Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
ký
Chủ đề:
MT–68
Tác giả:
Lão Móc
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
“Đời tôi để lịch sử xử. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia sẽ là một tội nặng, sẽ làm mất nước trong tay cộng sản...”.
Thoắt mà đã hơn 30 năm, kể từ ngày văn hào Nhất Linh,
người đã dùng thuốc độc hủy mình “để cảnh cáo những người chà đạp
lên mọi thứ tự do”. Đất nước đã thực sự lọt vào tay cộng sản 12
năm sau di chúc lịch sử của văn hào Nhất Linh được công bố
Nhà văn Nhật Tiến, giải thưởng văn
chương toàn quốc với truyện dài “Thềm Hoang”, cách đây hơn 30
năm, đã đại diện một nhóm nhà văn độc lập, đọc trước linh cữu
Nhất Linh khi hạ huyệt những lời vĩnh biệt:
“Kính thưa anh hồn văn hào Nhất Linh,
Thật vô cùng đau đớn và xót xa cho
chúng tôi khi chúng tôi nhận được tin văn hào đã quyết tâm từ bỏ
hoàn cảnh sống nhỏ nhen và tăm tối này để đi về chốn thanh cao.
Đại diện cho một nhóm nhà văn độc lập,
không phụ thuộc một mầu sắc chính trị, không gia nhập một đảng
phái, hôm nay trước anh hồn của văn hào, chúng tôi xin được bày
tỏ lòng tiếc xót của chúng tôi.
Trọn một đời gian khổ, không ngại khó
khăn, không màng danh vọng, văn hào đã tận tụy hy sinh, từ bỏ mọi
quyền lợi riêng để tranh đấu cho lý tưởng tự do, cho cuộc sống
hạnh phúc của dân tộc.
Văn hào đã hoàn thành sứ mạng của người
cầm bút.
Văn
hào đã nêu cao sĩ khí bất khuất của truyền thống những nhà văn
chân chính.
Cái chết của văn hào sẽ mãi mãi là ngọn đuốc soi sáng con đường
tăm tối của chúng tôi đang đi, là niềm khích lệ lớn lao cho những
khó nhọc mà chúng tôi sẽ gặp gỡ, là một tấm gương sáng láng mà
mãi mãi những kẻ cầm bút đi sau như chúng tôi phải soi vào để suy
gẫm.
Chúng tôi
xin nguyện trước anh hồn của văn hào là chúng tôi sẽ nhất quyết
theo đuổi con đường cao đẹp mà văn hào đã vạch ra.
Đó là sự hoàn thành sứ mạng cao quý của
các nhà văn.
Đó là sự chống đối mãi mãi bạo quyền và bạo lực.
Đó là sự đòi hỏi đến kỳ cùng quyền tự
do được sống làm người của toàn thể dân tộc, như ý muốn của văn
hào trước khi nhắm mắt.
Ôi! Nói làm sao cho xiết nỗi lòng thống
thiết của chúng tôi trong những giờ phút đau đớn này.
Chúng tôi chỉ xin cầu nguyện cho anh
hồn của văn hào sớm tiêu diêu miền Cực Lạc, cũng như xin văn hào
linh thiêng chứng nhận những lời nói chân thành của chúng tôi
trong giây phút vĩnh biệt này”.
Tôi tin, cũng như nhiều người khác tin,
những lời vĩnh biệt rất văn hoa và đầy xúc động của nhà văn Nhật
Tiến khi ông đọc trước linh cữu của văn hào Nhất Linh – con người
mang tên hai chữ Nhất Linh trong suốt cuộc đời đã không làm điều
gì vô ích, kể cả điều thông thường con người không có quyền làm
là sự chết – nói theo cách nói của luật sư Dương Kiền.
Sau năm 1975, nhà văn Nhật Tiến đã ở
lại Việt Nam, đã biết thế nào là cộng sản, và sau đó đã vượt biển
để biết thế nào là cái tâm trạng:
Ta thương ta kiếp thuyền nhân
Một lần vượt biển muôn phần đớn đau!
Có điều tôi không hiểu, tôi cũng nghĩ
rằng nhiều người khác không hiểu, về những việc làm của nhà văn
Nhật Tiến trong vài ba năm trở lại đây. Ông tuyên bố rùm beng
trên báo chí trước khi trở về Việt Nam “để tìm chất liệu sáng
tác”. Ông đã mang sách “Trăm hoa vẫn nở trên quê hương” về Việt
Nam. Sau đó, trở ra hải ngoại chỉ thấy ông im hơi, lặng tiếng. Có
điều gì sai chạy chăng? Nhà văn vẫn theo đuổi những điều đã hứa
trước linh cữu của văn hào Nhất Linh là “hoàn thành sứ mạng cao
quý của các nhà văn... Chống đối mãi mãi bạo quyền và bạo lực”
với tư cách một nhà văn độc lập hay giờ đây ông đã “phụ thuộc một
mầu sắc chính trị”?
*
Hoàng Phủ Ngọc Tường, là người đã cùng
Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân là “những người đã làm vỡ
mộng bao cô gái Huế sau Tết Mậu Thân” – nói theo cách nói của nhà
thơ Cao Mỵ Nhân.
Trong tạp ghi “Không Chung Một Bầu
Trời”, nhà thơ Cao Mỵ Nhân viết về buổi lễ kỷ niệm 20 năm Tết Mậu
Thân được tổ chức vào mùa Xuân 1988 tại Nhà Văn Hoá Thanh Niên
thành phố Hồ Chí Minh như sau:
“... Hội trường chật cứng những người,
ai cũng muốn biết cái gì là quan điểm của bên kia về Tết Mậu Thân
Huế. Có lẽ cái đinh của buổi ‘20 Năm Tết Mậu Thân Huế’ hôm đó là
Hoàng Phủ Ngọc Tường, hay nói cách khác, Hoàng Phủ Ngọc Tường nói
gần như hụt hơi, Phan không lên máy vi âm ‘cứu bồ’ chỉ đứng tại
chỗ phía dưới khi ban tổ chức giới thiệu, Nguyễn Đắc Xuân cũng
vậy, nay Xuân tóc bạc trắng, dung nhan phờ phạc, mơ hồ, không còn
nét đấu tranh kiểu ‘tâm ca’ xa xưa, trước thuở vô bưng.
Vì cả ba người Tường, Phan, Xuân đều
hoạt động văn nghệ cộng sản với bút pháp Nguyễn Tuân, nhưng Tường
vốn làm thơ, nên buổi nói chuyện đã chuyển qua không khí một
đêm... thơ, hơn là đặc công du kích, chắc muốn cho vơi bớt hận
thù.
Phàm là
một người làm thơ, nếu lỡ có tàn ác, gian xảo, tồi tệ, xấu xa...
đến đâu, hình như cũng có lúc ‘thật mình’ như thế, mới đúng là
thi sĩ chăng? Hoàng Phủ Ngọc Tường làm thơ không nhiều, nhưng
riêng về mặt thơ thôi, thì lại có vẻ thi phong, thi cốt:
Thôi em, cảm tạ chờ mong,
Ngày anh đi hái phù dung chưa về.
Đêm
qua, hương đã tàn mê,
Mày ai còn dấu
trăng thề như in...
Rõ ràng những chờ mong tuổi trẻ đã tàn
phai, lầm lỡ, như sắc hoa phù dung: sáng đỏ, trưa hồng, tối trắng
hay là phù dung thì sớm nở, tối tàn. Và khi đã tàn cơn mê, thì
nét vẽ chân mày cong lên như dấu trăng thề in rõ rành rành tức là
nhướng mắt nhìn sự bất lực của mình:
Bây giờ đã hết trò chơi,
Đã tàn cuộc rượu, để người ra đi.
Đêm
qua, không biết làm gì,
Muốn tìm về gã
Trương Chi nghe đàn.
Và hai câu kết bài thơ ‘Đêm qua’ tức là
qua rồi giấc mơ chẳng đẹp đẽ gì, chỉ toàn là ác mộng:
Đêm qua nhớ lũ đười ươi,
Lang thang rũ một trận cười trong mây.
Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng là một người
Việt Nam, một người Huế sinh ra và trưởng thành ở Huế, quá đà
mộng dữ, đã phản bội lại Huế hoa niên của Tường, rồi cũng làm
thơ, đến khi bắt gặp sự thật phũ phàng, mới thu hình về sống cô
đơn với chính mình, gã đã thấy cuộc chơi nguy hiểm, không còn
hứng thú, đành đi tìm nghe một tiếng đàn Trương Chi. Ai Việt Nam
chẳng biết chàng Trương Chi xấu xí nên thà là mờ mờ nhân ảnh,
kính nhi viễn chi, cho ‘kim cương’ biến thành nước mắt:
Thôi em, cảm tạ con người,
Đã thương, đã ghét giữa trời mênh mông.
Đêm qua rơi xuống cội lòng,
Vàng in
chiếc lá ngô đồng thiên thu...
Chao ôi, sắc ‘vàng’ trừu tượng đã giấu
vào thiên thu ký ức, Hoàng Phủ Ngọc Tường với dư âm, dư ảnh Tết
Mậu Thân Huế, sẽ mãi mãi ám ảnh người dân Huế, không sao xóa nổi
hận thù, gã sẽ như một thứ Trương Chi cụ thể, mà Huế như hàng vạn
công nương, gã có tương tư Huế đến đâu, Huế cũng không thể sống
chung bởi con người Hoàng Phủ Ngọc Tuờng đã lỡ phát sinh một khối
uất hờn vô lý nhất là khi ‘đánh Huế’. Nên thôi, suốt đời nhân dân
Huế với Hoàng Phủ Ngọc Tường chỉ cùng uống nước sông Hương mà
không thể chung bầu trời tâm sự (có thể hiểu là không đội trời
chung đấy)”.
Hai mươi năm sau biến cố Tết Mậu Thân, người cầm bút miền Nam,
nhà thơ Cao Mỵ Nhân nghĩ về “người đi hái phù dung”
(*)
Hoàng Phủ
Ngọc Tường như thế, không biết có đúng không?
Thời “Tây tiến đoàn binh không mọc
tóc”, nhà thơ Quang Dũng chỉ vì:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm!
Mà đã bị nhà cầm quyền cộng sản “đì”
suốt bao nhiêu năm trời. Những người cầm bút chân chính chắc chắn
có những xúc động thực lòng khi nghĩ về quê hương, đất nước, con
người trước khi viết ra. Nhưng sau đó, có thể vì những suy nghĩ
sai lầm, vì tham vọng cá nhân, vì ngộ nhận của dư luận... mà mọi
chuyện, sau đó, đã khác đi.
Người cầm bút cũng như bao nhiêu con
người khác, họ cũng có quyền sai lầm, vấp ngã. Điều quan trọng là
sau khi vấp ngã có còn can đảm đứng lên và bước tới?
Trong thập niên 40, Nhất Linh Nguyễn
Tường Tam giã từ con đường văn học, bước vào chính trị. Năm 1948,
sau khi Bảo Đại ký kết với Pháp thoả hiệp 5 tháng 6, Nhất Linh
quyết định giã từ chính trường. Sau đó ông vào miền Nam hoạt động
văn hóa. Ông không tin ở chính trị mà ông tin ở lòng người, ở một
cái đạo ông tìm ra trong hương thơm của hoa phong lan. Và ông đã
chọn cái chết để giữ mình lương thiện:
Người đi, đi mãi không về
Nhớ người dòng suối Đa Mê gợi buồn!
Năm 1968, Hoàng Phủ Ngọc Tường tham gia
đánh Huế trong biến cố Tết Mậu Thân. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chít
giải khăn sô cho hàng vạn công nương Huế! Sau đó, Hoàng Phủ Ngọc
Tuờng đã tự nhận mình là “người đi hái phù dung”. Phù dung là một
loài hoa tam sắc túy: mới trổ mầu trắng, rồi hường, gần tàn biến
đỏ:
Phù dung
sớm nở, tối tàn
Tiếng đồn rực rỡ, hỏi
nàng có không?
Khi đưa tay hái đoá phù dung, Hoàng Phủ
Ngọc Tường có biết đâu đã sẵn đau thương đợi chờ!
Cách đây 30 năm, nhà văn Nhật Tiến đã
đọc bài điếu văn làm xúc động lòng người trước linh cữu văn hào
Nhất Linh. Cách đây vài năm, Nhật Tiến bị dư luận “lên án” vì có
tác phẩm “hoà giải” hoặc “trung lập”. Nhà văn này đã nói rằng tuy
sống ở xã hội tự do nhưng: “Tôi thấy rõ người cầm bút ở đây chưa
thực sự có tự do cầm bút”.
Câu tuyên bố của nhà văn Nhật Tiến quả
có điều khó hiểu.
Cho đến năm 1987, vào hai ngày 6 và 7
tháng 10, trong một cuộc nói chuyện với hơn 100 văn nghệ sĩ ở
trong nước, Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam
lúc bấy giờ, xác nhận 2 điều:
– Đảng đã đánh giá thấp vai trò, vị trí
của văn học, nghệ thuật;
– Đảng thiếu dân chủ, trói buộc văn
nghệ sĩ, nhiều khi độc đoán, sát phạt.
Lời xác nhận như những hồi trống giáo
đầu của vở kịch “Cao trào Văn nghệ Phản kháng” từ bấy đến nay với
màn vĩ thanh như thế nào chắc nhà văn Nhật Tiến đã rõ.
Không biết nhà văn Nhật Tiến thích loại
hoa nào: hoa phong lan hay hoa phù dung?!
Bài viết này lẽ ra đã được kết luận với
câu kết như trên nếu tôi không tình cờ đọc được bài phỏng vấn của
báo Thanh Niên của cộng sản Việt Nam được tạp chí Cuộc Đời số 19,
tháng 1/1995, đăng lại. Bài phỏng vấn nhan đề “Nhật Tiến – Quê
Hương: Chiếc nôi nuôi dưỡng nguồn cảm hứng sáng tạo”.
Nhà văn Nhật Tiến tuyên bố với phóng
viên báo Thanh Niên là “quê hương đã có nhiều thay đổi, nhất là
về chính sách kinh tế và ngoại giao”, Nhà văn cho biết là ông và
Nhật Tuấn (em ruột của ông) sẽ in chung tập truyện ngắn “Quê
Hương – Quê Người”. Sách sẽ do nhà xuất bản Văn Hóa ở trong nước
xuất bản.
Trong cuộc phỏng vấn, Nhật Tiến cũng cho biết là “trong 15 năm xa
quê, tôi chỉ in được vài ba tập truyện ngắn, một truyện dài và
một tập bút ký viết chung với hai ký giả khác”.
Được hỏi: “Lựa chọn quê hương là nơi
đầu tiên ra mắt cho tác phẩm, điều đó với ông mang ý nghĩa gì?”
Nhật Tiến đã trả lời như sau: “Đó là sự
lựa chọn có ý thức và với tôi mang nhiều ý nghĩa. Trước hết là
tôi luôn mong mỏi những sáng tác của mình tới được tay độc giả
trong nước, bởi vì dẫu sao quê hương, đồng bào, dân tộc vẫn là
cái nôi nuôi dưỡng nguồn cảm hứng sáng tạo cho tất cả văn nghệ
sĩ. Sau nữa, việc in chung tác phẩm với một nhà văn trong nước
ngay tại quê nhà cũng là một bước cụ thể trong tiến trình hòa hợp
trên tinh thần dân tộc để xây dựng một đất nước phồn thịnh mà tôi
vẫn hằng suy nghĩ từ gần hơn 10 năm qua”.
Ở hải ngoại, cũng một vấn đế người ta
có thể có nhiều cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau và đôi khi hơi
ồn ào. Trong giai đoạn đầu, khoảng 1991–1992, tôi cùng một số bạn
bè văn nghệ hết sức tán thành và hỗ trợ cho bất cứ tờ báo nào
thực hiện được chủ trương hòa hợp dân tộc như tôi đã nói trên.
“Hợp Lưu” là một trường hợp cụ thể. Riêng tôi, vì báo chí không
phải là ngành chuyên môn, lại không có thời gian dành cho lãnh
vực văn nghệ nên chỉ hỗ trợ cho “Hợp Lưu” trên phương diện tinh
thần là chính. Sau này, cảm thấy tự ngượng, vì thực tế, nhất là
những năm 1993–1994, mình chẳng đóng góp được điều gì thiết thực,
cụ thể cho tờ báo mà vẫn được để tên trong ban chủ trương nên tôi
tự động rút tên. Đây hoàn toàn chỉ là vấn đề tự trọng và sự lương
thiện trí thức đối với độc giả mà thôi.
Tôi tin nhà văn Nhật Tiến đã có “vấn đề
tự trọng và sự lương thiện trí thức” khi trả lời câu phỏng vấn
của báo Thanh Niên của cộng sản Việt Nam: “Hình như tinh thần dân
tộc đó đã được ông thể hiện bằng cách hành động và đã nhận lãnh
nhiều ‘búa rìu’ dư luận tại hải ngoại. Có phải ông là một trong
những người chủ trương tạp chí Hợp Lưu”?
Trong cuộc sống, có người đi bên này
sông, có người đi bên kia sông, có người lội xuống giữa dòng mà
đi. Ai cũng có quyền thương yêu thù hận trong đời.
“Những người cầm bút, có người coi sự
hoạt động chính trị như phản lại sự độc lập của ngòi bút và khước
từ tham gia chính trị với quan điểm rằng công việc của nhà văn
giản dị là chỉ có viết mà thôi; có người lại chủ trương tham gia
hoạt động cộng đồng như một công dân và tham gia chính trị với ý
nghĩa tích cực nhất” – như kịch tác gia Vaclav Havel, đương kim
Tổng thống Tiệp Khắc, Chủ tịch Văn Bút Quốc tế, đã phát biểu
trong Đại hội Văn Bút vào năm 1995.
Dù chọn lựa thái độ nào thì sáng tác
của những người cầm bút cũng phải gắn liền với thời đại mà anh ta
đang sống. Và phải chịu sự phán xét của độc giả. Và người cầm bút
nào cũng phải biết rằng những cái còn lại là sau khi anh ta đã
nằm xuống.
Trong quyển “Godfather”, một quyển truyện găng–tơ nổi tiếng của
Mario Puzo, hai nhân vật chính: “Bố Già Bố” Vitto Corleon và “Bố
Già Con” Michael Corleon, không ám ảnh tôi bằng hai người vợ của
hai nhân vật này.
Hai người đàn bà, một người là mẹ
chồng, một người là nàng dâu. Cả hai người đều là vợ của hai ông
Trùm Quyền Lực giới găng–tơ trong tiểu thuyết của Mario Puzo, mỗi
cuối tuần đều đến nhà thờ cầu nguyện cho linh hồn của chồng mình.
Cách đây vài năm, trên một nhật báo,
tôi có đọc được tin là bà Phương Khanh, vợ của nhà văn Nhật Tiến
mỗi tối đều lên chùa để cầu nguyện khi nhà văn này về Việt Nam.
Tôi không nhớ rõ lý do bài báo viết vì sao bà Phương Khanh phải
lên chùa cầu nguyện. Mãi cho tới bây giờ, tôi cũng không biết rõ
lý do. Bà Phương Khanh cầu nguyện – như bà Vitto Corleon và bà
Michael Corleon cầu nguyện cho linh hồn của chồng mình vì biết
chồng mình làm chuyện gian ác mà không thể ngăn cản được? Hay là
vì lý do bà chỉ là một Phật tử?
Có điều tôi biết chắc chắn rằng hoa
phong lan thanh tao, cao quý hơn hoa phù dung tam sắc túy!
Nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đã
chít giải khăn sô cho hàng vạn công nương Huế tự nhận mình là
người đi hái phù dung không có gì khó hiểu.
Chỉ tiếc cho nhà văn Nhật Tiến!
*****
“Tôi đọc cho con gái chép một bài
viết nhỏ này xin gửi tới bà con bạn bè thương mến, những ai yêu
mến, quen biết và quan tâm đến tôi. Còn những kẻ luôn đem tôi ra
làm mồi nhậu cho dã tâm của họ như ông Liên Thành và bè đảng của
ông ta, tôi không muốn mất thời giờ đối đáp với họ. Dĩ nhiên bài
viết này không dành cho họ.
Năm nay tôi 81 tuổi, và tôi biết, còn
chẳng mấy hồi nữa phải về trời. Những gì tôi đã viết, đã nói, đã
làm rồi trời đất sẽ chứng nhận. Dầu có nói thêm bao nhiêu cũng
không đủ. Tốt nhất là im lặng bằng tâm về cõi Phật. Duy nhất có
một điều nếu không nói ra tôi sẽ không yên tâm nhắm mắt. Ấy là
câu chuyện Mậu thân 1968.
Vậy xin thưa:
1. Mậu Thân 1968 tôi không về Huế. Tôi,
ts Lê Văn Hảo và bà Tùng Chi (những người lên chiến khu trước)
được giao nhiệm vụ ở lại trạm chỉ huy tiền phương –địa đạo Khe
Trái (Thuộc huyện Hương Trà – tỉnh Thừa Thiên)– để đón các vị
trong Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình.
Thành Phố Huế như Hoà thượng Thích Đôn
Hậu, cụ Nguyễn Đóa, ông Tôn Thất Dương Tiềm... lên chiến khu.
Mồng 4 tết tôi được ông Lê Minh (Bí thư Trị–Thiên) báo chuẩn bị
sẵn sàng về Huế.
Nhưng sau đó ông Lê Minh báo là ‘tình
hình phức tạp’ không về được. Chuyện là thế. Tôi đã trả lời ở
RFI, Hợp Lưu, Báo Tiền Phong chủ nhật... khá đầy đủ. Xin không
nói thêm gì nữa.
2. Sai lầm của tôi là nhận lời ông
Burchett và đoàn làm phim ‘Việt Nam một thiên lịch sử truyền
hình’ trả lời phỏng vấn với tư cách một nhân chứng Mậu thân Huế
1968, trong khi tôi là kẻ ngoài cuộc.
Tôi xác nhận đây là link clip tung lên
mạng là bản gốc cuộc phỏng vấn:
https://www.youtube.com/watch?v=MaNr16RDrzQ
Để chứng tỏ mình là người trong cuộc,
tôi đã dùng ngôi thứ nhất– ‘tôi’, ‘chúng tôi’ khi kể một vài
chuyện ở Huế mậu thân 68. Đó là những chuyện anh em tham gia
chiến dịch kể lại cho tôi, tôi đã vơ vào làm như là chuyện do tôi
chứng kiến. Đặc biệt, khi kể chuyện máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh
viên nhỏ ở Đông Ba chết 200 người, tôi đã nói: ‘Tôi đã đi trên
những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên
thì toàn là máu... Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút
ra...’. Chi tiết đó không sai, sai ở chỗ người chứng kiến chi
tiết đó không phải là tôi, mà là tôi nghe những người bạn kể lại.
Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một việc rất đáng xấu hổ, từ bé đến giờ
chưa bao giờ xảy ra đối với tôi.
Cũng trong cuộc trả lời phỏng vấn này,
khi nói về thảm sát Huế tôi đã hăng hái bảo vệ cách mạng, đổ tội
cho Mỹ. Đó là năm 1981, khi còn hăng say cách mạng, tôi đã nghĩ
đúng như vậy. Chỉ vài năm sau tôi đã nhận ra sai lầm của mình. Đó
là sự ngụy biện. Không thể lấy tội ác của Mỹ để che đậy những sai
lầm đã xảy ra ở Mậu thân 1968.
Tôi đã nói rồi, nay xin nhắc lại:
Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bày
ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy
là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang
tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do
hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu
Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ
lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng.
3. Từ hai sai lầm nói trên tôi đã tự
rước họa cho mình, tự tôi đã đánh mất niềm tin yêu của nhiều
người dân Huế đối với tôi, tạo điều kiện cho nhiều kẻ chống cộng
cực đoan vu khống và qui kết tôi như một tội phạm chiến tranh.
Tôi xin thành thật nhìn nhận về hai sai
lầm nói trên, xin ngàn lần xin lỗi.
Sài Gòn, ngày 1 tháng 2 năm 2018.
Hoàng Phủ Ngọc Tường.”
*
“Lá
thư cuối đời” của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi
copy từ FB Trần Đình Thu, ảnh FB Lm. Lê Ngọc Thanh.
Cũng như nhiều người khác, tôi cũng đã
nghĩ “con chim sắp chết hót tiếng bi ai, con người sắp chết
nói lời chân thật”; nhưng không hiểu sao tôi lại không tin “lá
thư cuối đời” mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đọc cho con gái của
anh ta viết khi nghĩ đến những việc làm của ông Hồ Chí Minh toàn
là những chuyện “láo thiên, láo địa, láo từ Sịa láo tới Đông
Hà, láo qua Bến Hải, láo ra hải ngoại”.
Điển hình là chuyện ông ta ký tên Trần
Dân Tiên viết quyển “Vừa đi đường, vừa kể chuyện”
để ca tụng “Bác Hồ” và nhiều chuyện trời ơi đất hỡi khác
nữa như lời kêu gọi vào Tết Mậu Thân:
“Tiến
lên chiến sĩ, đồng bào
Bắc Nam xum họp,
xuân nào vui hơn.”
Vui đâu không thấy, chỉ thấy nhiều
người hoan hô nhà thơ Bùi Giáng khi nhà
thơ “cải biên” lời chúc của “Bác” Hồ thành:
“Tiến
lên chiến sĩ, đồng bào
Đánh cho chết mẹ
đồng bào miền Nam”.
Theo tác giả Hương Khê thì cái gọi là
“lá thư cuối đời” của HPNT hoàn toàn láo sạo vì anh ta đã đổ lỗi
cho “quân nổi dậy” chứ không phải là đường lối của CSVN khi phát
biểu:
“Ấy
là nỗi thống thiết tự đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc
thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành
động giết oan cùa QUÂN NỔI DẬY trên mặt trận Huế năm Mậu Thân”.
Và tác giả Hương Khê cũng đã dẫn chứng
nhận xét của nhà báo Nguyễn Quang Lập là người bênh vực cho HPNT:
“Cái liếm môi huyền thoại” và ánh mắt “láo liên của
anh trước cuộc phỏng vấn thì tôi không thể nào hiểu nổi”.
*
Chuyện tên đao phủ Hoàng Phủ Ngọc Tường
về cuối đời tìm mọi cách để chạy tội “chít khăn tang cho hàng
vạn công nương Huế” bằng cách đổ tội cho QUÂN NỔI DẬY, không
có gì khó hiểu. Bởi vì anh ta là Việt Cộng.
Chuyện khó hiểu của tôi là vì sao nhà
văn Nhã Ca, người được Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc Việt Nam
Cộng Hoà với tác phẩm “Giải
Khăn Sô Cho Huế” lại phát biểu là “Chế
Độ Miền Nam cũng hung hiểm như Chế Độ Miền Bắc” khi
quyển hồi ký này được dịch ra Anh ngữ?
Theo tôi, bà nhà văn Nhã Ca
bỉ ổi hơn nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường nhiều vì nhà thơ
Trần Dạ Từ, nhà văn Nhã Ca và gia đình đã sống bằng xương máu của
những người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
LÃO MÓC
(*) Tựa một tập thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Nghiem Nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, February 4, 2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang