Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Chùa Bà Hoàng
Tác giả:
Ngô Viết Trọng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Hồi
ấy, những ngày nghỉ học tôi hay theo cha tôi vào rẫy để làm phụ
một số việc vặt. Tôi thích lắm, vì đó là cơ hội để tôi có thể mặc
tình bắt chuột bắt chim. Chỉ trong tháng đầu kỳ nghỉ hè tôi đã
bắt được cả chục tổ chim và một con rùa nữa. Mẹ tôi vốn sùng đạo
đồng bóng, thấy vậy bà đâm ra lo sợ. Một lần mẹ tôi dặn:
– Vùng rẫy mình đang mần là đất cũ của
người Mọi, người Hời. Khi vô đó con không được nghịch ngợm phá
phách. Con biết mấy cái cây thân to tàn rộng là nơi những kẻ
khuất mặt khuất mày hay ở không? Con chim con chuột làm tổ ở đó
không chừng là của người ta nuôi. Mình cứ tới quấy phá khiến
người ta nổi giận là rước cái khổ vào thân có ngày.
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
– Những kẻ khuất mặt khuất mày đó là ai
rứa “mạ”?
Dân
làng tôi hồi ấy hầu hết quen lệ con cái gọi cha là “chú” và gọi
mẹ là “mạ”. Mẹ tôi nghiêm giọng:
– Là những vong hồn người Mọi người Hời
chứ ai nữa. Tuy họ đã bỏ đi nơi khác để đất đai lại cho mình mần
ăn nhưng vẫn có một số vong hồn thương đất tiếc của còn bịn rịn ở
lại. Những vong hồn ấy cứ quanh quẩn đó, chờ thấy ai hạp căn hạp
mạng là tìm cách bắt về hầu hạ cho họ. Vì rứa con phải giữ gìn
cho lắm mới được!
Thế rồi mẹ tôi dẫn chứng một tùa dài
những người bị chết do những kẻ khuất mặt nói trên chấm số khiến
tôi rợn cả xương sống. Từ đó, cứ vào tới rẫy tôi chỉ làm việc
quanh quẩn bên cha tôi, không dám nghịch ngợm đi tìm chim bắt cá
như trước. Nhất là gặp chỗ có cây cao bóng mát tôi vội tránh xa
ngay.
Nhà tôi
cách xa rẫy không tới bốn cây số. Muốn đi đến rẫy, chúng tôi phải
đi theo một con đường mòn ngang qua một dòng khe nhỏ, dân làng
tôi vẫn quen gọi là “khe bà Hoàng”. Khe này có nước chảy quanh
năm, nhưng về mùa nắng có lúc chỉ còn một dòng nhỏ chảy rất yếu.
Dân làm rẫy qua lại vẫn hay ngừng tại đây để rửa ráy, giặt giũ.
Khe không bắc cầu vì trên lối đi qua, mặt khe rộng thoáng, ngoại
trừ những lúc đang mưa lớn, nước không chảy xiết lắm, người ta
vẫn lội qua lại dễ dàng. Nhìn về thượng nguồn phía bờ hữu, cách
lối qua khe một đoạn, tôi thấy có một khu cây cối khá xanh tốt
rậm rạp. Hiện tượng này đã làm tôi thấp thỏm nghĩ ngợi nhiều
ngày. Tôi từng nghe người ta kể trước đây không lâu có một người
đàn bà thiểu số từ đâu không biết đi lạc đến sống ở vùng này. Bà
ta không biết một tiếng Việt nào nên cũng chẳng ai chỉ bảo gì cho
bà được. Bà đã tự dựng một cái chòi nhỏ gần khe bà Hoàng để ở.
Hằng ngày bà xin khoai xin sắn và bắt cóc nhái rắn rết để nướng
ăn. Trong làng cũng có mấy người tốt bụng hay đem cơm đến cho bà.
Suốt thời gian ở đó, tuyệt nhiên bà không hề trộm cắp của ai hay
làm mích lòng ai cả. Dân làng vẫn quen gọi bà là “mụ Mọi”. Ở đó
được mấy năm thì “mụ Mọi” đột nhiên biến mất, để lại nhiều thắc
mắc cho dân làng. Nhiều người cho là “mụ Mọi” đã chết ở một hóc
hẻm nào đó. Người ta đồn đại có người đã thấy “mụ Mọi” hiện hồn
về xin ăn... Tôi lại nghĩ có lẽ hồn “mụ Mọi” đang ở đâu trong khu
cây cối rậm rạp đó nên không ai dám đốn thôi. Cả vùng mỗi rẫy
người ta chỉ chừa lưa thưa một vài cây vừa vừa để lấy bóng mát
nghỉ trưa, còn hầu hết đều phá đi để trồng hoa màu. Người ta sợ
để cây quá lớn sẽ bị tinh tà ma quỷ đến ở rồi tác oai tác quái.
Vùng rẫy này lại thuộc khu vực mất an ninh nên không mấy ai trồng
các loại cây ăn trái lưu niên. Ban đêm đâu có ai dám ở lại để giữ
gìn?
Một lần
mẹ tôi nấu cơm trễ, cha tôi nôn việc vào rẫy trước, chừng hai giờ
sau tôi mới bới cơm theo. Lúc ấy đường vào rẫy đã vắng, chỉ còn
một mình tôi thung dung đếm bước. Khi sắp lội qua khe bà Hoàng,
tôi bỗng thấy một bà lão đầu đội chiếc mũ len màu đà, mặc áo dài
màu lam, ở đâu từ mé khe phía có lùm cây cối rậm rạp thình lình
bước lên. Tôi nhận ra ngay bà lão có một dáng dấp phong lưu và
một gương mặt đẹp trong sáng ưa nhìn khác thường! Tôi hết sức
ngạc nhiên rồi bất chợt rùng mình! Có phải là người thật không
đây? Làng tôi quê mùa lam lũ làm gì có được một người đàn bà lịch
sự như thế? Bà ở đâu đến, sao lại từ phía cái lùm cây mà tôi vẫn
ái ngại lâu nay ấy bước ra? Tuy bà lão gật đầu chào tôi với ánh
mắt đầy vẻ thiện cảm nhưng tôi vẫn bước thật nhanh, tim đập thình
thịch. Qua khỏi khe một đoạn khá xa tôi mới tạm yên tâm. Nhưng
sau đó hình ảnh bà lão cứ khuấy động đầu óc tôi. Người đâu đã già
mà còn đẹp khác thường như vậy?
Nhất định bà lão tôi mới gặp không phải
dân Mọi rồi, Mọi làm sao trắng trẻo như thế được? Hay bà là dân
Hời chăng? Tiên chăng? Hồ mị chăng? Lúc bấy giờ tôi cũng có đọc
vài ba truyện Liêu Trai thấy người ta nói đến một giống chồn tu
luyện lâu đời có khả năng biến thành những cô gái đẹp hay những
ông già bà lão phương phi khác phàm để trêu chọc hay tìm cách làm
hại loài người. Hình ảnh bà lão vừa đẹp thu hút vừa đáng sợ ấy cứ
lởn vởn mãi trong trí tôi. Tuy thế, tôi vẫn không dám nói với ai
vì sợ người ta cười mình nhát gan. Nhưng từ đó, khi đến đoạn
đường lội qua khe bà Hoàng tôi không còn dám đi một mình.
Rồi một chiều kia, khi cùng cha tôi
trên đường từ rẫy về nhà qua khỏi khe bà Hoàng một đoạn, tôi bỗng
thấy ba người nào đó đang đi ngược chiều. Lúc ấy mặt trời sắp
lặn, người làm rẫy đã lần lượt ra về gần hết. Mấy người này ở đâu
lại đi ngược như thế nhỉ? Khi lại gần tôi bỗng giật thót người,
nếu không có cha tôi đi bên cạnh có thể tôi sẽ bỏ chạy mất! Người
đi đầu chính là bà lão mà tôi đã gặp ở gần khe bà Hoàng lần
trước! Tay bà lão chỉ cầm một cái quạt xếp, vẫn dáng dấp phong
lưu với gương mặt đẹp đầy vẻ thu hút. Khi thấy cha tôi cúi đầu
chào họ có vẻ cung kính và ba người ấy đều gật đầu chào lại tôi
mới yên lòng. Bấy giờ tôi mới dám nhìn kỹ: cả ba người chắc không
phải là dân làm rẫy. Họ đều đã cao tuổi, thân hình mảnh mai, bước
đi thong thả, không lộ ra chút nôn nóng nào. Đi kế bà lão cốt
cách phong lưu ấy là một bà lão khác cũng đội mũ thâm, mặc áo dài
nâu đà, nhưng trông người có vẻ khắc khổ, tay xách một cái giỏ
đệm đựng gì đó hơi nặng. Sau hết là một ông lão đội nón lá mặc đồ
thường gánh trên vai hai chiếc giỏ tre đựng toàn những nồi đất
loại nhỏ. Lại một thắc mắc khác dậy lên trong đầu tôi: ông lão
gánh một gánh nồi đất nhiều như thế vào đây để làm gì? Tôi lại
cảm thấy rờn rợn trong người! Sao giờ này họ mới vào rẫy và họ sẽ
làm gì trong vùng rẫy này?
Điều thắc mắc e ngại của tôi không phải
vô cớ đâu! Vùng tôi ở người ta vẫn hay dùng loại nồi đất ấy để
đựng cốt dời trẻ con. Đã có một lần tôi chứng kiến tận mắt người
ta dùng cái nồi đất như thế để đựng một thai nhi bị hư đem chôn.
Vậy thì những người này đang đi đâu và dùng nồi đất nung để làm
gì?
Đợi khi đi
cách họ khá xa tôi mới hỏi cha tôi:
– Gần tối rồi mà mấy người này còn đi
mô rứa chú?
–
Thì họ đi về chùa chứ còn đi mô nữa!
– Chùa ở mô chú? Xa không mà họ đi
chẳng vội vàng chi cả?
Cha tôi gắt:
– Cái thằng ni đi ngang đi dọc nhiều
lần rồi mà không để ý chi hết. Chùa bà Hoàng ở gần khe bà Hoàng
đó chứ ở mô nữa! Cách đường mình đi chừng vài trăm bước chứ mấy!
Cái vùng cây cối um tùm rậm rạp bên bờ khe đó không thấy à?
Trời đất ơi, thì ra có một ngôi chùa ẩn
mình ở cái vùng cây cối rậm rạp mà tôi vẫn e dè sợ sệt đó! Lâu
nay tôi có nghe tiếng chuông trống gì đâu? Tôi cũng sực hiểu ra y
phục lạ mắt mà hai bà lão bận là y phục của người tu hành. Từ nhỏ
đến giờ tôi có đến chùa lần nào đâu mà biết! Nhưng vẫn chưa hết
thắc mắc, tôi hỏi tiếp cha tôi:
– Rứa ông lão gánh hai giỏ nồi đất ấy
vào chùa mần chi?
– Thì để mà nấu cơm chứ mần chi nữa? Cứ
hỏi lôi thôi mãi, đi mau kẻo tối rồi!
Tôi lại ngạc nhiên, nấu cơm ư? Thật
tình mà nói, tôi cũng chưa hề thấy ai dùng nồi đất ấy để nấu cơm
bao giờ. Tại sao người ta không dùng nồi đồng nồi gang thông
thường nhỉ? Ở quê tôi hồi ấy người ta còn thói kiêng cữ, không
muốn trẻ con biết những gì mà người ta nghĩ là liên hệ đến cõi
âm. Tôi cứ nghĩ chắc còn có điều gì bí ẩn lắm mà cha tôi muốn
giấu tôi đây.
Hình như hiểu được tâm trạng của tôi, sau khi cơm tối xong, cha
tôi hỏi:
– Mi
không biết cái bà cầm cái quạt hồi chiều là ai à?
– Dạ không!
– Bà Hoàng đó chứ ai nữa!
Tôi sửng người. Tôi từng đọc những
truyện cổ tích, trong đó những ông hoàng bà chúa đều là những
nhân vật hết sức cao quí, một đứa trẻ nhà quê như tôi dễ gì mà
gặp được! Bà lão tôi gặp hai lần ấy là bà Hoàng ư? Hèn gì dù
khoác áo tu hành và đã trọng tuổi mà trông bà vẫn còn đẹp còn đầy
vẻ quí phái như thế!
Thế rồi cha tôi bắt đầu kể đại lược như
sau:
Bà Hoàng
vốn là con gái cưng của một vị đại thần nổi tiếng giàu có ở Huế
là ông Trương Như Cương, người gốc làng Hiền Lương, huyện Phong
Điền. Bà là người vợ đầu tiên của vị hoàng tử trưởng con vua Đồng
Khánh tên là Bửu Đảo. Khi vua Đồng Khánh mất, hoàng tử Bửu Đảo
còn nhỏ quá nên triều đình Huế đã lập con vua Dục Đức là ông Bửu
Lân lên kế vị tức vua Thành Thái. Lớn lên, hoàng tử Bửu Đảo trở
thành một vị hoàng thân phong lưu phóng đãng bậc nhất ở chốn thần
kinh. Thời trẻ ông ăn chơi hơi sớm, có lẽ vì rủi ro lỡ lầm sao
đó, ông vướng phải căn bệnh chán đàn bà. Dù vậy, vì thể diện, vì
danh giá của gia đình, ông vẫn phải cưới vợ. Bà vợ không may đầu
tiên của ông chính là bà Hoàng chúng tôi đã gặp.
Mang sẵn dòng máu phong lưu trong
người, khi đã chán đàn bà, ông Hoàng tất phải theo đuổi một vài
thứ đam mê khác, đó là thú vui xem hát bội và thú vui đỏ đen. Sau
này, vì quá say đắm thú vui đỏ đen, gia sản của ông Hoàng dần
tiêu tán hết, nợ nần mỗi ngày mỗi chồng chất thêm...
Bà Hoàng vốn con nhà danh giá, được
giáo dục kỹ càng về tam tòng tứ đức nên hết sức giữ trọn đạo thờ
chồng. Tất nhiên lỡ vướng phải ông chồng như thế, bà Hoàng không
khỏi buồn lòng. Bà đã bao nhiêu lần cố gắng thuyết phục chồng sửa
đổi tánh tình, nhưng ông Hoàng vẫn chứng nào tật ấy. Của hồi môn
cha mẹ cho khi theo chồng không còn gì đã đành, nhiều lần bà phải
về nhà xin thêm để trả nợ cho chồng. Nhưng ông Hoàng vẫn phớt
tỉnh coi như không có gì.
Sau cùng không chịu nổi nữa, bà Hoàng
quyết định xin tiền bạc cha mẹ một lần cuối để lập một ngôi chùa
bên một dòng khe dưới chân núi Sầm trên địa phận làng Thanh Thủy
Thượng (xã Thủy Dương) để tu thiền. Tôi chưa rõ chùa đó được đặt
tên chính thức là gì, chỉ biết người dân địa phương vẫn quen gọi
là “chùa bà Hoàng”. Vì lẽ đó, dòng khe chảy ngang qua dưới chân
chùa đó cũng được mang tên là khe bà Hoàng.
Tuy tu hành, nhưng bà Hoàng đã tu theo
một lối riêng biệt. Bà hướng về mục đích xa lánh trần tục, tìm sự
yên tĩnh thanh thoát cho tâm hồn, âm thầm nghiên cứu giáo lý,
kinh sách mà ít chú trọng đến việc tụng kinh gõ mõ. Nghe đâu ban
đầu cũng có một số tu sĩ khác cùng tu ở chùa, nhưng sau này chỉ
còn lại hai thầy trò, không thấy thu nạp thêm đệ tử nào nữa. Ông
lão gánh nồi đất chỉ là một người dân địa phương ở gần đấy giúp
việc trông coi cây cối trong khuôn viên chùa để hưởng lộc.
Dòng đời xoay chuyển, sau khi thực dân
Pháp truất phế vị vua trẻ tuổi cả gan làm cách mạng – tức vua Duy
Tân, triều đình Huế bèn rước hoàng thân Bửu Đảo lên thay tức là
vua Khải Định.
Khi đã lên ngôi báu, vua Khải Định tỏ
ra hối hận việc trước, ngài cho người đến chùa ngỏ ý muốn rước bà
Hoàng về triều giữ ngôi Đệ Nhất Giai Phi tức ngôi vị quốc mẫu.
Nhưng bà Hoàng đã chán mùi thế tục, nhất định không chịu nghe.
Vua Khải Định cũng tỏ ra khá chung tình với người cũ, vẫn để
trống chiếc ghế Đệ Nhất Giai Phi. Người vợ kế tiếp của ngài được
triều đình chính thức cưới hỏi đúng nghi lễ là bà Hồ Thị Chỉ cũng
chỉ được phong làm Đệ Nhị Giai Phi. Tất nhiên các quan còn dâng
thêm cho ngài nhiều bà phi nữa. Nhưng những bà này chỉ hưởng được
danh vị chứ thật tình cũng như đi vào chùa vậy... Hư thực không
rõ nhưng trong dân gian vẫn chào xáo như thế.
Người đàn bà cùng tu, cũng là người
theo hầu bà Hoàng, người ta vẫn gọi là bà Nghè. Không ai rõ lý
lịch của bà này. Người thì nói bà ta là người họ hàng rất thân
thiết với bà Hoàng nên đã hi sinh đời mình theo bà Hoàng cho trọn
tình tri kỷ. Người thì nói đó là một bà tiến sĩ (bà Nghè) gặp
hoàn cảnh tương tự nên thương nhau mà cùng tu. Có người lại nói
bà Nghè chỉ là một cung nữ được vua phong “bà Nghè” để tương xứng
với chức tước một người theo hầu cận người đàn bà được coi như
quốc mẫu. Bà Nghè có nhiệm vụ hôm sớm lo việc hương khói trong
chùa, đọc kinh sách cho bà Hoàng nghe. Bà cũng làm người tùy tùng
khi bà Hoàng đi đây đi đó, ở nhà thì kiêm luôn cả việc bếp núc.
Tuy đã gởi mình nơi cửa thiền, nhưng bà
Hoàng vẫn giữ thói quen về sinh hoạt ẩm thực quí phái độc đáo cũ.
Bà vẫn sai bà Nghè dùng loại nồi đất để nấu cơm. Ăn xong ngày nào
quăng bỏ nồi ngày nấy. Người ta nói, dùng loại nồi đất ấy nấu cơm
ra ngon thơm lạ thường. Người nấu cơm rành có thể khéo léo liệu
cách ủ than thế nào để tạo được lớp cơm ở đáy và quanh hông nồi
cháy vàng vàng, thơm giòn ngon tuyệt. Có lẽ điều đó không ngoa
gì. Sau này, khi được đọc sách nói về cách ăn uống của các bậc
vua chúa, tôi mới biết có nhiều vị vua chuyên ăn cơm nấu bằng nồi
đất như thế, chỉ khác là cơm vua dùng vẫn đập bể nồi để lấy ra
chứ không đơm ra rồi giữ nồi dùng lại lần khác như dân thường...
Giờ thì mọi nỗi nghi ngại của tôi đã
được giải tỏa. Tôi rất muốn có cơ hội để gặp lại bà Hoàng – một
bà Hoàng bằng xương bằng thịt! Ngay hôm sau tôi thuyết phục được
một thằng bạn cùng vào chùa chơi. Thì ra vẫn có một lối lên chùa
mà lâu nay tôi không thấy. Đoạn gần đường mòn vào rẫy thì chỉ một
lối hẹp nhưng khi gần chùa thì lại có mấy bậc cấp bằng đá xây
trét đàng hoàng. Bước lên khỏi mấy bậc cấp, chúng tôi gặp ngay
ông lão đang quét sân. Có lẽ thấy chúng tôi còn nhỏ và có vẻ hiền
lành, ông lão ngừng chổi, đi lấy cho chúng tôi hai chùm đào trái
rồi dặn:
– Mấy
cháu vô chơi đừng có phá phách nghe. Muốn ăn chi nói ông hái cho.
Mấy cháu mà phá phách lần sau ông không cho vô đó.
Chúng tôi vâng dạ rồi vừa ăn đào vừa
thơ thẩn đi xem khắp vườn chùa. Ở nơi đây chúng tôi đã tìm gặp
một sự im vắng lạ thường. Mỗi bước chân trên sỏi đều được nghe rõ
mồn một. Vườn chùa có trồng nhiều loại cây ăn trái như dừa, mít,
ổi, vải, vả, nhãn, cam, quít... và nhiều nhất là đào. Lát sau thì
ông lão đem đến cho chúng tôi một giỏ đệm đựng phần lớn là đào
lẫn thêm mấy trái ổi – có lẽ trái cây mới lấy trên bàn thờ Phật
xuống. Hôm đó chúng tôi đã ăn một bụng đào thỏa thích. Ăn xong,
chúng tôi nằm dưới một gốc mít mà nghỉ. Chốc lát sau thấy buồn
ngủ và chúng tôi cùng làm một giấc khá dài. Tôi từng đi qua nhiều
khu rẫy nhưng chưa thấy nơi nào mát mẻ bằng ở đây. Cái cảm giác
mát mẻ dễ chịu lạ thường lúc ấy tới bây giờ tôi vẫn còn nhớ...
Sau khi đem khoe với bạn bè cuộc chơi
chùa thú vị ấy, tôi lại được nghe thêm nhiều chuyện thú vị khác
liên quan đến ngôi chùa này...
Đây là ngôi chùa đặc biệt được mọi giới
chức có quyền, kể cả chính phủ bảo hộ Pháp và sau này chính quyền
Việt Nam Cộng Hòa triệt để tôn trọng, luôn quan tâm bảo vệ. Quân
đội Pháp cũng như quân đội quốc gia Việt Nam sau này khi hành
quân khu vực quanh đó tuyệt nhiên không bao giờ xâm phạm đến
chùa. Thỉnh thoảng một vài cấp chỉ huy của họ cũng vào chùa nhưng
với vẻ hết sức cung kính. Vài lần bà Hoàng thân hành ra nói
chuyện với họ, bà nói chuyện với người Pháp bằng tiếng Pháp rất
lưu loát.
Nếu
có việc gì đáng tiếc xảy ra, người trong chùa chỉ báo cho chính
quyền địa phương – quận hoặc xã – biết là lập tức được giải quyết
thỏa đáng ngay.
Chùa trồng nhiều loại cây ăn trái nên
mùa nào thức nấy, gần như lúc nào trong vườn chùa cũng có trái
cây. Vì sự hấp dẫn đó, nó đã trở thành mục tiêu cho những kẻ
nghịch ngợm quấy phá, nhất là lũ học trò và lũ chăn trâu. Tuy
chùa có nhờ một ông lão giữ việc coi vườn nhưng vì mắt mờ chân
chậm nên bao lần ông đã vất vả khốn đốn bởi bọn trẻ. Thời điểm
trái cây chín nhiều, ông lão thường đi quanh vườn để canh giữ.
Nhưng bọn trẻ có đủ cả trăm mưu kế tạo ra nhiều chuyện cười ra
nước mắt để ăn cắp.
Như một lần chúng đến vườn chùa vào lúc
chạng vạng. Chúng đã chuẩn bị sẵn một hình nộm độn toàn lá cây
mang sẵn lên cây rồi tỉnh bơ trèo hái đào. Khi ông lão biết được
chạy đến, tên hái trộm hét lên một tiếng rồi xô hình nộm rớt
xuống nghe cái bịch. Ông lão mắt lem nhem không thấy rõ, tưởng
đứa bé té xuống thật, sợ có chuyện không may xảy ra phiền phức
vội lặn mất. Thế là mấy đứa trẻ mặc sức mà hái.
Cũng có khi một hai đứa lảng vảng bên
ngoài vườn, cố tình để cho ông lão thấy. Chúng làm bộ thập thò
như muốn chờ cơ hội để leo vào. Tất nhiên ông lão phải canh
chừng, không thể nào rời đi được. Ông ta không hề biết rằng cùng
lúc đó, một toán trẻ khác đang tự do thao túng ở một góc khác
trong vườn.
Vụ
“ăn hàng” đáng nhớ đời nhất là vụ giả mạo quân lính. Hôm ấy, một
toán thanh niên ngụy trang thành một đội lính quốc gia, gã cầm
đầu mang cấp bậc trung úy đàng hoàng, ghé vào chùa xin nghỉ một
chốc. Bà Hoàng tuy không chịu làm quốc mẫu nhưng vẫn tỏ ra lòng
bao dung từ ái của một bà mẹ đối với mọi người. Những khi mát mẻ
khỏe người, bà vẫn hay thơ thẩn dạo vườn. Lúc ấy, nếu gặp ai vào
chùa xin uống miếng nước, bao giờ bà cũng kêu lại ân cần hỏi han
thân mật rồi cho người đem một ít trái cây ra biếu tặng. Những
trẻ con vào vườn chùa ăn cắp trái cây, bị người nhà chùa bắt
được, nếu gặp bà, cũng được bà kêu lại dịu ngọt khuyên răn rồi
cho một ít trái cây mà thả đi. Những ai có vẻ đàng hoàng tử tế
tới thăm chùa đều được bà thân tiếp đãi rất ân cần. Bà không phân
biệt đó là viên chỉ huy người Pháp, ông tỉnh trưởng, ông quận
trưởng, những viên chức hành chánh, quân sự lớn nhỏ hay một cậu
học sinh nhà nghèo. Vài lúc bà bảo người nhà rót nước chè, đem
trái cây ra mời khách, rồi chính bà ra ngồi chuyện vãn với khách.
Bà hỏi chuyện xa, chuyện gần, chuyện thế thái nhân tình... và với
bất cứ ai bà cũng có những lời khuyên hợp lý.
Hôm ấy viên trung úy chỉ huy bọn lính
giả kia cũng được bà Hoàng vui vẻ tiếp chuyện. Ông ta xin gởi một
số tiền để mua trái cây cho bọn lính ăn. Bà Hoàng bảo ông lão lấy
trái cây cho họ ăn thả sức nhưng không cho lấy tiền. Bà cũng cho
phép ai muốn uống nước dừa cứ leo lên hái. Ông lão cũng nhân dịp
này nhờ mấy anh lính hái giùm cho một số dừa. Bình thường ông vẫn
nhờ mấy đứa trẻ biết leo trèo hái vì ông không còn leo dừa nổi.
Cho rằng có mặt những người lính ở đó không ai dám quấy phá nữa,
vả lại, đám lính đã được cho ăn thỏa mãn rồi, ông lão yên chí vào
chòi nằm nghỉ trưa thẳng giấc. Đến nửa chiều viên trung úy vào
chào cám ơn bà Hoàng rồi rút quân. Bà Hoàng ân cần dặn họ khi nào
hành quân qua đó cứ việc ghé chùa.
Khi bọn lính đi rồi, ông lão mới phát
giác các loại trái cây như mít, dừa và nhất là đào đã bị hái trộm
quá nhiều...
Thế là hôm sau, một số thanh niên trong làng bị quận mời về thẩm
vấn vì tội giả mạo quân nhân vào chùa ăn trộm trái cây. Người ta
ngạc nhiên vì những người bị quận mời không lầm ai hết. Hơn một
nửa đám quân nhân giả mạo ấy là những người đã thi hành nghĩa vụ
quân dịch xong. Ông quận trưởng Hương Thủy đã giữ họ lại phạt làm
tạp dịch một ngày cảnh cáo rồi thả về...
Sau khi nghe những chuyện như vậy, tôi
mừng thầm tìm cách vào chùa chơi nhiều lần nữa. Để mua chuộc cảm
tình của ông lão giữ vườn chùa, tôi tỏ ra hết sức hiền từ, biết
vâng lời. Khi ông cần leo hái dừa hái mít tôi liền sốt sắng giúp
ngay. Tôi nói với ông rằng ở chùa không khí mát mẻ, yên tĩnh, học
bài dễ thuộc. Dù muốn dù không ông lão vẫn phải cho tôi một ít
trái cây mỗi lần tôi đến. Trái cây ở chùa nhiều, khi đã đặt lên
cúng Phật xong người trong chùa dùng cũng không hết. Nhưng mục
đích vào chùa của tôi không phải vì thích ăn trái cây hay học bài
mà vì một ý riêng. Đáng tiếc hai lần gặp dọc đường tôi chưa biết
người mình gặp là một bà Hoàng. Tuy cảm nhận được sự khác thường
ở bà nhưng chỉ mới thoáng qua, tôi chưa thỏa mãn. Tôi vẫn nuôi hy
vọng được gặp bà Hoàng một lần để chiêm ngưỡng tường tận những
nét đẹp quí phái của một bà quốc mẫu.
Nhưng trời không chiều lòng, tôi đã
không gặp may. Suốt thời gian tôi hay vào vườn chùa để học, tôi
chẳng lần nào thấy bà Hoàng bước ra dạo vườn.
Rồi tôi lên Huế trọ học một thời gian.
Tuy xa cách, nhưng tôi vẫn còn nuôi mộng sẽ gặp được vị quốc mẫu
cao quí ấy một lần nữa. Tôi cứ tiếc rẻ hồi ấy mình khờ quá, sao
không dám táo bạo lên tiếng xin vào “yết kiến” bà? Lúc này thì
tôi có thể làm và nhất định thực hiện ý nguyện.
Thế rồi trong một dịp về làng tôi lại
vào thăm chùa. Tôi có chuẩn bị một ít trà bánh, đến chùa với lòng
phơi phới tự tin. Nhưng vừa gặp lối cũ lên chùa tôi đã nhận ngay
ra sự thay đổi khá nhiều. Cái lối mòn nhỏ trước kia tôi vẫn đi cỏ
chỉ đã giăng đầy. Ngược lại có nhiều lối đi băng khác mở ra một
cách bừa bãi, có cả dấu chân trâu bò giẵm đạp lên những bãi phân
của chính chúng. Tôi tìm lối để len vào trong chùa. Từ trong ra
ngoài đều vắng lặng, tuyệt nhiên không có một bóng người. Đó đây
khắp vườn và cả trên sân chùa thấy vương vãi vài vỏ trái mít chỉ
còn xơ hoặc mít sâu đã khô róm lại, năm ba trái dừa được đập bể
bừa bãi, lớp tựa cơm đã được nạo sạch, những chùm đào non chưa ăn
được, những trái ổi non khô đen cứng ngắt... Cây cối trong vườn
hầu hết bị trâu húc bò lấn gẫy đổ tiêu điều. Một số cây như mít,
ổi, đào vẫn lẻ tẻ trổ hoa, kết trái nhưng phần nhiều bị sâu sia
cả. Chỉ có những cây dừa còn có vẻ nguyên vẹn nhưng nhìn lên chỉ
thấy những quày trái mới ra...
Trước đây tôi đã đến chùa nhiều lần
nhưng chưa bao giờ vào bên trong. Giờ đây chùa lại không có người
coi sóc nên tôi cũng chẳng muốn vào đó làm gì, sợ xảy ra những
điều đáng tiếc. Tôi đang ngẩn ngơ trước cảnh cỏ cây xơ xác hoang
tàn bỗng nghe tiếng bước chân ai đi xào xạc. Tôi quay nhìn, một
người đàn ông trung niên cầm cái rựa trên tay đang tiến về phía
tôi. Ông ta hỏi:
– Chú ở mô tới đây mần chi?
– Dạ, em đi học ở xa mới về ghé thăm
chùa. Nhưng sao chùa lúc này không thấy ai ở mà cũng chẳng thấy
ai coi sóc chi hết cả vậy?
– Bà Hoàng mất rồi, bà Nghè thì về làng
hay đi mô không ai rõ, còn ai mà dám vô đây ở! Ông Tầm cũng mất
rồi, chùa không ai coi sóc tụi giữ trâu phá phách quá mới tiêu
điều thế ni. Tui cũng định tới kiếm trái dừa uống nước chơi chẳng
biết còn không.
Ông ta ngước mắt đảo quanh lên mấy
buồng dừa để tìm kiếm lựa chọn rồi lắc đầu:
– Trái cứ vừa nứt mắt tụi giữ trâu đã
hái hết cả rồi. Chỉ còn rặt trái non có nước mô mà uống!
Thế rồi ông ta đi lại một cây đào, nhún
người nhảy lên vít một nhánh bứt lấy một chùm trái còn non. Ông
vừa nhai đào vừa bước ra khỏi vườn chùa theo một lối khác:
– Chú đứng chơi nghe, tôi phải về lấp
cho xong mấy vồng sắn!
Tiếng chân người đàn ông xa dần rồi mất
hẳn. Buổi trưa hè đứng gió khiến cả chim chóc cũng không buồn
hót. Không gian hoàn toàn vắng lặng đến nỗi có một chiếc lá rơi
tôi cũng nhận ra. Tôi ngồi xuống bên một gốc dừa tựa lưng vào
thân cây. Những ngày hè trước kia tôi vẫn hay ngồi như thế này,
nhưng trời mát mẻ dễ chịu chứ không oi bức như bây giờ. Lũ trẻ và
những con trâu đã phá phách vườn chùa quá nhiều. Không biết một
thời gian nữa ngôi chùa này sẽ ra sao? Tôi nhớ đến ông Tầm, ông
còn sống thì đâu đến nỗi! Tôi bùi ngùi nhớ tới bà Hoàng, đáng
tiếc cho một người đàn bà đức độ hữu sắc nhưng vô duyên... Rồi bà
Nghè nữa, giờ bà đang ở đâu hay cũng đã ra người thiên cổ? Các vị
ấy có ai đã được về cõi Phật chưa hay vẫn còn nương tựa đâu đây?
Bất giác tôi ngâm lên mấy câu thơ của thi sĩ Vũ Đình Liên:
“Những người muốn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Ngô Viết Trọng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Ngô Viết Trọng chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, February 19,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang