dưới áo bay để làm
lương thực dự trữ. Tôi trở lại chỗ Anh Kiệt nằm, chia nhau ăn.
Những trái chuối hột vị rất chát và nước suối không thể coi là
bữa ăn thịnh soạn nhưng ít nhất cũng giúp chúng tôi no nê và đủ
sức tiếp tục lên đường...
Rồi một ngày nữa qua đi, đêm tối lại
đến, tôi bắt đầu thấm mệt, lồng ngực tôi ê ẩm và da đã đổi thành
màu tím đen. Đêm thứ hai, chúng tôi thiếp đi rất lâu, tới sáng
thức dạy thì toàn thân rã rời, nhưng vì sự sống còn, chúng tôi
tiếp tục lên đường.
Khoảng 10 giờ sáng, tôi chợt nghe thấy
tiếng xe hơi chạy trên sườn núi phía trên. Mừng quá, tôi nói với
Anh Kiệt là chúng mình phải leo lên để ra quốc lộ 20. Tôi kiếm
một khúc cây dài để leo lên trước và thòng cây xuống để kéo Anh
Kiệt lên. Cứ như vậy, trên sườn núi lau sậy mọc cao hơn 2 thước,
chúng tôi đã leo lên được một khoảng khá xa, tiếng xe nghe càng
gần hơn. Lúc đó mặt trời đã đứng bóng...
Tôi chợt nổi “da gà” vì nghe thấy tiếng
động cơ rất quen thuộc!
Đúng rồi! tiếng động cơ H–34. Tôi hét
to lên. Chúng tôi nhìn nhau trong lòng đầy xúc động, cùng quay
đầu tìm hướng máy bay. Những chiếc trực thăng như những chấm nhỏ
trên nền trời bắt đầu xuất hiện rồi từ từ tới gần. Tôi đã có thể
nhìn thấy phù hiệu “Thần Chùy” của Phi đoàn và màu cờ của Không
lực VNCH. Tôi vội đứng dậy, hăm hở dùng cây phang những ngọn lau
chung quanh để lộ ra một khoảng trống, trong khi Anh Kiệt dùng
bao nylon làm động tác phản chiếu áng sáng và phất lên để gây sự
chú ý của máy bay (vì phi vụ VIP nên chúng tôi đã xem thường
không mang theo vũ khí cá nhân và những trang bị mưu sinh thoát
hiểm).
Các
đồng đội từ trên cao đã nhìn thấy chúng tôi. Một chiếc H–34 làm
“low pass” ngang đầu và thả xuống một trái khói ngay gần chỗ
chúng tôi, sau đó lắc cánh hướng dẫn xuống dưới thung lũng cách
đó không xa, hai chúng tôi trườn lên trên bụi cỏ lau và lăn xuống
ngay nơi chiếc H–34 đang “hover” chờ đón.
Ngước lên, tôi nhận ra Anh Hoan, tự
Hoan “heo”, đang vẫy tay cười và kéo chúng tôi lên, và sau đó
người y tá phi hành bắt đầu nhiệm vụ...
Chúng tôi được đưa về Tổng Y Viện Cộng
Hòa để săn sóc kỹ lưỡng, Chuẩn tướng Võ Xuân Lành, Tư Lệnh Phó và
Đại tá Lưu Kim Cương, Không Đoàn Trưởng / Không Đoàn 33 Chiến
Thuật, cùng gia đình, thân nhân, bạn bè trong phi đoàn thay phiên
nhau tới thăm hỏi.
Tôi tường thuật mọi diễn tiến xày ra,
chấm tọa độ vị trí phi cơ bị rớt và đề nghị phải đi tiếp cứu gấp
vì các hành khách bị thương rất nặng. Tôi cũng tình nguyện xin đi
theo để hướng dẫn vì cảm thấy đó là trách nhiệm của mình và đã
được chấp thuận.
Tờ mờ sáng hôm sau, tôi được khiêng ra
phi cơ, nằm trên “cáng”, có một vị Bác sĩ phi hành đi theo săn
sóc. Tới tọa độ phi cơ bị rớt, sương mù vẫn phủ kín, không sao
vào được, máy bay phải đáp và “stand by” tại Bảo Lộc. Tới 1 giờ
trưa, trời sáng sủa hơn, chúng tôi mới vào được. Đáng buồn thay,
chỉ có hai người còn sống, 8 người kia đã chết...
Hai
người sống sót là Ông Bác sĩ người Thụy Điển (bị gẫy chân, tay)
và anh sinh viên con trai Ông Bộ Trưởng. Sau khi máy bay rớt, tôi
kiểm soát số hành khách và thấy thiếu mất một người, người ấy
chính là anh. Anh bị bất tỉnh nhân sự, nằm lọt trong đuôi phi cơ
treo tòng teng trên ngọn cây. Anh sinh viên cho biết một số vị
trong phái đoàn chết ngay sau khi tai nạn xảy ra, một số chết vào
ngày hôm sau, trong đó có cha anh. Ông đã trối trăng với anh
trước khi chết!
Riêng phóng viên Anh Tử, sau khi tách
rời chúng tôi, đã đi dọc theo con suối và sau 36 giờ trong rừng
Bảo Lộc, đã ra tới quốc lộ và đón xe về nhà.
Sau đó anh đã viết phóng sự: “36 giờ
trong rừng Bảo Lộc” trên báo Chính luận.
Thú thực cho tới giờ này tôi cũng không
hiểu tại sao Anh Tử lại tách rời. Anh sợ đi chung với chúng tôi
có thể liên lụy khi bị Việt cộng bắt, hay muốn đi một mình cho
nhanh hơn? Và vì phải cõng theo một người bị thương... Nhưng dù
sao tôi cũng không trách anh này vì anh không phải là đồng đội
của chúng tôi, không vướng mắc tâm nguyện “không bỏ anh em, không
quên bạn bè” của những người cùng chung màu áo, màu cờ và nghiệp
bay bổng.
Được
biết, ngay sau khi máy bay chở VIP mất liên lạc, bị báo cáo mất
tích, đích thân Đại tá Lưu Kim Cương, KĐ Trưởng/KĐ33CT đã tham
gia tìm kiếm cấp cứu với Phi đoàn 211.
Sau khi tai nạn xảy ra – tai nạn đầu
tiên trong nghiệp bay bổng của mình – tôi cứ thắc mắc nếu hôm đó
anh sinh viên không xin đi theo, tức là tổng số người trên phi cơ
chỉ có 12 chứ không phải con số 13 “xui xẻo”, thì sự việc có khác
đi chăng?
Tháng 9 năm đó, tôi tình nguyện ra Phi đoàn 219 Long Mã ở ngoài
Đà Nẵng để thử “số mạng”. Riêng Anh L.T.K. thì sau phi vụ nói
trên đã từ giã nghiệp bay và chuyển ngành.
Cuối cùng vào tháng 4 năm 2002, tôi đã
liên lạc được với anh. Hiện anh rất khoẻ mạnh (vẫn đi “cày”), gia
đình hạnh phúc và các con đều thành danh cả.
Hôm nay đúng 37 năm sau ngày xảy ra tai
nạn đầu đời lính, tôi viết bài này để tặng anh và để nhớ lại
những kỷ niệm xưa của một thời bay bổng.
Melbourne/Victoria/Úc Châu
Phạm Công Khanh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Trực Thăng H34. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by psxh chuyển
Đăng ngày Thứ Ba,
August 10, 2020
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang