Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự
truyện
Chủ đề:
Trận CTĐCT
Tác giả:
MĐ Trương Đăng Sỹ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Sydney, Australia ngày 10 tháng
Tám 2009
Kính gởi Niên Trưởng Giao Chỉ
(San Jose)
Nhân đọc được bài
“Trong đêm đen chợt thấy ánh mặt trời” của Niên trưởng, tôi đã
quyết định cầm lại cây bút. Nặng nề, đắn đo, suy nghĩ suốt mấy
đêm liền... Sau cùng tôi thấy mình có trách nhiệm phải nói lên
một sự thật của lịch sử và nhất là vinh danh những chiến hữu,
những đệ tử thâm tình đã vĩnh viễn nằm xuống bên bờ Cổ thành Đinh
Công Tráng (Quảng Trị) vào mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Ngắn gọn để tự giới thiệu với Niên
trưởng, tôi là cựu Thiếu tá Trương Đăng Sỹ, xuất thân Khóa 21
Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam Đà Lạt, Đại Đội trưởng Đại Đội 51
Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù, được Trung tá Nguyễn Chí Hiếu, Tiểu Đoàn
Trưởng Tiểu Đoàn 5 trao trọn trách nhiệm tổng chỉ huy điều động
lực lượng tiền phương tiến chiếm Cổ Thành Quảng Trị vào năm 1972.
Hiện nay, tôi đang sinh sống tại Sydney, Australia.
Với tư cách và danh dự của một Sĩ quan
xuất thân từ trường Võ Bị, tôi dám quả quyết với các niên trưởng
rằng tôi sẽ nói hoàn toàn sự thật sau đây vì nó có tính cách lịch
sử, mà theo tôi lịch sử phải là sự thật, đó là chân lý, đừng bẻ
cong ngòi bút, đừng che dấu và đừng đánh bóng cá nhân, nhất là
những người không trực tiếp tham dự cuộc chiến.
Tôi được tham dự tất cả những trận đánh
lừng danh trong quân sử của Việt Nam Cộng Hòa, từ năm 1966 mãi
đến ngày mất nước 30/4/1975. Với tư cách là một sĩ quan thuần túy
tác chiến, đi bộ, cầm bản đồ, địa bàn, tay bấm Combiné từ
Campuchia qua Hạ Lào, An Lộc, Quảng Trị, có thể nói chưa bao giờ
thất bại, nhưng chua cay và gay cấn nhất là Cổ Thành Đinh Công
Tráng (Quảng Trị). Sau đây là diễn tiến trận đánh.
Tôi đồng ý với Niên trưởng ở điểm là
hôm nay làm thế nào chúng ta phải có bản đồ trận liệt Quảng Trị,
cũng như phóng đồ Hành quân tái chiếm Quảng Trị. Nếu không chúng
ta cũng còn lẩn quẩn trong những nét đại cương.
Nói riêng về trận tái chiếm Quảng Trị,
tôi biết có rất nhiều người yêu cầu cũng như mong muốn tôi phải
lên tiếng, nhất là bên ban quân sử Mũ Đỏ. Nhưng tôi vẫn im lặng,
im lặng gậm nhắm tất cả những đau thương chua chát. Im lặng để
tôn trọng những người viết trước – những vị này đều không trực
tiếp tham dự trận đánh. Từ Phan Nhật Nam, Trương Dưỡng, Trịnh Hữu
Ân, đến Kiều Mỹ Duyên trong Chinh Chiến Điêu Linh... Chỉ có một
bài làm tôi để ý là bài của Đại úy Hồ Tường, Đại Đội trưởng Đại
Đội 52 trong Đặc san Mũ Đỏ, nhưng rất tiếc Hồ Tường cũng bị
thương sớm, hơn nữa là đàn em nên tôi hiểu rất rõ Hồ Tường đầy đủ
khả năng uống rượu, quậy phá và đánh giặc hơn là khả năng viết
lách. Đại úy Trương Văn Út (Út Bạch Lan) cũng trường hợp tương
tự.
Tôi rất
mong lá thư này đến trước khi cuốn phim tài liệu về trận đánh mà
quý Niên trưởng sắp thực hiện, mục đích là vinh danh các chiến
hữu đã nằm xuống bên bờ Cổ Thành, vinh danh Binh chủng Nhảy Dù đã
đổ quá nhiều xương máu cho một mục tiêu mà quả là cục xương khó
nuốt, nhưng lại ảnh hưởng quá lớn trên trường chính trị. Ước mong
quý Niên trưởng tôn trọng máu xương cua các chiến hữu và máu của
cả tôi đã đổ quá nhiều cho cuộc hành quân này. Tôi có tật bẩm
sinh trong đời binh nghiệp là không tranh giành chiến công vì
quan niệm tất cả là của chung, của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,
cũng như không đổ lỗi cho bất cứ một thất bại nào.
Trở lại diễn tiến cuộc hành quân, ngày
N có lẽ là ngày 28/6/1972, sau hai tháng tử thủ An Lộc, Tiểu Đoàn
5 Nhảy Dù được không vận ra phi trường Phú Bài Huế để nhập cuộc.
Toàn bộ Sư Đoàn tiến theo Quốc lộ 1 qua Hải Lăng, Triệu Phong,
vượt qua Đại Lộ Kinh Hoàng tiến về hướng La Vang thượng.
Qua bao nhiêu ngày tiến quân, dưới sự
yểm trợ tối đa của phi pháo và đầu đội mưa pháo của địch quân,
Đại Đội tôi cũng vào được Nhà Thờ La Vang và tạm ngủ tại nghĩa
trang một đêm để sáng hôm sau tiến chiếm mục tiêu làng Như Lệ.
Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù vào Thánh Địa La
Vang
Nhưng
sáng hôm sau, tôi được lệnh bàn giao khu vực La Vang lại cho Tiểu
Đoàn 11 Nhảy Dù của Thiếu tá Lê Văn Mễ băng qua Quốc lộ 1 và tiến
về hướng làng Trí Bưu để từ đó làm bàn đạp tiến thẳng lên Cổ
Thành Đinh Công Tráng.
Tôi nhớ rõ đêm hôm đó, trong tiếng pháo
ầm vang của ta và địch, Trung tá Nguyễn Chí Hiếu cho họp Ban Tham
mưu và các Đại đội trưởng để ban lệnh hành quân mới. Bên cạnh bản
đồ và sa bàn Cổ Thành Đinh Công Tráng, Trung tá Hiếu cho biết
Tiểu Đoàn 5 được vinh dự nhận nhiệm vụ bằng mọi giá phải chiếm
lại cho bằng được Cổ Thành. Sau khi phân tích tình hình địch và
bạn, phân chia nhiệm vụ, Trung tá Hiếu trịnh trọng hai tay cầm lá
Quốc Kỳ trao cho tôi và ông nói:
– “Đây là tất cả vinh dự của Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa và của Binh chủng Nhảy Dù, tôi đặt tất cả tin
tưởng vào anh. Cố gắng hoàn thành nhiệm vụ, tất cả tiền quân đặt
dưới quyền điều động của anh.”
Tôi đưa hai tay nhận lá Quốc Kỳ nửa
hãnh diện, nửa lo âu. Nói có vong linh Trung tá Hiếu: ông đã đặt
tôi vào cảnh còn hơn Thái tử Đan, tiễn Kinh Kha qua sông Dịch.
Trong phiên họp, ông còn đề nghị dùng
dây để leo lên thành, đánh như lối La Mã ngày xưa. Sau đó ông
trao cho tôi một cái máy hình chữ nhật khoảng 2 tấc x 4 tấc của
Mỹ, ông căn dặn trong trường hợp tuyệt vọng, bấm vào nút đỏ ngay
lập tức, Không Lực Hoa kỳ và hải pháo từ Đệ Thất Hạm Đội sẽ hủy
diệt mục tiêu, kể cả quân bạn. Cho đến hôm nay tôi vẫn chưa hiểu
đó là chiếc máy gì? Sau này, có lúc gần như tuyệt vọng tôi định
đem ra sử dụng, nhưng nghĩ còn đến bao nhiêu sinh mạng dưới tay,
sinh mạng của con người đó! Ngần ngại rồi lại thôi. Đêm hôm đó,
không thể nào chợp mắt. Tôi chưa bao giờ từ chối bất cứ nhiệm vụ
nào, nhưng linh cảm phải hy sinh rất nhiều xương máu “Nhất tướng
công thành vạn cốt khô”.
Nỗ lực chính đi đầu là hai đại đội 51
và 52. Sau hai ngày di chuyển ngày đêm, vượt qua một con sông
nhỏ, trước mặt là cánh đồng trống, bên kia cánh đồng là làng Trí
Bưu. Tôi biết trong làng địch quân bố trí chờ sẵn... lực lượng
không biết bao nhiêu nhưng có cả 12.8ly, cối 61 và 82ly.
Đặt ống dòm nhìn mục tiêu làng Trí Bưu,
tôi gọi Hồ Tường đến ra lệnh cho một trung đội thật mỏng chiếm
nghĩa trang giữa cánh đồng làm bàn đạp. Điều chỉnh xong phi tuần
A37 xuống đúng mục tiêu, xin thêm 20 tràng (T.O.T = Time on
Target). Sau đó là mười tràng đạn khói bao trùm làng Trí Bưu.
Liền sau đó, sử dụng 3 trung đội hàng ngang xung phong cộng với 2
trung đội sẵn sàng tiếp ứng. Binh sĩ vừa bắn vừa hô xung phong,
đẹp hơn ciné chiến tranh.
Chịu không nổi hỏa lực khủng khiếp của
phi pháo ta, địch tháo chạy bỏ lại chiến trường 6 xác chết mặc đồ
khaki Nam định, chân dép râu, đầu đội nón cối.
– “Trình 501, tịch thu 1 khẩu 12.8ly, 1
cối 82ly và một số AK47 và B40...”
– “Tập trung lại tại chỗ, tất cả bung
rộng lục soát, cẩn thận tối đa.”
– “Nhận rõ 501, 5 trên 5.”
Từ làng Trí Bưu, về hướng Tây Bắc, mục
tiêu kế tiếp là Nhà Thờ Trí Bưu. Tôi và Hồ Tường song song bung
đội hình từng bước tiến lên, nhường làng Trí Bưu lại cho Bộ Chỉ
huy Tiểu đoàn. Đoạn đường từ đây đến Nhà Thờ Trí Bưu khoảng vài
trăm thước cũng không phải dễ đi... Tôi đã sử dụng tất cả hỏa lực
yểm trợ: 18 khẩu 105ly cơ hữu Nhảy Dù, 4 khẩu 155ly, 2 khẩu 175ly
của Quân đoàn 1...
Ngày nào cũng có ít nhất hai phi tuần
oanh tạc. Ban đêm, thỉnh thoảng còn được hải pháo từ Đệ Thất Hạm
Đội bắn yểm trợ. Nếu cần thiết, còn được 18 khẩu 105ly của Thủy
Quân Lục Chiến tăng cường. Ngày nào ít lắm cũng có một hay hai
lần bắn “T.O.T”.
Có lúc chúng tôi phải tiến quân trong
mưa bụi của pháo binh, mục đích không cho địch quân ngóc đầu khỏi
hố. Tôi áp dụng chiến thuật từng bước nhảy vọt. Hồ Tường tiến tới
từ 50 đến 100m thì dừng lại bố trí, 51 tiến lên qua mặt 52, rồi
lại tiến lên 50m đến 100m dừng lại hầm hố bố trí, cứ thế tiến
dần...
Nhưng
sức kháng cự của địch quân còn quá mạnh, nhất là bên cánh phải
còn khu làng nhỏ sát bờ sông Thạch Hãn, địch bắn qua quá rát. Ban
đêm đôi lúc chúng tôi còn nghe cả tiếng chiến xa địch.
Tôi quyết định xin thêm quân tăng viện
và Đại đội 2 trinh sát của Đại úy Trương Văn Út (Út Bạch Lan)
nhập trận. Tôi tung Út Bạch Lan qua bảo vệ sườn phải cùng song
song tiến về hướng Cổ Thành. Út Bạch Lan xông xáo, lanh lợi, gan
lì ầm vang trong máy, nhất quyết dứt điểm mục tiêu.
Sau 7, 8 ngày quần thảo với địch quân,
di chuyển ngày không được chúng tôi tiến ban đêm... và một sự
tình cờ ngẫu nhiên, một tiểu đội đi lạc vào Nhà Thờ Trí Bưu. Nghe
báo cáo, tôi bèn ra lệnh chiếm giữ và tung thêm quân vào lục
soát, một cảnh tượng hãi hùng thương tâm hiện ra trước mắt – dân
chúng kẹt dưới hầm của Nhà Thờ hơn 100 người... già trẻ, bé lớn
vừa đói khát vừa thương tật... Hầm trú ẩn nhà Thờ dày và kiên cố.
Gặp chúng tôi, họ mừng vui ra mặt, một
giọng Huế thân thương vang lên:
– “Mình được lính ‘con Ó’ cứu rồi các
ôn ơi!”
Tôi ra
lệnh cho y tá săn sóc thuốc men và phát thức ăn tạm cho đồng bào,
chỉ hướng cho họ đi về phía sau, gọi máy báo cáo cho TĐ tiếp nhận
và xin thêm quân lên giữ nhà Thờ vì sợ địch cắt đứt đường tiếp tế
tải thương. Đại đội 54 của Trung úy Nguyễn Đình Dương lên chiếm
giữ. Dương sau này được lệnh thuyên chuyển về Phủ Phó Tổng thống.
Ban Chỉ huy còn tăng cường thêm 1 đại đội của TĐ11 Nhảy Dù (Song
kiếm trấn ải). Đại đội trưởng là Trung úy Đinh Viết Trinh. Lúc
mới ra trường, Trinh về TĐ5 và làm trung đội trưởng cho tôi. Nghe
tiếng Trinh trong máy, tôi thấy Trinh tiến bộ, gan lì, xông xáo
hơn trước nhiều. Trinh tiến lên bên cánh trái chiếm nghĩa trang,
từng ngôi mộ... tiến về hướng Cổ Thành. Bên trái là TĐ6 Nhảy Dù
đang chiếm giữ căn cứ Compound của Mỹ để lại. Nhà ga Quảng Trị đã
có Mê linh Thiếu tá Lê Văn Mễ TĐ11 trấn giữ.
Có lần Hồ Tường đề nghị, nếu trường hợp
bị địch dùng chiến xa và biển người cắt đứt đường tiếp viện giữa
tiền quân và Bộ Chỉ Huy, chúng tôi sẽ có kế hoạch âm thầm di
chuyển ban đêm về hướng TĐ6 Nhảy Dù. Dĩ nhiên tôi không chấp
thuận lý do “Lá Quốc Kỳ chưa được tung bay trên Cổ Thành”.
Hằng giờ, hằng ngày và hằng đêm, Thiếu
tá Lê Hữu Chí B3 và 101(Trung tá Nguyễn Chí Hiếu) gọi máy hỏi
thăm và hối thúc liên tục. Tôi như ngồi trên đống lửa, thuốc lá
và café đen liên tục...
Sức kháng cự của địch quân quá mạnh,
thiệt hại nặng nhất cho tiền quân là đại pháo 130ly từ dãy Trường
sơn pháo xuống. Bên kia sông Thạch Hãn hỏa lực của địch bắn qua
quá rát. Đại đội 2 trinh sát của Út Bạch Lan phải sử dụng sở
trường dùng các toán trinh sát nhỏ chiếm từng ngôi nhà, lũy tre
để tiến lên ngày và đêm...
Tôi và Hồ Tường cho tiền quân nhổ chốt
bằng lựu đạn, đánh cận chiến và liên tục sử dụng phi pháo tối đa.
Cho dù phải sinh Bắc tử Nam, những tên lính điên cuồng cộng sản
tuyệt đối không thể nào làm khác hơn vì chân đã bị xiềng chặt vào
các ổ phòng không, đại liên hoặc súng cối. Mỗi đêm trôi qua đều
hải hùng, nặng mùi tử khí. Ban ngày khói lửa ngập trời. Cứ thế
chúng tôi từ từ tiến bước... khoảng cách từ đây đến Cổ Thành từ
từ rút ngắn...
Sự thiệt hại càng ngày càng nhiều,
những cán bộ nòng cốt lần lượt bị thương hoặc tử thương phải rời
trận địa. Bao nhiêu tiền sát viên đưa lên đều lần lượt bị thương
và tử thương, vì họ quá hăng lên ngay tuyến đầu để quan sát điều
chỉnh, có đôi lúc tôi phải kiêm luôn tiền sát viên, nhưng muốn
được yểm trợ phải xưng danh hiệu, các pháo đội trưởng Dù đều quen
biết nên không trở ngại nhiều.
Vào một đêm tối trời, bên ngoài trời
mưa lất phất, Út Bạch Lan gọi tôi qua tần số đặc biệt để báo cáo
cho biết các toán trinh sát gần như tê liệt, đệ tử ruột thịt bị
loại khỏi vòng chiến quá nhiều, thiệt hại đáng kể. Trong lúc tình
hình địch mạnh lắm, đại pháo 130ly, hỏa tiển 122ly, phòng không
37ly, hỏa tiển SA7, đại liên 12.8ly, cối đủ loại tạo thành một
bức tường hỏa lực dày đặc rất khó tiến quân. Bên kia sông Thạch
Hãn, địch điều quân như chỗ không người. Út Bạch Lan lưu ý tôi
nên thận trọng, báo cáo tình hình, xin thêm tăng viện. Nếu sườn
bên phải bỏ trống, sẽ là một trở ngại và là nỗi lo âu to lớn cho
tôi.
Sáng hôm
sau, tôi gọi máy đề nghị với 101 cho Đại đội 2 trinh sát lùi về
sau giữ điểm tiếp tế tải thương và xin thêm quân tăng viện. Trong
cùng một ngày, 2 Đại đội của Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù được phái
lên tăng cường và nhập trận. Có lẽ Bộ Chỉ Huy hành quân quan niệm
Biệt Kích chuyên đánh từng toán nhỏ, sở trường chiến đấu trong
thành phố và mới nổi danh ở chiến trường An Lộc. Nhưng thật sự
với tôi có một trở ngại lớn trong vấn đề phối hợp và điều động
chỉ huy. Vì hỏa lực của địch quá mạnh, nên 2 Đại đội 81 Biệt Kích
Dù tiến hơi cẩn thận đôi lúc bị cầm chân tại chỗ.
Trong lúc Út Bạch Lan điều động Đại đội
2 Trinh sát lùi về sau thì bị chốt của địch khai hỏa dữ dội ngăn
chặn, địch đã cắt đứt đường tiếp tế tải thương. Tôi nói với Út
với bất cứ giá nào cũng nhổ cho bằng được các ổ kháng cự này. Tôi
xin phi tuần Skyraider mang bom xăng đặc Napale và quyết định
đánh sát cận rất nguy hiểm. Hai đầu là quân bạn, địch cắt ở giữa,
phải làm thế nào đây?
Tôi hỏi Út dám chấp nhận hy sinh không?
Út gật đầu, và chúng tôi quyết định sử dụng bom Napale. Sau khi
L19 bắn khói điều chỉnh, chiếc khu trục thứ nhất lao xuống thả 2
quả bom xăng đặc. Cả một vùng biển lửa bốc cháy... sức nóng tàn
khốc tỏa rất gần quân bạn, tôi nghe một vài binh sĩ la lên:
– “Check fire đi 501, nguy hiểm lắm!”
Tôi lạnh lùng bấm máy gọi L19:
– “Good, tiếp tục!”
Chiếc thứ hai lao xuống, 2 quả bom nữa
rời cánh phi cơ, cụm lửa cao lan rộng hơn tiêu hủy cả một vùng
rộng lớn...
Tôi gọi Út:
–
“Vịt con (VC) bị nướng sống hết rồi, vào lượm súng đi Út Bạch
Lan!”
– “Nhận
rõ 501, tôi sẽ làm cỏ sạch bọn chúng.”
Út Bạch Lan cho xung phong và thanh
toán gọn các ổ kháng cự. Từ đó, con đường tiếp vận tải thương mới
được khai thông.
Trở lại với tiền quân, tôi và Hồ Tường
mở bản đồ, tìm kế hoạch tiếp tục tiến quân. Con đường từ đây đến
Cổ Thành còn hơn 300m mà sao dài ra thăm thẳm... và lắm gian
nguy. Tất cả phi pháo đa phần đều dồn hết vào Cổ Thành, nhưng tôi
lại không muốn như thế, tôi lại muốn dồn hỏa lực lên phía Bắc
sông Thạch Hản đến phi trường Ái Tử ra tận Đông Hà – phía Tây dãy
Trường sơn, phải làm sao khóa họng các khẩu đại pháo 130ly và hỏa
tiễn 122ly của địch.
Cần nói rõ trong thời điểm này, Không
Lực Mỹ và B52 không đồng ý oanh tạc trong thành phố Quảng Trị.
Quảng Trị chìm trong biển lửa, điêu tàn và thảm khốc. Gần một
tháng trời quần thảo với địch quân với hơn 2 Sư đoàn chính quy
Bắc Việt: Sư đoàn 304 và 324 (?) Sự thiệt hại của đôi bên đã lên
đến con số khá cao, nếu được tính chính xác.
Vào một đêm đang ngồi trong hầm, bấm
đèn pin xem bản đồ, suy nghĩ phương thức tiến quân thì hiệu thính
viên đưa máy cho tôi và nói 101 muốn gặp:
– “101, đây 501 tôi nghe!”
– “Báo cho anh biết, đích thân Tông
tông ra lệnh cho Quân Đoàn 1 và Đại bàng 1 (Trung tướng Ngô Quang
Trưởng) ra lệnh cho chúng ta phải thanh toán mục tiêu Cổ Thành
bằng mọi giá, càng sớm càng tốt, nhận rõ trả lời.”
– “Nhận rõ 101, tôi sẽ cố gắng!”
Thẫn thờ buông máy, suy nghĩ mông
lung...
Những
sĩ quan chủ lực của tôi lần lượt bị thương rời vùng, từ Trung úy
Nguyễn Tiến Việt, Thiếu úy Nguyễn Văn Hội, Chuẩn úy Sanh... đều
bị thương. Bất đắc dĩ phải cho hạ sĩ quan cao cấp lên làm Trung
đội trưởng, có người không biết đọc bản đồ, nhưng tác chiến rất
lì lợm và kinh nghiệm.
Vì sức kháng cự của địch quân còn quá
mạnh, đại quân bị khựng lại. Tôi quyết định cho thành lập toán
cảm tử, lợi dụng đêm tối tiến lên chiếm thành, hầm hố vững chắc,
cố gắng cầm cự để tờ mờ sáng hôm sau, tôi dẫn đại quân lên chi
viện và dứt điểm mục tiêu Cổ Thành. Toán cảm tử này hoàn toàn
tình nguyện. Đó là kế hoạch nhưng sự thi hành hơi khác.
Số tình nguyện lên khá cao, đã hơn 10
binh sĩ. Nhiều quá dễ bị lộ! Tôi quyết định chọn ra 8 người. Hạ
sĩ nhất Trần Tâm làm trưởng toán, Hồ Khang sinh trưởng lớn lên đi
học tại Quảng Trị nên làm tiền sát dẫn đường, Hậu mang máy, Hồ
Con, Lê Văn Lịch... Tôi không nhớ hết tên 8 người.
Vào một đêm tối trời, tôi tập hợp tiểu
đội tình nguyện này vào một căn hầm của dân để lại, căn dặn cẩn
thận và nói rõ mục đích chuyến đi nguy hiểm này. Chúng tôi chia
xẻ với nhau từng điếu thuốc quân tiếp vụ, sau cùng tôi lên tiếng:
– “Các anh nên suy nghĩ kỹ lại đi.
Không một ai có thể bắt buộc các anh, đây là vinh dự của Tổ quốc
và Quân đội dành cho các anh. Tôi chỉ hứa nếu nhiệm vụ hoàn
thành, tôi sẽ ký cho các anh 15 ngày phép về Sài Gòn.”
Hậu mếu máo nói với tôi:
– “Chúng tôi không dám nghĩ đến những
vấn đề quá cao xa, chúng tôi tình nguyện ra đi vì quá thương Đích
thân, mấy ngày qua Đích thân không ăn một miếng cơm, chỉ uống
nước, café và thuốc lá.”
Tôi vỗ vai từng người và hứa:
– “Tôi thề sẽ không bao giờ bỏ các anh
đâu, yên chí, sáng hôm sau sẽ có tôi bên cạnh.”
Hồ Khang xin mang theo lá Quốc Kỳ, Hậu
mang máy PRC25.
Đêm hôm đó, toán Quyết tử âm thầm lao
mình vào đêm đen. Tôi thức theo dõi từng bước đi, thỉnh thoảng
cho pháo binh bắn yểm trợ, soi sáng và chỉ hướng. Tiểu đội này
đôi lúc phải lẩn lách tránh các ổ kháng cự của địch. Nửa đêm hôm
đó, toán Quyết tử báo cáo đã thấy được Cổ Thành và đang tìm cách
lội qua hào sâu, sát bờ thành:
– “Nước sâu quá Đích thân.”
Hậu thều thào trong máy. Tôi gọi pháo
binh bắn yểm trợ tối đa vào Cổ Thành và xung quanh. Ra lệnh tiền
quân sẵn sàng xuất phát.
Tờ mờ sáng hôm sau, trong khi vạn vật
chưa tỉnh ngủ, bỗng nhiên tôi nghe tiếng la lớn:
“Việt Nam Cộng Hòa muôn năm, Nhảy Dù
muôn năm!”
Tôi
nghe hiệu thính viên đứt quãng trong máy:
– “Quốc Kỳ đã được dựng lên!”
Liền sau đó tiếng nổ ầm vang tứ phía.
Đại liên 12.8ly, AK47, B40... bắn xối xả vào một mục tiêu duy
nhất – lá Quốc Kỳ!
Sau đó mất liên lạc, tôi nhanh chóng ra
lệnh xuất phát và gọi pháo binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu bạn
và xin thêm đạn khói bao phủ Cổ Thành. Pháo binh địch cũng bắt
đầu lên tiếng trả đũa.
– “Mưa rơi nặng hột (pháo địch mạnh
lắm)”
Nhưng
cho dù mưa rơi dữ dội cách mấy, cho dù bão tố tôi cũng phải đi.
Tôi phải cứu các đệ tử của tôi. Tôi hối thúc Hồ Tường:
– “Sắp tới rồi, còn không đầy 100m nữa
thôi, nhanh lên 502!”
Tôi và Hồ Tường song song tiến thẳng
lên Cổ Thành, bỏ 2 Đại độ 81 Biệt Kích bên cánh phải đằng sau,
thế là sườn phải bị bỏ trống. Một vài binh sĩ bị thương vì pháo
kích, tôi không màng để ý, cứ tiến thẳng lên Cổ Thành và xin thêm
lá Quốc Kỳ thứ hai.
Sáng hôm đó khi mặt trời ló dạng, chúng
tôi đã nhìn thấy Cổ Thành trước mặt. Nhưng lại có một chướng ngại
vật quá lớn, đó là thành quá dày và cao. Thành dày khoảng 5m, cao
5m và được bao bọc bằng hào sâu tới cổ, rộng gần 10m.
Không thể sử dụng được hàng ngang, tiền
quân bị khựng lại, đào hầm hố bố trí và tìm phương thức tấn công.
Trên mặt thành, địch phòng thủ vững chắc trong các lô cốt, bắn
xối xả vào quân ta.
Hồ Tường cứ di chuyển ẩn núp sau các
dãy nhà sụp đổ, chạy tới chạy lui và dùng súng bắn tỉa Việt cộng
trên thành. Mỗi lần nhắm trúng một tên là hắn la lên vui mừng.
Với tôi, trước tiên phải làm sao phá vỡ được thành mới tính tới
chuyện xung phong. Nếu cho quân lội qua hào, rồi dùng dây leo lên
thành, chắc chắn chỉ làm bia cho địch tác xạ. Cho sử dụng 57ly
không giật, kể cả 90ly vẫn không thể phá nổi thành. Bên sườn
phải, địch quân vượt sông Thạch Hãn chi viện, bám đầu cầu và khai
hỏa dữ dội bên phải. Trong tình thế chẳng đặng đừng, tôi điều
động thêm một trung đội của Đại đội 54 do Chuẩn úy Thạch Hớn chỉ
huy tấn công và giữ sườn bên phải. Nhưng một trung đội làm sao
chống nổi biển người!
Đêm hôm đó đành bám trụ cố thủ, cho
thám sát mặt nước cũng như kéo xác toán cảm tử còn kẹt trong
thành. Quả thật là một đêm kinh hoàng, tôi không thể nào chợp
mắt, cafe hết, thuốc lá chẳng còn... Xác đệ tử cách mình chỉ vài
chục thước chưa kéo về được, bức tường thành kiên cố và hào sâu
đầy chướng ngại, làm cách nào thanh toán đây?
Khuya hôm đó, một binh sĩ toán cảm tử
chạy về được báo cáo tôi biết: Hồ Khang, Trần Tâm, Hồ Con, Hậu đã
tử thương trên thành, số còn lại đều thất lạc!
Sáng hôm sau, tôi cho sử dụng hỏa tiển
M72, 4 khẩu châu vào và bắn cùng một lúc với hy vọng phá nổi
tường thành, nhưng bờ thành chỉ xây xuyển đôi chút rồi vẫn sừng
sững giữa trời...
Ngày N+26, một ngày định mệnh đã xảy
đến!
Tôi quyết
định sử dụng bom cực mạnh để phá thành. Sau khi ra lệnh cho binh
sĩ hầm hố cho thật kiên cố, tôi cho gọi Hồ Tường đến chung một hố
sơ sài của dân để lại. Một sai lầm lớn, không thể đặt hai bộ chỉ
huy Đại đội chung cùng một hố. Ít nhất 4 cần antene và một số
binh sĩ lố nhố sẽ là mục tiêu tốt cho địch pháo kích, nhưng để dễ
chỉ huy điều động, tôi chấp nhận mọi hậu quả.
Sau khi nghe tôi trình bày kế hoạch, Hồ
Tường có vẻ lưỡng lự nhưng không dám cãi. Tôi quyết định đánh bom
theo trục Tây Bắc xuống Đông Nam, nghĩa là đốt diện với tiền
quân.
Một
chiến thuật hoàn toàn sai nguyên tắc, rất nguy hiểm cho quân bạn.
Mục đích của tôi là muốn lấy gạch đất của thành để lấp hào sâu,
làm bàn đạp xung phong vào thành. Chiếc khu trục đầu tiên nhào
xuống, 2 quả bom rời cánh phi cơ, tất cả đều cúi sát mặt đất, nón
sắt che đầu. Rồi chiếc thứ hai lao xuống, thêm 2 quả nữa nổ long
trời lỡ đất, cát bụi tung phủ cả bầu trời...
Khi ngẩng đầu lên nhìn trong đám bụi
mờ, tôi thấy cả một niềm vui, tôi vỗ vai Hồ Tường:
– “Thành đã bị vỡ, chuẩn bị xung
phong!”
Sau
khi gọi pháo binh, đầu nổ chụp lẫn chạm nổ, sau đó là 20 tràng
đạn khói phủ ngập mục tiêu. Tôi ra lệnh 2 trung đội đầu bỏ ba–lô
tại chỗ, một người cầm lựu đạn, một người cầm súng vượt nhanh qua
hào sâu, bám chặt vào góc Cổ Thành đã bị vỡ. Nhờ đất đổ xuống lấp
mặt nước hơi cạn, lợi dụng màn khói bao phủ, nên tiền quân vượt
qua tương đối dễ dàng. Khi màn khói vừa tan, địch quân bắt đầu
trả đũa dữ dội. Nặng nhất là hai lô cốt ở mặt tiền và giữa sân
cột cờ Tiểu khu, địch còn ngoan cố trong hầm hố bắn trả rất mạnh.
Tôi tung thêm vào thành một trung đội, bung rộng đội hình vừa đào
hầm hố, vừa chống cự.
Phi cơ quan sát L19 bao vùng báo tôi
biết địch từ phía Bắc sông Thạch Hãn tràn qua như kiến! Tôi một
mặt xin pháo binh yểm trợ, một mặt xin tiếp phi tuần oanh kích.
Trong giờ phút dầu sôi lửa bỏng như
thế, thình lình một tai họa xảy đến. Một quả đạn cối 82ly nổ ngay
hầm chỉ huy. Nói là “hầm” chứ thật ra chỉ là một ụ ẩn nấp sơ sài,
trước mặt đường là hào sâu vì tôi muốn dễ quan sát tiền quân. Hồ
Tường máu me đầy người, 3 hiệu thính viên: một chết, hai bị
thương nặng. Riêng tôi cảm thấy cánh tay trái trĩu nặng, máu đào
đã thấm ướt chinh y. Tôi cho gọi Thượng sĩ Trực lên tải thương và
y tá băng bó tạm vết thương. Còn một tay vẫn còn sử dụng được
Combiné. Lúc đó tôi đã là người say máu.
Gọi máy báo cáo về Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn
để nhận được lời khiển trách của 101:
– “Căn dặn anh nhiều lần, đừng chụm hai
bộ chỉ huy lại một chỗ, không nghe!”
Thiếu tá Lê Hữu Chí B3 vẫn còn đùa cợt
trong máy:
–
“sử dụng Độc Cô cửu kiếm đi Lệnh Hồ đại ca!”
Đôi lúc danh hiệu truyền tin của tôi là
“Lệnh Hồ Xung”, với tình trạng này dù có 10 thành Cửu dương thần
công, hay độc cô cửu kiếm cũng đành bó tay!
Tôi cho củng cố, phối trí lại lực
lượng. Hai Đại đội 51 và 52 nhập lại thành một. Bung 51 và Đinh
Viết Trinh lên bên trái. Bên phải sát bờ sông Thạch Hãn, hối thúc
2 Đại đội 81 Biệt Kích tiến lên giữ cạnh sườn. Nhưng vì sức kháng
cự của địch quá mạnh nên cánh quân này bị dậm chân tại chỗ.
Đã kéo về được 3 xác của toán Quyết tử:
Hồ Khang bị chặt làm 3 khúc nhận ra được vì anh đeo thẻ bài dưới
chân, Hồ Con gục ngã, Lê Văn Lịch bị bắn ngay giữa đầu... số còn
lại bị thất lạc.
Ra lệnh cho các trung đội trong thành
củng cố hầm hố, tôi quyết định cho dựng Quốc Kỳ lên lần thứ hai.
Cờ vàng ba sọc đỏ là mối thù không đội trời chung của cộng sản,
cho nên vừa thấy lá Cờ tung bay là chúng khai hỏa dữ dội, nặng
nhất còn ở giữa cột cờ Tiểu khu Quảng Trị. Hai khẩu 12.8ly ở lô
cốt mặt tiền hạ nòng bắn xối xả, B40, B41, AK47 châu thẳng vào
cột cờ. Quân ta cũng chống trả quyết liệt với quyết tâm giữ vững
ngọn cờ!
Tôi
gọi L19 lên bao vùng và quyết định dùng bom đánh thẳng vào cột cờ
Tiểu khu. Danh hiệu của L19 bấy giờ là Phi Long (nếu tôi nhớ
không lầm).
–
Phi Long, Phi Long đây! 501 gọi, nghe rõ trả lời!
– Phi Long tôi nghe.
– Anh có nhìn thấy lá Quốc Kỳ ở góc
Đông Nam Cổ Thành không?
– OK, đã nhìn thấy rõ!
– Tôi đang ở đó. Anh cho đánh từ lá Cờ
về hướng Tây Bắc từ 100 đến 150m, nhận rõ trả lời.
– Nhận rõ 5/5.
– Lưu ý anh là phòng không địch rất
mạnh. Hỏa tiển SA7 và 37ly đang chào đón các anh.
Lưu ý dùm fighter đánh trên đầu khói,
vì khói đang bay dạt về hướng tôi.
– Đã nhận rõ, tôi sẽ gọi phi tuần đến
ngay!
Khoảng
10 phút sau, 2 chiếc A37 bán phản lực vào vùng, bay lượn xung
quanh và chờ L19 chỉ điểm. L19 bay quá cao để tránh phòng không
nên khi lao xuống bắn khói chỉ điểm không được chính xác, hơn nữa
cụm khói đang từ từ theo chiều gió bay đến chúng tôi...
Tôi vừa bấm máy gọi Phi Long thì chiếc
A37 đã đầu tiên lao xuống, 2 quả bom rơi xuống ngay trung đội
đầu.
Tôi thất
thanh la lớn: “Check fire ngay lập tức!”
Nhưng sát theo sau là chiếc thứ hai lao
xuống, 2 quả nữa chấn động cả vùng. Tôi ra lệnh tung khói màu và
gọi “check fire”. Đã trễ rồi! “Phi cơ đã đánh lầm chúng tôi rồi!”
Tôi cảm thấy lồng ngực ê ẩm, tay chân
nặng trĩu. Cả một bầu trời sụp đổ thê lương. Hơn phân nửa của 3
trung đội đầu gần như tê liệt. Nhìn binh sĩ lần lượt tải thương,
dìu nhau trở lại mà lòng tôi tê cứng. Tại sao? Định mệnh nghiệt
ngã hay số trời?
Tôi rút máy hình chữ nhật ra định tiêu
hủy mục tiêu, lưỡng lự... lại thôi! Rút colt 45 ra định kết liễu
đời mình để đi theo chiến hữu, nhưng đệ tử xung quanh ngăn cản.
Sau khi báo cáo về Bộ Chỉ Huy, tôi kiểm
soát lại binh sĩ, tạm bố trí chờ lệnh. Chiều hôm đó, Trung tá
Hiếu cho Thiếu tá Bùi Quyền lên thay và cho tôi về dưỡng thương.
Nhưng tôi biết rõ, nếu tôi về đêm nay và nếu lỡ bị địch tấn công
coi như tan rã. Tôi cần ở lại và quyết định từ chối tải thương.
Thiếu tá Bùi Quyền cho biết lệnh ngày
mai bàn giao Cổ Thành lại cho Thủy Quân Lục Chiến để nhận nhiệm
vụ khác. Tôi không cần thắc mắc, vì thật ra tôi chỉ còn là một
cái xác không hồn, đau thương, uất nghẹn...
Chỉ vì Cổ Thành Quảng Trị, chỉ vì lá
Quốc Kỳ, mà biết bao nhiêu chiến binh Mũ Đỏ đã bị thương và nằm
xuống nhẹ nhàng và hãnh diện.
Sáng hôm sau, 27/7/1972, bàn giao vùng
trách nhiệm lại cho TQLC trong màn khói bao phủ để tránh địch
quân quan sát, pháo kích và tấn công. Địa điểm đầu tiên cách bờ
thành chưa đầy 100m, nằm trong tầm đạn của quân thù.
Sau ngày 27/7/1972, chiến thuật và sự
điều binh của TQLC tôi hoàn toàn không rõ.
Thay lời kết:
Tôi muốn nói: “Nhảy Dù” đã đánh và đã
vào Cổ Thành Quảng Trị như thế đó. Vào bằng tất cả hỏa lực và máu
xương. Vào bằng tất cả quyết tâm của tuổi trẻ hiến dâng cho Tổ
Quốc, cho dân tộc. Quyết tâm dựng lại cho bằng được lá Quốc Kỳ.
Nhưng than ôi: “Mưu sự tại nhân, thành
sự tại thiên”. Bây giờ, đã 37 năm trôi qua, trong lúc TQLC chuẩn
bị làm Lễ Chiến thắng Cổ Thành Quảng Trị thì cũng có một người
đang âm thầm làm giỗ tưởng niệm các đệ tử thân thương của mình,
cho dù đơn giản với một vài nén hương, một vài đóa hoa hay đôi
dòng thương nhớ để nói lên sự hy sinh, lòng dũng cảm và hào hùng
của những “Thiên Thần Mũ Đõ” trong trận chiến Cổ Thành.
Hồ Khang, Hồ Con, Trần Tâm... quê hương
tôi nghèo, tên tôi không chữ lót, nhưng họ mới thật sự là những
anh hùng.
Một
Đỗ Từ Long, đầu không bao giờ mọc tóc vì ba gai thành phố, nhưng
đánh giặc thì lì lợm mấy ai bằng. Chạy lên chạy xuống xin lựu đạn
để gục ngã trên hố quân thù. Ngày nào nó cũng nghêu ngao:
“Tóc em dài em cài hoa Thiên lý,
Tóc anh dài, Thượng sĩ cạo đầu anh...”
Còn nhiều và rất nhiều nữa, Thượng sĩ
già Nguyễn Văn Trực, Hậu, Lịch, Tống, Kình... tất cả đã cùng tôi
dầm sương dãi nắng, qua bao nhiêu hiểm nguy binh lửa, mà phút
chốc đã bỏ tôi nằm đây bất động...
Còn 52, còn Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù, Đại
đội 2 Trinh sát, Biệt Kích 81 Dù, bao nhiêu người nằm xuống?!
Lịch sử có ghi, xin hãy ghi dùm, HỌ mới
đích thực là anh hùng. Chưa bao giờ họ được hưởng bổng lộc, chưa
bao giờ được thấy vinh quang dù chỉ trong chớp mắt nhìn được Cờ
vàng 3 sọc đỏ tung bay trên Cổ Thành Quảng Trị, cho dù một phút
giây, cho dù giữ không nổi, nhưng họ đã cho đó là sứ mệnh thiêng
liêng của người lính VNCH, của chiến binh Mũ Đỏ.
Hãy chờ tôi các em nhé! Cho dù sớm hay
muộn, cho dù con đường có ngắn hay dài, tôi cũng sẽ gặp lại các
em ở một nơi xa xăm nào đó, để cùng nhau nâng chén rượu đoàn
viên:
“Xin
cho tôi một mộ phần,
Bên ngàn chiến hữu
của tôi.”
Sydney, mùa
đông 2009
Trương Đăng Sỹ
Nguồn:
https://cothanhquangtri.blogspot.com/2021/09/nhay-du-va-co-thanh-inh-cong-trang.html
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Danh sách những bài viết trong trang nhà GĐMĐVM/DMV
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by luan nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, December 17, 2021
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang