Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tạp
ghi
Chủ đề:
Tiếng VIỆT
Tác giả:
Trịnh Thanh Thủy
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Vấn đề
ngôn ngữ là vấn đề của muôn thuở, không riêng gì của người Việt.
Trong bài viết này, tôi muốn bàn về một thực trạng của tiếng Việt
mà đã đến lúc, chúng ta không thể không suy nghĩ về nó một cách
nghiêm túc. Đó là nguy cơ diệt vong của một thứ tiếng Việt mà
người miền Nam Việt Nam dùng trước năm 1975 hay còn được gọi là
tiếng Việt Sài Gòn cũ. Thứ tiếng Việt đó đang mất dần trong đời
sống hàng ngày của người dân trong nước và chẳng chóng thì chầy,
nó sẽ biến thành cổ ngữ, hoặc chỉ còn tìm thấy trong tự điển,
không còn ai biết và nhắc tới nữa. Điều tôi đang lo lắng là nó
đang chết dần ngay chính trong nước chứ không phải ở ngoài nước.
Người Việt hải ngoại mang nó theo hành trình di tản của mình và
sử dụng nó như một thứ ngôn ngữ lưu vong. Nếu người Việt hải
ngoại không dùng, hay nền văn học hải ngoại không còn tồn tại, nó
cũng âm thầm chết theo. Nhìn tiếng Việt Sài Gòn cũ từ từ biến
mất, lòng tôi bỗng gợn một nỗi cảm hoài. Điều tôi thấy, có lẽ
nhiều người cũng thấy, thấy để mà thấy, không làm gì được. Sự ra
đi của nó âm thầm giống như những dấu tích của nền văn hoá đệ
nhất, đệ nhị Cộng Hoà VN vậy. Người ta không thể tìm ra nghĩa
trang Mạc Đĩnh Chi, Cổ Thành Quảng Trị, nghĩa trang Quận Đội,
trường võ bị Thủ Đức, v.v. Tất cả đã thay đổi, bị phá huỷ hoặc
biến đi như một sắp xếp của định mệnh hay một định luật của tạo
hoá.
Nhắc đến
tiếng Việt Sài Gòn cũ là nhắc tới miền Nam Việt Nam trước 1975.
Vì cuộc đấu tranh ý thức hệ mà Nam, Bắc Việt Nam trước đó bị phân
đôi. Sau ngày Việt Nam thống nhất năm 1975, miền Nam thực sự bước
vào sự thay đổi toàn diện. Thể chế chính trị thay đổi, kéo theo
xã hội, đời sống, văn hoá và cùng với đó, ngôn ngữ cũng chịu
chung một số phận. Miền Bắc thay đổi không kém gì miền Nam. Tiếng
Việt miền Bắc đã chịu sự thâm nhập của một số ít ngữ vựng miền
Nam. Ngược lại, miền Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp sự chi phối của
ngôn ngữ miền Bắc trong mọi lãnh vực. Người dân miền Nam tập làm
quen và dùng nhiều từ ngữ mà trước đây họ không bao giờ biết tới.
Những: đề xuất, bồi dưỡng, kiểm thảo, sự cố, hộ khẩu, căn hộ, ùn
tắc, ô to con, xe con, to đùng, mặt bằng, phản ánh, bức xúc, tiêu
dùng, tận dụng tốt, đánh cược, chỉ đạo, quyết sách, đạo cụ, quy
phạm, quy hoạch, bảo quản, kênh phát sóng, cao tốc, doanh số, đối
tác, thời bao cấp, chế độ bao cấp, chế độ xem, nâng cấp, lực
công, nền công nghiệp âm nhạc, chùm ảnh, chùm thơ, nhà cao tầng,
đáp án, phồn thực, sinh thực khí, từ vựng, hội chứng, phân phối,
mục từ, kết từ, đại từ, nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân, v.v. dần
dà đã trở thành những từ ngữ quen thuộc trong đời sống hàng ngày
của người dân miền Nam.
Có những từ ngữ miền Nam và miền Bắc
trước 1975 đồng nghĩa và cách dùng giống nhau. Có những từ cùng
nghĩa nhưng cách dùng khác nhau. Tỷ như chữ “quản lý” là trông
nom, coi sóc. Miền Nam chỉ dùng từ này trong lãnh vực thương mại
trong khi miền Bắc dùng rộng hơn trong cả lãnh vực cá nhân như
một người con trai cầu hôn một người con gái bằng câu: “Anh xin
quản lý đời em”. Hoặc từ “chế độ” cũng vậy, miền Nam chỉ dùng
trong môi trường chính trị như “chế độ dân chủ”. Miền Bắc dùng
bao quát hơn trong nhiều lãnh vực như “chế độ xem”, “chế độ bao
cấp”. Có những từ miền Bắc dùng đảo ngược lại như đơn giản – giản
đơn; bảo đảm – đảm bảo; dãi dầu – dầu dãi; vùi dập – dập vùi,
v.v.
Song song
với việc thống nhất đất nước, nhà cầm quyền CS (chữ của TCDV)
Việt Nam đã thống nhất hoá tiếng Việt và gọi đó là “tiếng Việt
toàn dân”. Cuối năm 1979, đầu năm 1980, Ủy ban Khoa học Xã hội
Việt Nam đã phối hợp với Viện Khoa học Giáo dục tổ chức một số
cuộc hội thảo về vấn đề chuẩn hoá tiếng Việt. Bộ Giáo dục cũng
thông qua một số quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải
cách giáo dục. Ngày 01/7/1983, Quyết nghị của Hội đồng chuẩn hoá
chính tả và Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ đã được ban hành và áp
dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục.
Khi tiếng Việt được thống nhất và chuẩn
hoá, toàn quốc sử dụng chung một thứ ngôn ngữ theo một tiêu
chuẩn, mẫu mực nhất định. Tiếng Việt Sài Gòn cũ, gồm những từ ngữ
mà tiếng Việt miền Bắc đã có từ ngữ thay thế, sẽ bị quên đi hoặc
bị đào thải. Những từ ngữ thông dụng cho cuộc chiến trước đó sẽ
biến mất trước tiên. Những: trực thăng, cộng quân, tác chiến, địa
phương quân, thiết vận xa, xe nhà binh, lạnh cẳng, giới chức
(hữu) trách, dứt điểm, phi tuần, chào bãi, tuyến phòng thủ, trái
bộc phá, viễn thám, binh chủng, phi hành, gia binh, ấp chiến
lược, nhân dân tự vệ, chiêu hồi, chiêu mộ, v.v. hầu như ít, thậm
chí không được dùng trong hiện tại. Những từ ngữ thông dụng khác
như ghi danh, đi xem đã bị thay thế bằng đăng ký, tham quan.
Nhiều từ ngữ dần dần đã bước vào quên lãng như: sổ gia đình, tờ
khai gia đình, phản ảnh, đường rầy, cao ốc, bằng khoán nhà, tĩnh
từ, đại danh từ, túc từ, giới từ, khảo thí, khán hộ, khao thưởng,
hữu sự, khế ước, trước bạ, tư thục, biến cố, du ngoạn, ấn loát,
làm phong phú, liên hợp, gá nghĩa, giáo học, giáo quy, hàm hồ,
tráng lệ, thám thính, tư thất, chẩn bệnh, chi dụng, giới nghiêm,
thiết quân luật, v.v.
Ở hải ngoại, khi bắt đầu cầm bút, trong
tâm thức một người lưu vong, viết, đối với tôi, là một động tác
mở để vỡ ra một con đường: Đường hoài hương. Nhiều người viết hải
ngoại cũng tìm đến con đường về cố hương nhanh nhất này như tôi.
Hơn nữa, để đối đầu với cơn chấn động văn hóa thường tạo nhiều áp
lực, tôi xem viết như một phương pháp giải toả và trám đầy nỗi
hụt hẫng, rỗng không của một người vừa ly dị với quê hương đất tổ
sau một hôn phối dài. Tôi không bao giờ để ý đến việc mình viết
cho ai, loại độc giả nào, trong hay ngoài nước, và họ có hiểu thứ
ngôn ngữ mình đang dùng hay không vì lúc đó, chỉ có một vài tờ
báo điện tử liên mạng mới bắt đầu xuất hiện ở hải ngoại. Sau này,
nhờ kỹ thuật điện toán ngày một phát triển, cầu giao lưu giữa
trong và ngoài nước được nối lại, độc giả trong và ngoài nước đã
có cơ hội tiếp xúc, thảo luận, đọc và viết cho nhau gần như trong
gang tấc. Đó là lúc tôi được tiếp xúc với dòng văn học trong nước
và làm quen với nhiều từ ngữ mới lạ chưa từng được nghe và dùng.
Ngược lại, trong nước cũng vậy, số người lên mạng để đọc những gì
được viết bởi người cầm bút ngoài nước cũng không ít.
Thế hệ chúng tôi được người ta âu yếm
gọi là thế hệ một rưỡi, thế hệ ba rọi hay nửa nạc nửa mỡ, cái gì
cũng một nửa. Nửa trong nửa ngoài, nửa tây nửa ta, nửa nam nửa
bắc, nửa nọ nửa kia, cái gì cũng một nửa.
Do đó, nhiều lúc tôi phân vân không
biết mình nên dùng nửa nào để viết cho thích hợp nữa. Nửa của
những từ ngữ Sài Gòn cũ hay nửa của tiếng Việt thông dụng trong
nước? Mình có nên thay đổi lối viết không? Tôi nghĩ nhiều người
viết hải ngoại cũng gặp khó khăn như tôi và cuối cùng, mỗi người
có một lựa chọn riêng. Không chỉ trong lãnh vực văn chương, thi
phú mà ở các lãnh vực phổ thông khác như giáo dục và truyền thông
cũng va phải vấn đề gay go này. Việc sử dụng nhiều từ ngữ thông
dụng của quốc nội ở hải ngoại đã gặp nhiều chống đối và tạo ra
những cuộc tranh luận liên miên, dai dẳng.
Các cơ quan truyền thông như báo chí,
truyền thanh, truyền hình thường xuyên bị chỉ trích và phản đối
khi họ sử dụng những từ trong nước bị coi là “chữ của Việt Cộng”
và được yêu cầu không nên tiếp tục dùng. Nhất là ở Nam Cali., báo
chí và giới truyền thông rất dễ bị chụp mũ “cộng sản” nếu không
khéo léo trong việc đăng tải và sử dụng từ ngữ. Chiếc mũ vô hình
này, một khi bị chụp, thì nạn nhân xem như bị cộng đồng tẩy chay
mà đi vào tuyệt lộ, hết làm ăn vì địa bàn hoạt động chính là cộng
đồng địa phương đó.
Trong cuốn DVD chủ đề 30 năm viễn xứ
của Thúy Nga Paris, chúng ta được xem nhiều hình ảnh cộng đồng
người Việt hải ngoại cố gìn giữ bản sắc văn hoá Việt Nam bằng
cách mở các lớp dạy Việt ngữ cho các con em. Khắp nơi trên thế
giới, từ nơi ít người Việt định cư nhất cho tới nơi đông nhất như
ở Mỹ, đều có trường dạy tiếng Việt. Riêng ở Nam California, Mỹ,
hoạt động này đang có sự khởi sắc. Ngoài những trung tâm Việt ngữ
đáng kể ở Little Saigon và San José, các nhà thờ và chùa chiền
hầu hết đều mở lớp dạy Việt ngữ cho các em, không phân biệt tuổi
tác và trình độ. Nhà thờ Việt Nam ở Cali. của Mỹ thì rất nhiều,
mỗi quận hạt, khu, xứ đều có một nhà thờ và có lớp dạy Việt ngữ.
Chùa Việt Nam ở Cali. bây giờ cũng không ít. Riêng vùng
Westminster, Quận Cam, Cali., đi vài con đường lại có một ngôi
chùa, có khi trên cùng một con đường mà người ta thấy có tới 3, 4
ngôi chùa khác nhau. Việc bảo tồn văn hoá Việt Nam được các vị
hướng dẫn tôn giáo như linh mục, thượng tọa, ni sư nhắc nhở giáo
dân, đại chúng mỗi ngày. Lớp học tiếng Việt càng ngày càng đông
và việc học tiếng Việt đã trở thành một trong những mối quan tâm
hàng đầu của cộng đồng lưu vong. “Tại Trung tâm Việt ngữ Hồng
Bàng, năm nay số học sinh nhập học tiếng Việt lên tới 700 em.
Những thầy cô dạy tiếng Việt đều làm việc thiện nguyện hoàn toàn,
đã hết lòng chỉ dạy cho các em, nhất là các em vừa vào lớp mẫu
giáo tiếng Việt” (trích Việt báo, Chủ nhật, 9/24/2006)
Về vấn đề giáo trình thì mỗi nơi dạy
theo một lối riêng, không thống nhất. Sách giáo khoa, có nơi soạn
và in riêng để dạy hoặc đặt mua ở các trung tâm Việt ngữ. Còn ở
đại học cũng có lớp dạy tiếng Việt cho sinh viên, sách thường
được đặt mua ở Úc. Một giảng sư dạy tiếng Việt tâm sự với tôi:
“Khi nào gặp những từ ngữ trong nước thì mình tránh đi, không
dùng hoặc dùng từ thông dụng của Sài gòn cũ trước 75 vì nếu dùng
cha mẹ của sinh viên, học sinh biết được, phản đối hoặc kiện cáo,
lúc ấy phải đổi sách thì phiền chết.”
Sự dị ứng và khước từ việc sử dụng
tiếng Việt trong nước của người Việt hải ngoại có thể đưa tiếng
Việt ở hải ngoại đến tình trạng tự mình cô lập. Thêm nữa, với sự
phát triển rầm rộ của kỹ thuật điện toán và thế giới liên mạng,
báo chí, truyền thông của chính người Việt hải ngoại đến với mọi
người quá dễ dàng và tiện lợi. Độc giả cứ lên mạng là đọc được
tiếng Việt Sài Gòn cũ nên họ dường như không có nhu cầu tìm hiểu
tiếng Việt trong nước. Kết quả là tiếng Việt trong và ngoài nước
chê nhau!!!
Việc người Việt hải ngoại chống đối và tẩy chay ngôn ngữ Việt Nam
đang dùng ở trong nước có vài nguyên do:
Thứ nhất là do sự khác biệt của ý thức hệ. Những người Việt Nam
lưu vong phần lớn là người tị nạn chính trị. Họ đã từ bỏ tất cả
để ra đi chỉ vì không chấp nhận chế độ cộng sản nên từ chối dùng
tiếng Việt trong nước là gián tiếp từ chối chế độ cộng sản.
Thứ hai, sự khác biệt của từ ngữ được
dùng trong cả hai lãnh vực ngữ nghĩa và ngữ pháp. Đây là một thí
dụ điển hình. Trong cùng một bản tin được dịch từ một hãng thông
tấn ngoại quốc, nhà báo ở trong nước và ngoài nước dịch thành hai
văn bản khác nhau:
Trong nước:
Tàu ngầm hạt nhân Nga bốc cháy
Interfax dẫn một nguồn tin Hải quân Nga
cho hay ngọn lửa bắt nguồn từ phòng điện hóa và dụng cụ bảo vệ lò
hạt nhân đã được kích hoạt, do đó không có đe dọa về nhiễm phóng
xạ. Phát ngôn viên hạm đội này cho hay: “Lửa bốc lên do chập điện
ở hệ thống cấp năng lượng phần mũi tàu.”
Ngoài nước:
Hỏa hoạn trên tàu ngầm Nga
Hải quân Nga nói rằng lò phản ứng hạt
nhân trên tàu Daniil Moskovsky đã tự động đóng lại và không có
nguy cơ phóng xạ xảy ra. Chiếc tàu đã được kéo về căn cứ
Vidyayevo. Nguyên nhân hỏa hoạn có thể do chạm giây điện.
Một người Việt hải ngoại khi đọc văn
bản thứ nhất sẽ gặp những chữ lạ tai, không hiểu nghĩa rõ ràng vì
sự khác biệt như những chữ: phòng điện hoá, được kích hoạt, chập
điện, hệ thống cấp năng lượng...
Hơn thế nữa, Việt Nam mới bắt đầu mở
cửa thông thương giao dịch với quốc tế; những từ ngữ mới về điện
toán, kỹ thuật, y khoa, chính trị, kinh tế, xã hội, ồ ạt đổ vào.
Có nhiều từ ngữ rất khó dịch sát nghĩa và thích hợp nên mạnh ai
nấy dịch. Ngoài nước dịch hai ba kiểu, trong nước bốn năm kiểu
khác nhau, người đọc cứ tha hồ mà đoán nghĩa. Có chữ thà để ở
dạng nguyên bản, người đọc nhiều khi còn nhận ra và hiểu nghĩa nó
nhanh hơn là phiên dịch.
Trong việc phiên dịch, theo tôi, địa
danh, đường phố, tên người nên giữ nguyên hơn là phiên dịch hay
phiên âm. Nếu có thể, xin chú thích từ nguyên bản ngay bên cạnh
hay đâu đó bên dưới bài viết sẽ giúp người đọc dễ theo dõi hay
nhận biết mặt chữ. Tỷ như việc phiên âm các địa danh trên bản đồ
trong sách giáo khoa của Bộ Giáo dục trong nước là việc đáng khen
nhưng tôi nghĩ, nếu đặt từ nguyên thủy lên trên từ phiên âm thì
các em học sinh chưa học tiếng Anh hoặc đã học tiếng Anh sẽ dễ
nhận ra hơn. Xin lấy tỉ dụ là những địa điểm được ghi trên tấm
bản đồ này.
Tôi thấy một hai địa danh nghe rất lạ tai như Cu dơ Bây, Ben dơ
mà không biết tiếng Mỹ nó là cái gì, ngồi ngẫm nghĩ mãi mới tìm
ra: đó là hai địa danh Coos Bay và Bend ở tiểu bang Oregon, nước
Mỹ!
Ngôn ngữ
chuyển động, từ ngữ mới được sinh ra, từ cũ sẽ mất đi như sự đào
thải của định luật cung cầu. Tiếng Việt Sài Gòn cũ ở trong nước
thì chết dần chết mòn; ở ngoài nước, nếu không được sử dụng hay
chuyển động để phát sinh từ mới và cập nhật hoá, nó sẽ bị lỗi
thời và không còn thích ứng trong hoạt động giao tiếp nữa. Dần
dà, nó sẽ bị thay thế bằng tiếng Việt trong nước. Nhất là trong
những năm gần đây, sự chống đối việc sử dụng tiếng Việt trong
nước ngày càng giảm vì sự giao lưu văn hoá đã xảy ra khiến người
ta quen dần với những gì người ta đã phản đối ngày xưa. Tạp chí,
sách, báo đã đăng tải và phổ biến các bản tin cũng như những văn
bản trong nước. Người ta tìm được nhiều tài liệu, ấn phẩm, sách
nhạc quốc nội được bày bán trong các tiệm sách. Các đài truyền
thanh phỏng vấn, đối thoại với những nhà văn, nhà báo, chính trị
gia và thường dân trong nước thường xuyên. Đặc biệt, giới ca sĩ,
nhiều người nổi tiếng ra hải ngoại lưu diễn, đi đi về về như cơm
bữa. Giới truyền thông bây giờ sử dụng từ ngữ trong nước rất
nhiều, có người mặc cho thiên hạ chỉ trích, không còn ngại ngùng
gì khi dùng từ nữa. Khán thính giả có khó chịu và chê trách, họ
chỉ giải thích là thói quen đã ăn vào trong máu rồi, không chịu
thì phải ráng mà chịu.
Sự ra đi của một chế độ kéo theo nhiều
thứ: con người, tài sản, nhà cửa, vườn tược, lịch sử... nhưng có
cái bị lôi theo mà người ta không ngờ nhất lại là “cái chết
của một ngôn ngữ”. Đau lòng lắm thay!
TRỊNH THANH THỦY
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Lý Trung Tín chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, March 14,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang