Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Ngược dòng Thời gian
Chủ đề: 30-T4-Đ
Tác giả: Nguyễn-Huy Hùng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Vì áp lực của
Hoa Kỳ cắt viện trợ nên ngày 21-4-1975, Tổng Thống Nguyễn văn
Thiệu phải từ chức, nhường cho Phó Tổng thống Trần văn Hương lên
thay. Trước khi bàn giao, Tổng Thống Thiệu đã xuất hiện trên màn
ảnh của đài vô tuyến truyền hình Sài Gòn, nói chuyện để giã biệt
quốc dân đồng bào miền Nam Việt Nam, với những lời nghẹn ngào
phân bua là bị đồng minh Hoa Kỳ phản bội.
Ðến lượt tân Tổng Thống Hương cầm
quyền, vẫn tiếp tục bị áp lực, nên ngày 25-4-1975, cũng lại phải
tuyên bố từ chức, và yêu cầu Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa đề cử
người thay thế.
Ngày 27-4-1975, một số Dân cử trong
Quốc hội chưa di tản, họp nhau lại thảo luận sôi nổi đến tối, và
đi đến quyết định cuối cùng là ủy quyền cho Ðại tướng Dương văn
Minh làm Tổng thống, để tiếp xúc với Việt cộng tìm giải pháp chấm
dứt cuộc chiến.
Sáng sớm ngày 28-4-1975, ký giả Huy Vân
(bút hiệu của Trung úy Nguyễn Trung Hòa, đã chết trong trại tập
trung Tân Lập, Vĩnh Phú, Bắc Việt, năm 1978) Chủ bút Nhật báo
Tiền Tuyến, đã trình cho Tôi (Chủ nhiệm) biết là, có nguồn tin
chính xác từ giới thân cận Tướng Dương văn Minh cho hay, hôm nay
ông Minh sẽ dùng trực thăng đi thị sát mặt trận Long Khánh, để bí
mật tiếp xúc với người đại diện của cộng sản Bắc Việt.
Buổi chiều cùng ngày 28-4-1975, ông
Minh làm lễ nhậm chức, chỉ có mặt 2 vị Ðại sứ Hoa Kỳ và Pháp tham
dự. Tối 28-4-1975 ông Minh tuyên cáo trên làn sóng đài phát thanh
Sài Gòn, yêu cầu Ðại sứ Hoa Kỳ rút hết nhân viên D.A.O. ra khỏi
miền Nam Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ, để ông ta dễ
thương thuyết với cộng sản về giải pháp đình chiến.
Tướng Vĩnh Lộc, tân Tổng Tham mưu
trưởng Quân lực VNCH, do Tổng thống Minh bổ nhiệm, xuất hiện trên
màn ảnh của đài vô tuyền truyền hình Sài Gòn, kêu gọi quân sĩ
vững tâm duy trì kỷ luật tiếp tục chiến đấu, sau khi đã bầy tỏ
những lời khinh chê các Tướng, Tá, hèn nhát bỏ quân đào ngũ trốn
chạy như chuột.
Ngày 29-4-1975, trực thăng của Hoa Kỳ
từ Hạm đội 7 đang hoạt động tại ngoài khơi Thái Bình Dương, bắt
đầu dồn dập liên tục bay vào Sài Gòn bốc người di tản, và chấm
dứt vào tảng sáng 30-4-1975.
Sài Gòn trong những ngày cuối tháng
4-1975 được đặt trong tình trạng giới nghiêm, tất cả các báo
ngưng hoạt động, riêng chỉ có Nhật báo Tiền Tuyến vẫn phát hành
hàng ngày, để gửi qua Cơ quan chuyển vận thuộc hệ thống Tiếp vận
Quân đội chuyển đến các đơn vị. Việc này thực hiện được là nhờ
Trung tướng Trần văn Trung Tổng Cục Trưởng Chiến tranh Chính trị,
chỉ thị Cục Tâm lý chiến in hàng đêm, và chuyển sang Tiếp vận gửi
đi. Ðại tá Phan Trọng Thiện, Cục Phó Cục Tâm Lý Chiến được lệnh
tiếp xúc với Tôi làm việc này. Sau 30 tháng 4, Ðại tá Thiện cũng
phải đi tập trung cải tạo. Chúng tôi cùng phải chuyển qua nhiều
trại. Ðến năm 1982 đang ở trại Thanh Phong, Như Xuân, Thanh Hóa
(nơi có trại Thanh Cầm mà CSVN đã dự tính đem tất cả vợ con tù
cải tạo, đến cùng chồng định cư vĩnh viễn ở nơi vùng rừng núi
Trường Sơn đó), thì Tôi được chuyển về trại Z30C, Hàm Tân, Thuận
Hải, Nam Việt, còn anh Thiện bị chuyển ra vùng Nam Hà, Bắc Việt.
Sau khi định cư tỵ nạn tại Hoa Kỳ, Tôi có dịp gặp lại anh Thiện,
trong một kỳ họp mặt anh em Hội ái hữu Chiến tranh Chính trị Hải
ngoại tại quận Orange, Nam California, nên biết được anh Thiện
định cư tại Connecticut, Hoa Kỳ.
Chiều ngày 29-4-1975, đường phố Sài Gòn
bỗng dưng nhộn nhịp như vỡ chợ, mặc dù vẫn còn lệnh giới nghiêm.
Xe dân sự, xe quân sự đua nhau chạy ngược chạy xuôi vội vã. Người
ta đi tìm đến các điểm tập trung theo giấy thông hành di tản
riêng quy định từ trước, để chờ trực thăng Mỹ bốc đi. Ðầy nghẹt
xe cộ và người bu đông trước Tòa Ðại sứ Mỹ ở đường Thống Nhất, và
tại Bến Bạch Ðằng cuối đường Tự Do, khu gần Bộ Tư lệnh Hải Quân
QLVNCH.
Khu
Thị Nghè gần Tân Cảng, đồ hộp thực phẩm đủ loại lấy ở các kho của
Mỹ đổ bán đầy đường, rẻ mạt, người ta tranh nhau mua về tích trữ.
Những khu có các chung cư người Hoa Kỳ di tản, người ta ùn ùn kéo
nhau vào hôi đồ đạc tự do, trước sự chứng kiến của Cảnh sát.
Khoảng 10 giờ ngày 30-4-1975, Dương văn
Minh tuyên cáo qua làn sóng Ðài phát thanh Sài Gòn, ra lệnh cho
binh sĩ buông súng thôi không chiến đấu nữa, đợi Cách mạng vào
bàn giao. Tôi rời Tòa báo lái xe chạy sang Tổng cục, không thấy
Trung tướng Trung, theo lời nhân viên văn phòng cho biết, Trung
tướng được lệnh gọi sang họp bên dinh Tổng Thống.
Tôi lên xe chạy về đón vợ con tìm đường
thoát xuống miền Tây, hoặc tìm tầu di tản. Bến Khánh Hội, bến Tân
Cảng, không còn tầu. Ðường qua cầu Bến Lức đi miền Tây, đầy nghẹt
xe hơi đủ loại đậu nối đuôi nhau dài hàng cây số. Ðường đi Vũng
Tầu còn giao tranh nguy hiểm không đi được. Vô kế khả thi, Tôi
đành chở vợ con vào trú tạm nhà người quen ở ngay khu bến xe Lục
tỉnh, gần Viện Hóa Ðạo, sẵn sàng đón nhận tất cả những điều tồi
tệ nhất sẽ đến với mình và vợ con mình.
Khoảng 4 giờ chiều 30-4-1975, không
biết từ đâu về, bao nhiêu là đàn ông lực lưỡng nhào lên ngồi đầy
trên tất cả các chiếc xe đò đi miền Tây, miền Ðông, nằm ụ tại đó
từ những ngày bắt đầu giới nghiêm đến giờ, và yêu cầu các chủ xe
chở họ đi miền Tây hoặc miền Ðông. Trong xe hết ghế, người ta
ngồi đầy cả trên nóc xe. Hỏi ra mới biết là quân nhân thuộc Trung
đoàn đóng ở cầu Bến Lức, đường đi Long An. Sau khi nghe lệnh
Dương văn Minh yêu cầu buông súng đợi bàn giao cho cộng sản, họ
đã vứt bỏ quân trang vũ khí xuống sông, rời đơn vị đi tìm đường
về quê quán với gia đình, chớ không đợi bàn giao cho cộng sản như
lệnh của ông Tướng phản bội chiến hữu, phản bội nhân dân miền
Nam.
Cũng
trong lúc đó, từ các ngõ hẻm, một số dân đi theo mấy anh Nhân dân
Tự vệ mặc quần áo đen, cột mảnh băng vải đỏ nơi tay áo, lăm lăm
cây súng, ùn ùn kéo nhau ra, trèo đại lên các xe GMC quân đội bỏ
bên đường, lái đi hôi của tại các Kho hàng của Quân tiếp vụ
QLVNCH ở phía sau Chợ Cá Trần quốc Toản.
Một nhóm khác, gồm đôi ba Nhân dân tự
vệ mặc quần áo đen, mang súng của VNCH cấp, cùng mươi lăm người
dân lao động khác đeo nơi tay áo trái băng vải đỏ (những người
Cách mạng 30 tháng 4), hô hoán kéo nhau ra Bình bông ngã 7, căng
biểu ngữ và cờ nửa xanh nửa đỏ, có ngôi sao vàng ở giữa (cờ quân
giải phóng miền Nam), đợi đón mừng giải phóng quân vào Thành phố.
Khoảng 5 giờ thì có 1 đoàn xe Molotova,
chở mỗi xe chừng dăm bảy anh Giải phóng quân, mặt non choẹt, xanh
lét, búng ra sữa, dáng sợ sệt, ngồi bệt dưới sàn xe, tựa lưng vào
nhau, tay ôm chặt khẩu AK của cộng sản, quay mặt ngơ ngác nhìn
lên các tầng lầu 2 bên phố mà đoàn xe chạy qua. Ðứng trên lầu cao
nhìn xuống, thấy chẳng khác nào những con ếch ngồi trong đáy
thùng thiếc mà người ta đem ra chợ bán vậy. Trông thật đáng tội
nghiệp, chẳng thấy tý hào khí nào của những anh hùng giải phóng,
kiêu hãnh như các anh Cán bộ cộng sản Bắc Việt cả.
Big
MINH (1) hàng, thế là xong,
Nghe lời
tuyên cáo mà lòng nát tan.
Thất thần, cổ
nghẹn, lệ tràn,
Tim rung loạn nhịp, thời
gian đọng chìm.
Bàng hoàng như gẫy cánh
chim,
Không gian đảo lộn, khó tìm lối
ra.
Thôi rồi! mất nước mất nhà,
Bao năm chiến đấu bôn ba ích gì?
Sóng
lùa Dân chủ trôi đi,
Tự do biến mất còn
chi cuộc đời.
Xuôi tay phó mặc ông Trời,
Chờ coi đảng cướp thị oai thế nào.
Xem
bầy phản bội ra sao,
Vinh thân hay cũng
phải vào ngục đen.
Cộng Hòa Chiến sĩ
chẳng hèn,
Lột Quân trang phục vứt bên
lề đường.
Tản đi khắp nẻo Quê hương,
Không hàng Việt Cộng, như phường Big MINH.
Nguyễn-Huy Hùng
_____________________
(1) Hoa
kỳ thường gọi Dương văn Minh bằng Big MINH, để phân biệt với
Thiếu tướng Trần văn Minh Tư lệnh Quân khu 1 có khổ người nhỏ
hơn.
II. CHƠI VƠI GIỮA DÒNG SÓNG ÐỎ
Lúc
mười giờ sáng 30-4-1975, qua làn sóng đài phát thanh Sài Gòn,
Dương văn Minh chính thức tuyên bố đầu hàng, dâng miền Nam Việt
Nam cho cộng sản Bắc Việt xâm lăng. Ðến tối, Trần văn Chà tướng
Việt cộng, Chủ tịch Ban Quân quản Sài Gòn, ra thông cáo cũng đọc
trên làn sóng đài phát thanh Sài Gòn, buộc tất cả Quân nhân, Công
chức thuộc Chế độ Sài Gòn cũ phải đến nhiệm sở để trình diện kể
từ ngày 1-5-1975. Ai không thuộc các đơn vị ở Sài Gòn, phải đến
trình diện tại Phường nơi gia đình đang cư ngụ hoặc tạm trú.
Ngày 1-5-1975, Ủy ban Quân quản Sài Gòn
tổ chức Mít-tinh mừng ngày Quốc tế Lao động và Thống nhất đất
nước, rất lớn tại đường Thống Nhất trước dinh Ðộc Lập. Chắc chắn
sẽ có nhiều người hiếu kỳ và bọn “Cách mạng 30 tháng 4” ra đường,
nên Tôi quyết định không đi trình diện vào ngày đó. Hơn nữa, Vợ
Con tôi cũng khuyên, trong lúc còn hỗn quân hỗn quan, tình hình
chưa hoàn toàn ổn định không nên ra đường, e có thể gặp những kẻ
xấu đón gió trở cờ, hại mình để lập công với quân Giải phóng thì
thiệt thân.
Sau khi nghe lời thông cáo của Trần văn Trà, hai người con lớn
của Tôi cưỡi xe đạp đi tìm gặp Hạ sĩ D, một nhân viên làm việc
trong Văn phòng của Tôi, nhà cũng ở khu Bàn Cờ gần nơi gia đình
tôi đang tạm trú, để tìm hiểu xem gia đình anh ấy có di tản
không? Nếu anh ấy còn ở đó với gia đình, thì tìm hiểu xem anh ấy
đã đi trình diện chưa? Hạ sĩ D có nhà riêng 3 tầng ngay bên mặt
lộ lớn, giữa trung khu Bàn Cờ. Các tầng lầu để ở, tầng trệt dưới
cùng mở cửa hàng bán sách, dụng cụ cắm trại và các loại huy hiệu
trang phục cho Hướng đạo sinh. Gia đình anh D người miền Trung,
thuộc dòng gốc theo đạo Thiên Chúa. Cha anh D có nhiều liên hệ
quen thân với các Linh mục đang trách nhiệm các cơ sở dòng tu và
Nhà Thờ tại thị xã Vũng Tầu.
Nửa tiếng đồng hồ sau, các con Tôi trở
về có anh D đi theo. Thấy Tôi, anh em ôm nhau mừng rỡ. Vì cùng là
Huynh trưởng Hướng đạo, nên xưa nay chúng tôi vẫn đối xử với nhau
không theo cung cách cấp bậc Quân đội. Anh D sửng sốt kêu: “Sao
Anh không di tản đi?” Tôi trả lời cũng có tìm đường đấy, nhưng
không gặp giây, đành chịu vậy biết làm sao bây giờ.
Trong những dịp tổ chức Trại huấn luyện
Huynh trưởng Hướng đạo Quân đội, tại Long Thành hoặc Vũng Tầu hồi
trước 30-4-1975, Tôi thường đưa Vợ và các Con đến dựng lều ở chơi
trong Trại, nhờ thế các Con tôi và anh D có nhiều cảm tình thân
thiết với nhau. Hẳn là các Con tôi đã nói gì với anh D trước, nên
để trấn an tinh thần cho Tôi, anh ấy nói tiếp ngay: “Mồng hai, em
mới đi trình diện. Em sẽ ghé lại đèo Anh cùng đi bằng Honda của
em. Anh đừng lo. Mồng một, người ta tổ chức mít-tinh lớn lắm, sẽ
có đông người, Anh không nên ra đường.”
Anh D cũng khoe rằng, một người thân
của Cha anh ấy đi tập kết mới trở về có ghé thăm gia đình, cho
biết là cứ yên tâm đi trình diện, làm thủ tục xong sẽ được tạm về
chờ lệnh Nhà nước gọi đi học tập sau. Hạ sĩ quan, Binh sĩ như anh
ấy, thì sẽ học tập 3 ngày tại địa phương. Còn Sĩ quan là những
người quan trọng hơn lính, sẽ phải đi cải tạo một thời gian, rồi
mới được trở về hội nhập vào xã hội mới Xã hội Chủ nghiã.
Sáng ngày 2-5-1975, anh D đem Honda đến
đón Tôi cùng đi trình diện, tại trụ sở Tổng cục Chiến tranh Chính
trị, số 2 Ðại lộ Thống Nhất, Sài Gòn. Trên dọc đường đi anh D dặn
Tôi, khi đến nơi hãy đứng ở ngoài cổng giữ xe, để anh ấy vào thăm
thử xem tình hình ra sao. Nếu thấy thuận lợi không có gì nguy
hiểm thì sẽ trở ra kêu Tôi vào. Còn ngược lại thì sẽ ra đưa Tôi
về nhà tìm phương cách khác.
Văn phòng Tổng cục trưởng của Trung
tướng Trung, được dùng làm nơi trình diện và hoàn tất các thủ tục
khai báo. Anh D vào được 5 phút thì quay ra khóa cổ xe Honda và
rủ Tôi cùng vào.
Khoảng 20 Sĩ quan, Hạ sĩ quan, Binh sĩ
thuộc Tổng cục đã đến từ trước ngồi đầy các ghế, Tôi và anh D
ngồi vào 2 ghế còn trống trên hàng đầu.
Một Cán bộ cộng sản, mặc bộ đồ Tác
chiến xám mầu cứt ngựa, không thấy đeo cấp hiệu, ngồi nơi bàn làm
việc của Tướng Trung, vẫy tay kêu từng người lên làm việc theo
thứ tự tới trước sau. Sau này khi nhận được giấy chứng nhận đã
trình diện do ông ấy ký, Tôi mới biết tên là Việt, cấp bậc thì
không rõ vì không ghi trên giấy.
Tôi ngồi trên chiếc ghế ở hàng đầu, sát
gần trước bàn giấy ông Việt đang ngồi, được một lúc thì thấy cánh
cửa phía thông qua phòng tùy viên bật mở. Một người cũng mặc đồ
trận, vai đeo chiếc máy ảnh dã chiến loại nhà nghề, tay trái đeo
một băng vải đỏ (cách mạng 30 tháng tư), bưng phích nước trà sâm
bước ra để lên bàn.
Liếc nhìn thấy Tôi, người này ghé tai
nói nhỏ điều gì với ông Việt, rồi đi trở vô trong. Một phút sau
trở ra, để lên bàn trước mặt ông Việt một mẩu giấy nhỏ. Nhờ thế,
Tôi nhận ra được người kia chính là anh Hạ sĩ quan chuyên viên
chụp ảnh của Cục Tâm Lý Chiến, thường được chọn lựa cho đi theo
ghi những hình ảnh phóng sự, hoạt động của Tổng thống Thiệu và
các cấp Lãnh đạo lớn trong Chính phủ VNCH trước 30-4-1975.
Ông Việt liếc mắt đọc mảnh giấy xong,
ghé sát tai anh ta nói nhỏ. Sau đó anh ta đi vào bên trong mất
hút. Hai phút sau, có tiếng nói ở cuối Phòng, yêu cầu mọi người
tạm sang phòng Họp kế bên chờ, Cán bộ cần làm việc riêng một lúc.
Tôi đứng lên thì ông Việt nói: “Mời Ðại tá ngồi đó, tôi có chuyện
hỏi riêng.”
Tôi giật mình, không biết chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng vẫn bình
tĩnh ngồi xuống. Ðã rơi vào tay cộng sản, thì trước sau rồi cũng
chết có gì mà phải lo.
Chẳng có gì đặc biệt, ông ấy hỏi Cấp
bậc, Chức vụ trong Tổng cục, lý lịch cá nhân, có mấy con, bây giờ
Vợ Con đang ở đâu, quá khứ hoạt động trong chính quyền cũ, tên
các cấp chỉ huy các cơ quan và đơn vị mình đã phục vụ, bây giờ họ
ở đâu?... và sau cùng yêu cầu nộp súng cá nhân, y như đã làm đối
với mọi người đã trình diện trước vậy thôi.
Khi Tôi nộp khẩu súng lục có ổ quay
tròn và hộp đạn xong, ông ấy hỏi: “Không có dao găm à?” Tôi trả
lời Sĩ quan Quân đội chúng tôi đâu có được phát dao găm. Ông ta
gật đầu rồi hỏi tiếp: “Ðại tá có biết bây giờ Trung tướng Trung
đang ở đâu không?” Tôi trả lời, hồi sáng sớm 30-4-1975, Tôi còn
tiếp xúc với Trung tướng Trung qua điện thoại Văn phòng này, bây
giờ thì không biết Tướng Trung ở đâu.
Sau khi hỏi cung Tôi xong, mọi người
lại được mời trở lại chỗ ngồi như trước. Ông Việt yêu cầu một anh
em nào đó đang có mặt trong Phòng phát biểu ý kiến. Anh D xung
phong nói: “Ăn cây nào thì phải rào cây nấy, sống dưới Chế độ
miền Nam thì chúng em phải tuân hành luật lệ như mọi người, thi
hành nghiã vụ quân sự vậy thôi. Bây giờ Cách mạng thành công, đất
nước thống nhất dưới quyền của Cách mạng, thì chúng em chỉ muốn
được tiếp tục sống như những người dân bình thường, tuân theo
luật lệ của Nhà nước Cách mạng.”
Ông ấy gật đầu rồi chỉ tay vào Tôi hỏi:
“Ðại tá có ý kiến gì không?”
Tôi chậm rãi hỏi: -Cán bộ có thể cho
Tôi biết Cấp bậc của Cán bộ, để tiện xưng hô không?
Ông ta nói: “Ðối với chúng tôi cấp bậc
không quan trọng, Ðại tá cứ gọi Cách Mạng là được rồi.”
Tôi bình tĩnh nói: -Cách mạng và chúng
tôi, mỗi bên đi theo một lý tưởng xây dựng kiến thiết Quốc gia
khác nhau, nay chúng tôi thua, trở thành tù binh của Cách mạng,
thì tùy quyền xét xử của Cách mạng. Làm gì thì chúng tôi cũng
phải chịu. Chỉ xin một điều duy nhất, là Vợ Con của chúng tôi
không liên hệ gì vào công việc làm của chúng tôi, cũng như bao
nhiêu người dân sống ở miền Nam này vậy, xin hãy đại lượng cho họ
được tiếp tục sinh sống như mọi người dân thường khác.
Ông ấy nói: “Cách mạng rất Ðại lượng và
Công bằng, các anh cứ yên tâm đừng lo, tôi sẽ cấp giấy chứng nhận
đã trình diện để các anh ra về thong thả, và ở nhà đợi lệnh Nhà
nước sẽ gọi đi học tập cải tạo một thời gian, chắc chắn không lâu
bằng thời gian đã phục vụ trong Chế độ cũ đâu.” Và để trấn an mọi
người, ông Việt với giọng ôn tồn thân thiện trịnh trọng nói thêm:
“Tội ai làm nấy chịu, Vợ con không liên can gì, vẫn được cư xử
công bằng như mọi người dân bình thường khác. Cách mạng không bao
giờ nói sai đâu. Các anh cứ yên tâm.”
Sau khi nhận giấy đã trình diện xong,
Tôi thở phào nhẹ nhõm, mừng vì có được thêm thời gian lo ổn định
nơi ăn chốn ở cho Vợ Con, trước khi ly biệt nhau không hy vọng
ngày trở lại. Anh D vui mừng khoác tay Tôi kéo đi vội ra cổng,
làm như sợ người ta đổi ý kiến.
Tới cổng, trong khi anh D mở khóa cổ xe
Honda, Tôi ghếch ngồi lên nệm phía sau lưng anh ấy, người bộ đội
gác cổng nhìn Tôi hất hàm hỏi: “Hộ lý của anh đấy à?”. Anh D
nhanh miệng trả lời: “Không, anh này làm chung một chỗ với em,
nhà ở gần nhau, nên cùng đi cho vui vậy thôi.” Đồng thời lẹ làng
mở máy xe, thả ga vọt đi thật nhanh chở Tôi về căn nhà gia đình
Tôi đang tạm trú.
Ðến chiều tối, anh D đến mời cả gia
đình Tôi, sang tạm trú tại nhà riêng của anh ấy cho được “bảo
đảm” an ninh hơn. Vì nhờ ông thân sinh của anh ấy, có người thân
thuộc hàng Cán bộ đi tập kết về, được xe hơi nhỏ của Nhà Nước chở
tới nhà thăm gia đình, xóm giềng ai cũng thấy, nên Cán bộ địa
phương và bọn “Cách mạng 30 tháng tư” không dám héo lánh làm
phiền.
Hồi
cuối năm 1995 hay đầu 1996, Tôi không nhớ rõ ngày, nhân dịp về dự
Trại Họp bạn Hướng đạo Việt Nam tại vùng Quận Orange Nam
California, anh D được Mục sư Nguyễn quang Minh, cũng là một
Huynh trưởng Hướng đạo Việt Nam trước kia, cho biết tin về Tôi.
Anh D đã gọi điện thoại hỏi xin địa chỉ, và nhờ bạn lái xe đưa
đến tận nhà thăm Tôi và gia đình. Nhờ thế Tôi được biết gia đình
anh D cũng đã vượt biên sang Hoa Kỳ, và đang định cư tại Tiểu
bang Texas. Anh D mới qua đời cách nay mấy năm vào đầu thế kỷ 21.
Cái kỳ anh em chúng tôi phải trình diện
Quân CSBV lần thứ nhất, tại nhiệm sở hồi đầu tháng 5-1975, không
ai bị giam giữ ngay, ngoại trừ một thiểu số đặc biệt đã bị họ ghi
tên trong sổ đen từ trước. Theo Tôi nghĩ, có lẽ một là vì chưa có
lệnh của Hà Nội, hai là các đơn vị cộng sản còn đang bận tiếp tục
hành quân tiến chiếm các Tỉnh miền Tây chưa xong, nên chưa kịp
thu xếp nơi giam cũng như không có người để canh giữ, hàng chục
ngàn sĩ quan trong một lúc tại Sài Gòn.
Trong thời gian được ở nhà chờ lệnh gọi
đi trình diện học tập cải tạo, có một số Sĩ quan cao cấp (trong
đó có Tôi) bị gọi riêng để thẩm vấn nhiều lần, tại mấy căn nhà
trên con đường bên hông sau Tòa Ðại sứ Anh quốc đường Thống Nhất
(Tôi không nhớ tên đường). Họ hỏi về Tổ chức và nhiệm vụ của
những Cơ quan Ðơn vị mình đã phục vụ, suốt từ khi nhập ngũ cho
đến ngày 30-4-1975, tên các người chỉ huy mình... Sau suốt một
ngày thẩm vấn, có người được ra về, có người bị giữ lại thấm vấn
tiếp, rồi đưa đi đâu không ai biết.
Vào gần cuối tháng 5-1975, Ban Quân
quản Sài Gòn lại ra thông cáo buộc mọi người phải trình diện lần
thứ 2, tại đường Trần Hoàng Quân, Chợ Lớn. Lần này, họ tịch thu
thẻ căn cước dân sự, thẻ Sĩ quan, và cấp cho một mảnh giấy chứng
nhận đã trình diện chờ ngày đi tập trung cải tạo.
Hôm ấy, Tướng, Tá, Úy Nam Nữ đến trình
diện rất đông. Tôi gặp một số bạn quen biết tại Sài Gòn, và rất
nhiều người lạ từ các địa phương chạy về Sài Gòn tá túc. Nét mặt
ai nấy đăm chiêu ngại ngần, không dám vồn vã chào hỏi nhau như
thường lệ. Ngoại trừ một thiểu số (cách mạng 30 tháng Tư) có vẻ
mặt hoan hỉ, quan trọng, lạnh lùng, làm ngơ trước bạn bè cũ như
chưa bao giờ quen biết nhau. Nhưng đến giữa tháng 6-1975, tới nơi
trình diện tập trung cải tạo, Tôi lại gặp những người này cũng
phải đi chung với chúng tôi.
Trong thời gian chưa bị đưa đi tập
trung cải tạo, Tôi đã tiếp xúc với một số Huynh trưởng Hướng đạo
Quân đội còn ở lại Sài Gòn, tìm đường giây vượt biên nhiều lần
nhưng không thành, đành chịu bó tay ngồi chờ sự bất hạnh chung
với các chiến hữu khác.
Tới tháng 6-1975, mặc dù Trung Ương
Ðảng CSVN tại Hà Nội chưa soạn xong các tài liệu nhồi sọ, cũng
như chưa huấn luyện xong Cán bộ giảng huấn, mà vẫn phải ra lệnh
tập trung, vì nhiều người tìm cách vượt biên. Ðồng thời cũng có
những tổ chức Phục quốc hoạt động bí mật, ám sát Cán bộ cộng sản
xâm lược miền Nam Việt Nam, ngay trong thành phố Sài Gòn Chợ Lớn.
Hạn chót phải đi trình diện tập trung
là 15 tháng 6 năm 1975, nhằm ngày Ðoan Ngọ, 5 tháng 5 âm lịch năm
Ất Mão. Năm người con lớn, dùng xe đạp chở và theo tiễn Tôi đến
nơi trình diện. Chỉ còn 2 người con gái 13 và 10 tuổi ở lại nhà
cùng Vợ tôi, trông nhà không đi.
Một toán Bộ đội giải phóng đặt súng
liên thanh, làm nút chặn ngay tại Bình bông ngã sáu đầu đường
Minh Mạng, cách Ðại học xá Minh Mạng địa điểm trình diện khoảng
mấy trăm thước. Cha Con chúng tôi phải chia tay nhau tại Bình
bông này.
Trong khi ôm hôn từ biệt, thấy nét mặt thơ ngây đôn hậu ngơ ngác
của các Con, một nỗi buồn man mác xâm chiếm xé tim gan làm Tôi
xúc động rưng rưng lệ. Không biết các Con của Tôi lúc đó có nghĩ
rằng, đây có thể là lần chót Cha Con được nhìn thấy mặt nhau
không? Hay chúng vẫn an tâm, đinh ninh hy vọng ở lời tuyên bố
ngọt ngào trịnh trọng khoan hồng nhân đạo của Cách mạng, là 30
ngày sau, Cha Con, Vợ Chồng lại đoàn tụ bên nhau xây dựng cuộc
sống mới.
Thật
là giây phút não nuột nhất trong cuộc đời Tôi, không thể tìm ra
lời nào tả được đầy đủ cái cảm giác xúc động đau đớn này.
Bánh
tro Ðoan Ngọ vàng trong,
Anh hùng thất
thế đành lòng nộp thân.
Vợ con lo lắng
tiễn chân,
Hoang mang, ngơ ngác, tần
ngần lệ rơi.
Tháng Tư đại nạn đổi đời,
Vì Dân nay phải vào nơi đọa đày.
Tự do
giã biệt từ đây,
“Chim lồng cá chậu”
biết ngày nào ra.
Chơi vơi đâu chỉ riêng
Ta,
Toàn dân Nam Việt lệ nhòa đau
thương.
Kiêu binh cộng sản đầy đường,
Bợ thời phản bội khối phường tiểu nhân.
Từng quen luồn cúi kiếm danh,
Nhiễu
nhương lật lọng ôm chân kẻ thù.
Bọn thì
đội lốt nhà Tu,
Xúi người khác đạo gây
thù hại nhau.
Con buôn chính trị hoạt
đầu,
Vội mang băng đỏ dép râu làm hề.
Lăng xăng mừng Cách mạng về,
Tung tăng
bợ đỡ làm thuê không tiền.
Du côn, đứng
bến, nằm hiên,
Bỗng dưng đời đổi, nắm
quyền trị dân.
Cướp đường, trộm chợ, phu
khuân,
Hóa thành Cách mạng, áo quần bảnh
bao.
Ủy ban Quân quản ra vào,
Tiền hô hậu ủng, Cờ sao đỏ đường.
Ðổi
đời rối loạn Âm Dương,
Ðảng đoàn, chồn
cú, ma vương hoành hành.
Khắp nơi xú uế
hôi tanh,
Còn đâu không khí trong lành
Tự do.
Sài Gòn đổi ra Thành Hồ,
Mặc tình bè lũ Tam Vô hại đời.
Nguyễn-Huy Hùng
III. THỜI CƠ MỚI, CẦN THÊM NỖ LỰC MỚI
Năm
1945, Thế giới Đại chiến II chấm dứt, các Đảng phái Chính trị
Quốc gia Nhân bản Dân tộc và toàn Dân Việt Nam liên hiệp với phe
nhóm cộng sản Hồ Chí Minh giành lại được Độc lập cho Dân tộc.
Nhưng chỉ được mấy tháng sau thì Hồ Chí Minh phản bội. Ông ta
nhân danh Chủ tịch Chính phủ cùng với Vũ Hồng Khanh trong Chính
phủ Liên Hiệp, đại diện dân tộc Việt Nam ký với Sainteny đại diện
Pháp tại Hà Nội, Hiệp ước Sơ Bộ ngày 6 tháng 3 vào lúc 16 giờ 30,
tại số 38 đường Lý Thái Tổ, để cho quân Pháp được tự do trở lại
chiếm đóng nhiều nơi trên miền Bắc và miền Trung Việt Nam (Hải
Phòng, Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh, Phủ Lạng Thương,
Điện Biên Phủ, Lai Châu, Hòn Gay, Tiên Yên, Móng Cáy, Lộc Bình,
Lạng Sơn, Đồng Đăng, Thất Khê, Cao Bằng, Đà nẵng, Huế...). Đặc
biệt vào sáng sớm ngày 6 tháng 3, lúc đó Hiệp ước chưa chính thức
ký, thế mà quân Pháp đã được tầu chiến chuyên chở từ Vịnh Hạ Long
tiến vào sông Bạch Đằng thương thuyết với quân Tầu để đổ bộ lên
chiếm hải cảng Hải Phòng.
Đại ý nội dung Hiệp ước Sơ bộ ngày 6
tháng 3, đã được chính phủ Pháp tái xác nhận và công bố chính
thức sau Hội nghị Fontainebleau khai mạc vào đầu tháng 7-1946,
quy định:
1.
Việt Nam chấp nhận cho Pháp đổ 15,000 quân lên một số tỉnh tại
miền Bắc Vĩ Tuyến 16 trên đất nước Việt Nam để thay thế 180,000
quân Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch, do Tướng Lư Hán chỉ
huy, đang đại diện Liên Hiệp Quốc thi hành việc giải giới quân
Phiệt Nhật.
2.
Pháp nhìn nhận Việt Nam là một “Quốc gia tự do” (Etat libre)
trong Liên Hiệp Pháp (Union francaise); và nhân dân Việt Nam sẽ
tự quyết định sự thống nhất lãnh thổ của mình qua một cuộc trưng
cầu dân ý.
3.
Pháp hứa là sẽ rút quân ra khỏi Việt Nam trong vòng 5 năm, đúng
theo lời xin của Hồ Chí Minh đã viết trong thơ hồi hắn còn đang ở
trong “bưng” vùng Tuyên Quang, và đã nhờ toán AGAS Mỹ chuyển cho
Sainteny vào ngày 25-7-1945 để trình lên chính phủ Pháp. Theo sự
tiết lộ của Sainteny trong hồi ký đã được phổ biến công khai, thì
trong bức thư đó Hồ Chí Minh đã ghi rõ là Hồ Chí Minh chấp nhận
sự trở lại Việt Nam của Pháp với điều kiện cho Việt Nam độc lập
trong vòng từ 5 đến 10 năm.
Nghiên cứu kỹ nội dung bản Hiệp ước và
những Phụ bản Quân sự, người ta thấy rõ ràng đây là Tờ Giao Kèo
bán nước hại dân của Hồ Chí Minh và phe nhóm Việt cộng, là văn
kiện chính thức chấp nhận sự có mặt hợp pháp của quân Pháp trên
toàn cõi Việt Nam, sau khi quân Pháp đã đánh chiếm và thành lập
xong chính quyền đô hộ toàn miền Nam Việt Nam và phân nửa miền
Trung từ Vĩ Tuyến 16 trở xuống, từ ngày 31 tháng 1 năm 1946 khi
quân Anh Cát Lợi, đại diện Liên Hiệp Quốc giải giới quân Nhật tại
miền Nam Vĩ Tuyến 16, bắt đầu rút ra khỏi Việt Nam trao quyền
quản trị cho quân Pháp.
Các Đảng phái Chính trị Quốc gia không
cộng sản, bất mãn, tổ chức biểu tình chống đối, bị Hồ Chí Minh
dùng Công An xung phong vây bao các trụ sở của Đảng phái nói trên
và bắt bớ giam cầm tiêu diệt tất cả thành viên, để chiếm độc
quyền quản trị đất nước theo Chủ nghiã Tam Vô chuyên chính do
Liên Xô Nga lãnh đạo. Từ đó bắt đầu phát sinh trận chiến đấu
tranh của các Đảng phái không cộng sản chống lại phe nhóm Việt
cộng của Hồ Chí Minh, dưới nhiều hình thức khác nhau cho đến tận
bây giờ.
Sau
Thế giới Đại chiến II, các nước trên Địa cầu bị phân chia thành
hai khối đối đầu nhau dưới hình thức “Chiến tranh Lạnh”. Một bên
do Liên xô-viết cộng sản Nga lãnh đạo gồm các nước Đông Âu, một
nửa phiá Đông nước Đức bị Hồng quân Nga chiếm đóng, Trung Cộng,
nửa phiá Bắc Việt Nam, nửa phiá Bắc nước Đại Hàn, và một bên do
Hoa Kỳ lãnh đạo gồm các nước Tư bản Tây phương và các nước nhược
tiểu mới giành lại được độc lập (không theo cộng sản). “Chiến
tranh Lạnh” kéo dài cho đến những năm cuối thập niên 1980 qua đầu
thập niên 1990 mới chấm dứt, khi đại khối cộng sản Liên xô Nga và
các nước cộng sản Đông Âu bị xụp đổ hoàn toàn.
Hiện nay chỉ còn Trung Cộng, Việt Nam,
Bắc Hàn và Cuba, là đang tiếp tục theo chính sách Độc Đảng chuyên
chính toàn trị độc tài xảo quyệt khát máu, theo cái tư tưởng lỗi
thời mộng tưởng của Mác Lê-nin lạc hậu so với thời đại tin học
tiên tiến, hòa đồng phát triển, và các quyền Tự do Dân chủ Nhân
quyền Bình đẳng của nhân loại được tôn trọng trên toàn Thế giới.
Sở dĩ nhóm 4 quốc gia cộng sản này còn
tồn tại được đến ngày hôm nay, vì tập đoàn lãnh đạo áp dụng chính
sách Vô sản chuyên chính, độc đảng tập quyền toàn trị bằng bạo
lực Công An Quân phiệt áp bức dân chúng phải tuân theo, cùng với
hệ thống tuyên truyền xảo trá lưu manh một chiều bưng bít vô liêm
sỉ của chúng.
Riêng đối với Việt Nam, từ sau ngày Quốc hận 30 tháng 4 năm 1975,
cộng sản Bắc Việt xâm lăng toàn miền Nam Việt Nam và áp đặt chế
độ chuyên chính Xã hội Chủ nghiã lên toàn đất nước Việt nam, thì
“cuộc chiến bất bạo động” của toàn dân Việt Nam chống bạo quyền
Việt cộng, ở trong nước cũng như đang lưu vong tỵ nạn nơi hải
ngoại, bắt đầu bộc phát mạnh mẽ và liên tục suốt hơn 40 năm nay,
bằng nhiều phương thức hành động khác nhau. Chính vì mọi người
không muốn dùng bạo lực tiêu phí xương máu của đồng bào mình
nhiều hơn nữa, sau gần nửa Thế kỷ đất nước và Dân tộc bị đắm chìm
trong lửa đạn của cuộc “chiến ý thức hệ Quốc Cộng” “huynh đệ
tương tàn” do chính bè lũ Việt cộng với sự hỗ trợ thúc đẩy của
phe nhóm cộng sản Quốc tế Nga đã mù quáng gây ra, nên chưa gặt
hái được thành quả tối hậu là “giải trừ được bè lũ Mafia bạo
quyền Việt cộng”, để cứu Dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách tôi đòi
lao khổ như mong muốn. Và cũng vì bản chất nhân hậu tôn trọng Dân
chủ Tự do Nhân quyền của những con người Tự do không cộng sản,
nên các nhóm tranh đấu và đoàn thể Quốc gia Nhân bản chưa kết hợp
được thành một khối vững chắc thuần nhất với kỷ luật sắt độc tài
như cộng sản, để chung lưng đấu cật thúc đẩy cuộc đấu tranh một
cách mạnh mẽ đạt kết quả nhanh chóng như toàn Dân tộc Việt Nam
trông đợi.
Trong tình hình biến chuyển sôi động trên Thế giới và Việt Nam
hiện nay, một số nhà khoa bảng, trước kia từng góp phần tích cực
trong các Chính quyền tại miền Nam Việt Nam, hoặc thuộc thành
phần thứ ba từng muốn Trung lập sống chung hòa bình với Việt cộng
(nhưng sau 30 tháng 4 năm 1975 đã bị Việt cộng khinh rẻ bắt bớ
đày ải trong ngục tù tập trung, y như những ngưòi chiến binh Việt
Nam Cộng Hòa kiên cường cầm súng, và các nhân sĩ, nhà văn, nhà
báo cầm bút, trực diện chống cộng sản xâm lăng miền Nam Việt Nam)
lại đang muốn lợi dụng thời cơ “theo đóm ăn tàn” lên tiếng góp
phần đề nghị giải pháp cho vấn đề Việt Nam theo chiều hướng “quên
đi quá khứ, hòa hợp hòa giải đại đoàn kết dân tộc” mà Việt cộng
đang rêu rao kêu gọi.
Quý Vị ấy nhận định rằng, hiện nay
trong hàng ngũ của Việt cộng cũng như trong hàng ngũ Quốc gia
Nhân bản chống Cộng, đang phân hóa ra thành 2 nhóm: “Cực đoan bảo
thủ” và “Đổi mới muốn hòa hợp hòa giải”. Quý Vị ấy cũng suy đoán
rằng vì xu thế biến chuyển của thời đại tin học đồng tiến toàn
cầu hiện nay, các nhóm cực đoan của cả 2 bên sẽ bị đào thải, và
tất nhiên 2 nhóm đổi mới của cả 2 bên cần tìm cách ngồi lại hợp
tác hỗ trợ nhau “nội công ngoại kích” thì chắc chắn việc “đại
đoàn kết dân tộc” sẽ sớm đạt thành quả tốt đẹp, và nhóm mới thành
hình này sẽ là nhóm lãnh đạo nòng cốt chuyển tiếp cho thời hậu
cộng sản, để xây dựng thể chế Đa nguyên Tự do Dân chủ Pháp trị và
Nhân quyền sẽ được bảo vệ tôn trọng tại Việt Nam.
Theo thiển kiến, đây là những suy tư
cũng có phần đáng quan tâm. Tuy nhiên, bài học kinh nghiệm không
chỉ riêng của dân tộc Việt Nam mà có thể nói là của cả các dân
tộc khác trên toàn Thế giới, về hậu quả liên hiệp hòa hợp hòa
giải sống chung với Việt cộng suốt hơn nửa Thế kỷ qua, dưới nhiều
hoàn cảnh và hình thức khác nhau, đã đem lại tình cảnh khốn đốn
cho dân tộc Việt Nam ngày hôm nay. Bằng chứng cụ thể là, quảng
đại quần chúng Việt Nam vẫn nghèo đói lao khổ triền miên, chỉ có
nhóm cán bộ đảng viên cộng sản “giai cấp Tư bản Phong kiến Đỏ
mới” và bầu đàn thê tử tôn của chúng, mới được độc quyền hưởng
thụ “vinh thân phì gia” xuất ngoại như đi chợ, hiển nhiên rành
rành ra đó ai cũng thấy được rõ ràng. Do đó, chúng ta không thể
vì “cuộc chiến bất bạo động” diễn tiến từ hơn 40 năm nay chưa đem
lại thành quả mong muốn, mà nôn nóng “nhẹ dạ cả tin” vào những
“cò mồi” do bè lũ Việt cộng tung ra dụ dỗ mê hoặc, như chúng vẫn
từng làm trong quá khứ, để giúp cho chúng có cơ hội mua thời gian
củng cố lại nội bộ “lùi một bước để tiến lên hai bước” theo chiến
thuật cũ rích của chúng mà mọi người đã biết.
Có người lại cho rằng, chúng ta đang
thiếu một lãnh tụ, một chủ thuyết căn bản vững mạnh có thể đánh
đổ tận gốc rễ chủ thuyết cộng sản Mác Lê. Điều đó theo thiển ý,
hiện nay không còn là điều kiện căn bản cần thiết nữa. Vì sau hơn
70 năm thực thi chủ thuyết cộng sản Mác Lê, thực tế cuộc sống của
quảng đại quần chúng trong các nước xã hội chủ nghiã tồi tệ nghèo
đói chậm phát triển, thua xa cuộc sống của quần chúng trong các
xã hội theo Tư bản chủ nghiã, và hậu quả hiển nhiên đã xảy ra là
Quốc tế cộng sản do Liên Xô Nga lãnh đạo đã xụp đổ hoàn toàn,
ngay tại cái nôi đã phát sinh ra nó. Đặc biệt sự xụp đổ đó, lại
do chính quảng đại quần chúng trong các nước xã hội chủ nghiã,
với sự hợp tác của các lãnh tụ đảng viên nòng cốt trung kiên của
đảng cộng sản vùng lên đạp đổ phế bỏ, để giành lại các quyền căn
bản của con người đã bị các chính quyền chuyên chính cộng sản
tước đoạt suốt mấy chục năm trời.
Hiện nay, tình trạng nội bộ bè lũ Mafia
Việt cộng đang phân hóa lủng củng tột cùng, cũng như bị toàn dân
khinh bỉ không còn nể sợ như trước kia nữa, chính là nhờ vào hiệu
quả “cuộc chiến bất bạo động” do những người Việt Nam chống Cộng
đang lưu vong tỵ nạn trên toàn thế giới, cùng những người từng là
đảng viên cộng sản nay đã phản tỉnh, nhiệt tình thường xuyên tiếp
tay cùng toàn dân, vận động thúc đẩy cuộc đấu tranh dưới mọi hình
thức trong mọi lãnh vực gọi là “diễn biến hòa bình” từ mấy chục
năm nay mà có được, chớ đâu cần phải tôn vinh một minh chủ nào để
hướng dẫn?
Nếu
ta ví cuộc đấu tranh giải thể bè lũ Mafia Việt cộng hiện nay, như
một cuộc đấu võ triệt hạ bọn cướp to con, ù lì tàn bạo, có sức
mạnh súng đạn và thủ thuật võ công MA GIÁO, nhưng đang rơi vào
trạng thái tinh thần sa sút vì “tứ bề thọ địch”, còn những nhóm
người đánh bọn cướp là các nhóm nhân sĩ và đoàn thể tranh đấu cho
Tự do Dân chủ Nhân quyền cho dân tộc Việt Nam, cả ở trong lẫn
ngoài nước, dù chỉ là các nhóm võ sĩ CHÍNH GIÁO nhỏ thó không có
một tấc sắt trong tay, nhưng mưu lược thông minh nhân hậu, thì
đâu cần phải chờ bầu ra một minh chủ mới tiếp tục cuộc đấu đến
thắng lợi cuối cùng!
Mục đích chung là triệt hạ bọn cướp,
vậy mỗi nhóm võ sĩ hãy tùy theo khả năng kỹ thuật võ công của
mình, hiệp lực cùng mọi giới đồng bào đang bị bọn cướp trấn áp
bóc lột cùng tiến lên một lượt, đồng loạt tung ra các ngón đòn
chí tử liên tiếp từ khắp mọi hướng đánh vào các yếu huyệt của bọn
cướp, thì chúng sẽ luống cuống chống đỡ không kịp, và chắc chắn
phải ngã qụy không còn cơ may ngóc đầu lên nổi nữa.
Sau khi hạ xong quân cướp rồi, thì toàn
dân sẽ cùng các nhóm nhân sĩ và đoàn thể đấu tranh cho Dân chủ
Nhân quyền của dân tộc Việt Nam, hiệp lực dựng lên một Chính
quyền Liên hiệp chuyển tiếp để xây dựng nền móng cho một chế độ
chính trị Đa đảng Dân chủ Pháp trị Bình quyền Công bằng Nhân ái,
như mọi người từng mơ ước từ những năm đầu Hậu bán Thế kỷ 20 đến
nay.
Đây là
chiến thuật “GÓP GIÓ THÀNH BÃO”, cũng có thể gọi là “chiến thuật
biển người” do chính cộng sản từng dùng xưa nay để cướp chính
quyền, mà người viết mạo muội đề bạt để Quý Vị nhân sĩ đang còn
quan tâm lo lắng cho tương lai trường tồn của Dân tộc đất nước
Việt Nam, xét định tiếp tay hỗ trợ cho các nhóm nhân sĩ và đoàn
thể đấu tranh cho Dân chủ và Nhân quyền cho Việt Nam ở trong nước
cũng như nơi hải ngoại, có đủ phương tiện và hoàn cảnh thuận lợi
tiếp tục ra sức đấu tranh mạnh mẽ hơn nữa, hòng sớm cứu Dân tộc
Việt Nam thoát ra khỏi ách cai trị độc đảng độc tài chuyên chính
toàn trị bạo tàn của bè lũ Mafia Việt cộng, để quảng đại quần
chúng Dân tộc Việt Nam ở trong nước có được một cuộc sống đầy đủ
ấm no hạnh phúc, Nhân quyền được tôn trọng bảo vệ một cách bình
đẳng, quốc gia Việt nam trường tồn hưng thịnh kịp thời đại mà các
dân tộc khác trên toàn Thế giới đang được hưởng.
Hiện nay thời thế mới đang đem đến cho
chúng ta những thời cơ mới, vậy chúng ta hãy cùng nhau cố gắng
tạo ra các đường lối hành động mới cho cuộc chiến loại trừ bè lũ
bán nước hại dân Việt cộng, để giải cứu cho Dân Tộc Việt Nam
thoát khỏi ách cai trị độc tài đảng trị chuyên chính vong nô của
bạo quyền Việt cộng càng sớm càng tốt.
Cầu xin Thượng Đế, Hồn thiêng sông núi
dòng giống Tiên Rồng và Anh linh các Thánh Hiền Tử sĩ Việt Nam,
phù trợ cho tất cả chúng ta có đủ can đảm sáng suốt, tiếp tục
đoàn kết chặt chẽ cùng toàn dân Việt Nam dấn thân tranh đấu sớm
loại trừ được bè lũ Mafia bạo tàn vô nhân đạo Việt cộng, để rồi
cùng nhau phục hưng Quốc gia Dân tộc Việt Nam trường tồn phát
triển thịnh vượng vững mạnh trong thanh bình hạnh phúc muôn đời
trên quả địa cầu này.
Mong lắm thay.
Nguyễn-Huy Hùng
Cựu Đại tá Quân lực Việt Nam
Cộng Hòa, Phụ tá Tổng Cục trưởng Chiến tranh Chính trị kiêm Chủ
nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến trước 30-4-1975,
Cựu tù nhân chính trị 13 năm lao đông
khổ sai trong các trại tập trung cải tạo của Đảng Việt Cộng và
Nhà nước Cộng Hòa xã hội Chủ nghiã Việt Nam trên cả 3 miền đất
nước Việt Nam sau ngày Quốc hận 30-4-1975.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Mùa QH 30-T4-Đ/2018. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by nhh chuyển
Đăng ngày Thứ Hai, April 30, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang