Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Một vì vua yểu mệnh
Tác giả:
Ngô Viết Trọng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Chuyện xảy ra dưới thời Minh thuộc.
Phan Huấn quê ở làng
Cao Mật – gần thành Tây Đô là con của một viên thị vệ
dưới triều Trần Thuận Tông. Từ thuở nhỏ Huấn đã nổi
tiếng hay chữ. Nhờ thân phụ làm việc gần vua, Huấn biết
khá nhiều chuyện lôi thôi đã xảy ra ở triều đình. Lúc
bấy giờ nhà Trần đã quá suy yếu, đang bị một ngoại
thích nhiều tham vọng là Hồ Quí Ly khuynh loát. Rất
nhiều vị thân vương, trung thần, trong đó có cả các danh
tướng có công lớn trong việc bình Chiêm như Nguyễn Đa
Phương, Trần Khát Chân đã lần lượt chết dưới tay Quí Ly.
Thấy những thảm cảnh đó, lòng Huấn đâm nguội ngắt với
hai chữ công danh. Bởi thế, dù chữ nghĩa đầy bụng, Huấn
cũng chẳng thiết tha gì tới các cuộc thi cử.
Khi vua Thuận Tông bị Hồ Quí Ly
bức tử thì cha Huấn cũng bị ám hại luôn. Biến cố ấy
làm Huấn càng đau lòng, càng chán đời.
Thấy con mình quá yếm thế, mẹ
Huấn lo sợ thúc giục Huấn cưới vợ với mong ước chàng
sẽ có được sự thay đổi nào chăng. Là người con chí
hiếu, Huấn nghe lời mẹ, chịu cưới nàng Thúy Liên ở làng
Yên Tôn – cũng gần thành Tây Đô – làm vợ. Hai vợ chồng
Huấn ăn ở với nhau đã mấy năm vẫn chưa có con cái gì.
Khi cuộc xâm lăng nước Việt của nhà Minh bắt đầu cũng là
lúc mẹ Huấn qua đời đã khiến Huấn càng vô cùng đau khổ.
Chiếm được Đại Việt, người Minh tập trung lực lượng lo
giữ vững những khu vực dân cư trù phú để kiểm soát nhân
sự và quản lý tài nguyên. Chúng tận dụng bọn tay sai ham
lập công để đàn áp, bóc lột dân Việt rất tàn nhẫn. Vì
thế, cuộc sống của dân ta khốn đốn, ngột ngạt trăm bề.
Riêng Huấn, vì đã nổi tiếng hay
chữ nên người Minh luôn kêu gọi chàng ra hợp tác với họ.
Trong khi đó những người yêu nước cũng âm thầm lôi kéo
chàng vào các tổ chức chống Minh. Với giặc, Huấn quyết
lòng không hợp tác đã đành, với các tổ chức chống Minh,
Huấn chưa thấy vị lãnh đạo nào sáng giá có thể làm nên
việc lớn nên cũng chưa muốn theo ai. Thấy tình thế muốn
sống yên cũng không xong, vợ chồng Huấn phải quyết tìm
một lối thoát.
May thay, bữa nọ Huấn tình cờ gặp
được Hữu, một người bạn cũ chuyên đi buôn miệt rừng mách
nước: muốn sống yên cứ lên miền thượng du. Ở đó dân tình
sống vô tư, dễ dãi với nhau mà chính quyền cũng ít ngó
ngàng tới. Hữu nói sẵn sàng dẫn Huấn đến một nơi có
đất đai làm ăn tốt, không sợ nước độc, không sợ thú dữ.
Huấn mừng lắm, bèn hẹn ngày ra đi.
Đúng ngày hẹn, vợ chồng Huấn mang
hành trang đến nhà Hữu. Tới nơi, Huấn thấy đã có bốn
người đợi sẵn. Họ ngồi riêng hai cặp. Một cặp Huấn đoán
là hai vợ chồng, cặp kia một lớn tuổi một trẻ em, có
lẽ là hai cha con. Huấn hỏi Hữu:
– Mấy người này cũng đi thượng du
sao?
– Đúng
vậy, hai gia đình này cũng lên thượng du. Anh chị đợi
chốc lát nữa đi với tôi.
Vợ chồng Huấn ngồi xuống cạnh cha
con ông già. Hai bên chào nhau. Thấy gương mặt ông già quen
quen Huấn hỏi:
– Hình như tôi có gặp bác ở đâu
rồi nhỉ?
Ông
già tươi cười cởi mở:
– Không gặp sao được? Tôi chính là
gã ăn mày hay dắt thằng bé này đi xin ăn khắp nơi đó mà.
Chắc hẳn ông bà đã gặp nhiều lần!
Thúy Liên bật cười:
– Hèn gì! Nãy giờ tôi cũng thấy
cha con ông quen quen mà nhớ mãi không ra. Đặc biệt là
hình ảnh cậu bé này lúc nào cũng nai nịt gọn gàng,
lưng mang cái bầu, tay cầm cái gậy múa men như một kiếm
khách thật dễ thương đó mà!
Huấn cũng bật cười:
– Trời đất, chàng kiếm sĩ tí hon
lưng đeo hồ lô tay múa kiếm liên miên đây sao?
– Cũng vì cái tướng ba trợn của
nó mà bọn trẻ hay gọi đùa nó là “hồ lô ông” tức là
cái ông đeo cái hồ lô, dần dần tiếng “lô” rớt đâu mất
chỉ còn hai tiếng “hồ ông” đấy. Chính tôi bây giờ cũng
quen gọi nó là “hồ ông” luôn. Xin lỗi tôi tò mò một tí,
ông bà cũng đi thượng du sao? Tại sao phải đi như thế?
Huấn lộ vẻ trầm tư giây lát rồi
đáp:
– Vì
cuộc sống thúc đẩy bác ơi. Xin lỗi bác, trông bác phong
cách chững chạc thế kia sao lại phải sa chân vào cái
nghề “bị gậy”? Sao không hành nghề ở chốn đồng bằng nữa
mà phải lặn lội đến chốn rừng núi?
Nghe Huấn hỏi, ông già sáng mắt
lên:
– Lời
thắc mắc của ông khiến tôi nghĩ chắc ông cũng đang mang
một nỗi riêng? Thú thật, ngày xưa tôi cũng chẳng đến nỗi
nào. Thời thế đã đẩy tôi đến con đường này. Cha con tôi
cũng từng đi xin ở chốn đồng bằng. Khốn nỗi thỉnh
thoảng tôi lại gặp những người quen biết cũ, tuy có chút
mừng vui nhưng làm sao khỏi nhột lòng! Vả lại bây giờ ở
miền dưới dân chúng đói khổ, cùng cực lắm. Đôi khi ngửa
tay nhận chén gạo của người ta lòng mình cũng thắt lại.
Đi miền núi thế này may ra tìm được chút tương lai cho
thằng bé.
Nhìn thằng bé có vẻ sáng sủa, Huấn hỏi:
– “Hồ ông” dễ thương quá nhỉ. Mấy
tuổi rồi?
–
Bảy tuổi. Cháu sinh ra không gặp thời...
Ông già chưa nói hết câu thì hai
chiếc xe bò đã có mấy người ngồi sẵn ghé lại. Hữu sắp
xếp cho cha con ông già lên một xe, hai vợ chồng kia lên xe
thứ hai. Hai chiếc xe bò đi xong Hữu nói với vợ chồng
Huấn:
– Đợi
tôi một lát – Hữu vừa nói vừa quày quả bước đi.
Thúy Liên chép miệng:
– Thật tội nghiệp cha con ông già.
Tuổi đó rồi mà còn phải bôn ba tìm đất sống. Có thể
ông già này trước đây cũng ở tầng lớp thượng lưu. Già
quá làm sao có thể lập nghiệp được nữa mà lại lên
thượng du nhỉ?
– Mình chẳng đoán trước kia ông ấy
có thể thuộc giai cấp thượng lưu sao? Biết đâu ông ấy sẵn
của chìm?
–
Ông Hữu cho biết sẽ đưa mình đi đâu chưa?
– Ông ấy bảo sẽ đưa mình lên châu
Ngọc Ma. Châu này vốn thuộc đất Lão Qua, vua Trần Minh
Tông mới sáp nhập vào nước ta gần đây thôi...
Chiếc xe bò thứ ba trờ tới. Hữu
bảo vợ chồng Huấn đưa hành lý lên. Thúy Liên hỏi Hữu:
– Mình đi xe bò đến tận chỗ luôn
sao anh Hữu?
Hữu cười dí dỏm:
– Đâu mà sung sướng vậy! Chỉ đi xe
bò một đoạn thôi. Còn phải lội đường rừng, phải vượt
đèo lội suối, phải qua nhiều gian nan nữa mới tới được
đất hứa! Nhưng anh chị đừng lo, tôi đã tính toán cả rồi.
*
Cuối cùng vợ chồng Huấn đã đến
bản Thủy Sách thuộc châu Ngọc Ma, một bản khá hẻo lánh,
cư dân hầu hết là người dân tộc thiểu số.
Tới được chốn này Huấn mừng lắm,
tự cho là đã chọn đúng chỗ mong muốn. Với các châu quận
miền núi, người Minh nới tay hơn ở đồng bằng nhiều. Phần
lớn ở đó là dân thiểu số nghèo nàn, thưa thớt, dẫu vơ
vét lắm cũng chẳng được bao nhiêu. Hơn nữa, việc chia
mỏng lực lượng ra để kiểm soát vùng rừng núi hiểm trở
là việc rất đáng ngại. Người Minh đành phải lơ là, dễ
dãi với dân địa phương để mua lòng. Họ chỉ tiếp xúc với
các thổ quan, vừa dụ dỗ, vừa hăm dọa miễn sao các viên
chức này chịu ngồi yên cho họ rảnh tay tung hoành ở miền
xuôi là được. Các thổ quan khôn ngoan cũng gắng giữ một
bề ngoài thần phục để được yên thân. Lâu lâu họ chỉ cống
nộp một ít sản vật tượng trưng là xong.
Ở bản Thủy Sách chưa bao lâu Huấn
đã tạo được nơi ăn chốn ở đàng hoàng. Người dân thiểu
số tuy nghèo nhưng thật thà, tốt bụng, không ganh tị, đố
kỵ ai. Huấn rất hài lòng với cuộc sống mới. Thúy Liên
đã sớm tìm được niềm vui say trong việc trồng trọt và
chăn nuôi heo gà. Huấn chỉ dành một ít thì giờ phụ giúp
vợ, ngoài việc đó, chàng hoàn toàn rảnh rang để tìm
lại thú vui trong mớ sách vở mang theo. Cũng có khi chàng
ngao du đây đó để chiêm ngưỡng những cảnh vật mới lạ.
Nhưng dần dần những thú vui đó không còn làm chàng thỏa
mãn. Chàng dần cảm thấy băn khoăn, buồn bã vì thiếu
thiếu một cái gì...
*
Lần đó trời bỗng đổ mưa dầm mấy
ngày liên tiếp. Buổi sáng sau đêm mưa dứt vầng nhật lại
rực rỡ hiện ra giữa bầu trời trong sáng. Thế là dân
trong bản rủ nhau ra rẫy thăm hoa màu xem có thiệt hại gì
không. Huấn vừa ăn cơm xong thì một người hàng xóm đến
cho biết viên tù trưởng bản Thủy Sách là Lộ Lâu gọi
Huấn phải đi gấp có việc cần. Huấn lật đật theo chân
người hàng xóm. Lát sau hai người đến một cái rẫy có
nhiều cây lưu niên, có một số đã bị nghiêng đổ vì mưa
gió. Nhìn bên trong Huấn thấy năm sáu người đang đứng
quanh một ngôi nhà bị sập úp. Hai con chó đang chạy quanh
nhà, cứ chõ mõm vào phía trong mà sủa vang. Ngôi nhà
này có lẽ bị đổ vì các cột chôn quá cạn, lại nằm
nhằm đường nước xoáy, nước đẩy mạnh quá không giữ nổi.
Tù trưởng Lộ Lâu bảo mọi người
gỡ tranh gỡ phên gỡ mái ra. Ai nấy đều hoảng hồn khi
thấy trong nhà có hai xác chết một lớn một nhỏ. Một
người kêu lên:
– Thôi rồi, đây là hai cha con người
Kinh mới đến trú ngụ trong bản khoảng ba năm nay thôi.
Huấn giật mình nhìn kỹ, đúng là
hai cha con người ăn mày cùng lên thượng du một lần với
chàng ba năm trước. Người cha bị một cây cột nhà đè lên
ngực, thân thể đã lạnh cứng nhưng tay vẫn cầm một cuốn
sách ướt nhẹp. Người con thì nằm trên một tấm ván, có
đắp một manh chiếu rách ướt. Lộ Lâu hất manh chiếu ra,
sờ vào thân thể cậu bé thấy còn có chút hơi ấm liền
kêu lên:
–
Đứa bé này có lẽ mới xỉu đi thôi, chưa chết hẳn. Mạng
người quí lắm, phải cứu mới được.
Thế rồi ông thúc hối mọi người kiếm củi nhóm lửa để
sưởi ấm đứa bé.
Lúc ấy tình cờ quan tri phủ châu
Ngọc Ma là Cầm Quý cùng một thuộc viên cưỡi voi đi ngang
qua. Thấy đám đông đang nhốn nháo lăng xăng làm việc, Cầm
Quý liền dừng lại hỏi duyên cớ. Khi biết rõ sự việc đã
xảy ra, Cầm Quý nói:
– Thật là chuyện rủi ro đáng
tiếc. Nhưng mạng chú bé này lớn lắm! Không phải ý trời
sao có cuộc kỳ ngộ này? Có danh y Miêu Tú ở đây – Cầm
Quý vừa nói vừa chỉ vào người tùy tùng – may ra chú bé
cũng sẽ được cứu.
Hóa ra người cùng đi với Cầm Quý
là ông thầy thuốc Miêu Tú. Miêu Tú đã nhanh chóng tiến
lại bắt mạch, bấm huyệt, xoa bóp cho đứa bé một hồi
rồi nói:
–
Không đến nỗi nào, hy vọng cứu được. Nhưng cần phải cho
nó nằm ở một nơi kín đáo tốt hơn. Chỗ này trống trải
gió máy không tiện. Có ai nhà ở gần đây không?
Huấn vốn đã biết cha con ông già
này. Thấy thằng bé kháu khỉnh dễ thương Huấn rất có
cảm tình với nó. Vả lại, hiện tại chàng vẫn chưa có
con. Nay gặp tình cảnh này chàng chợt nảy sinh ý muốn
nhận đứa bé làm con nuôi nên nói:
– Thằng bé người Kinh, tôi cũng
người Kinh, xin đưa về nhà tôi, hy vọng việc săn sóc nó
sẽ tiện hơn.
Mọi người đều cho là phải. Cầm
Quý nói:
–
Tốt quá. Anh hãy phụ với thầy Miêu đưa đứa bé về nhà
ngay đi. Vấn đề của ông già đã có anh em ở đây lo. Cứu
sống được nó là công lớn của anh và thầy Miêu đấy.
Lộ Lâu cầm cuốn sách của ông già
trao cho Huấn:
– Anh giữ cái này cho nó luôn. Đọc
xem cuốn sách nói gì rồi cho tôi hay với.
Thầy Miêu nhanh nhẹn bế xốc thằng
bé lên vai rồi bảo Huấn đi trước dẫn đường. Tới nhà
Huấn, hai vợ chồng liền sắp xếp ngay một chỗ nằm kín
đáo cho đứa bé. Thầy Miêu lại bắt mạch, bấm huyệt, xoa
bóp cho đứa bé một hồi rồi lấy ra một viên thuốc đút
vào miệng nó. Tiếp đó ông trao cho Huấn ba viên thuốc rồi
nói:
– Chốc
nữa đứa bé sẽ tỉnh lại. Nó có thể đòi ăn, nên chuẩn
bị một ít cháo loãng, cho ăn từ từ. Vài ngày sau mới có
thể cho nó ăn thức ăn đặc bình thường. Bắt đầu ngày mai
mỗi ngày cho nó uống một viên thuốc tôi vừa trao.
Quả thật chỉ một lát sau đứa bé
rên khẽ một tiếng rồi từ từ mở mắt ra. Thấy ba người
đang chăm chú nhìn mình nó cất giọng yếu ớt:
– Đây là nơi nào?
Thầy Miêu sung sướng vừa cầm tay
nó xem mạch vừa mỉm cười:
– Cháu tỉnh lại rồi, tốt quá! Đây
là nhà của hai ông bà tốt bụng đã cứu cháu đấy. Cháu
yên chí nằm nghỉ.
– Cha cháu đã chết bây giờ ra sao
rồi?
– Cha
cháu đang được người ta chôn cất. Khi cháu khỏe người ta
sẽ chỉ chỗ cho cháu biết.
– Cháu đói quá, xin quí ông quí
bà bố thí cho cháu chút đồ ăn.
– Từ từ đã, rồi cháu sẽ được ăn.
Thầy Miêu lại quay sang nói với vợ
chồng Huấn:
– Tốt lắm rồi. Phận sự của tôi như thế là xong! Ông bà
gắng săn sóc đứa bé, nhớ làm theo lời tôi dặn. Rồi đây
quan tri phủ sẽ cho người đến thăm và quyết định trường
hợp của nó luôn. Giờ tôi phải đi kẻo quan tri phủ đợi.
Xin chào.
*
Thấy đứa bé đã tỉnh táo, vợ
chồng Huấn mừng lắm. Thúy Liên bưng đến cho nó một chén
cháo, mắt nó sáng rỡ lên. Nàng dịu dàng hỏi:
– Cháu tên gì?
– Bẩm quí bà, cháu tên Cảo.
– Cháu họ gì?
Thằng bé có vẻ ngẩn ngơ không
hiểu. Huấn nghĩ là nó chưa tỉnh táo hẳn nên nói với
vợ:
– Mình
cho nó ăn đi đã, mai mốt nó khỏe hẳn hỏi chuyện sau.
Thúy Liên dặn thằng bé:
– Thế là cô biết cháu tên Cảo
rồi. Từ đây cháu khỏi cần bẩm quí ông quí bà chi hết.
Cháu cứ thưa chú, thưa cô là đủ.
Dặn xong nàng bắt đầu đút cháo
cho thằng Cảo ăn. Trong khi đó Huấn lấy cuốn sách của ông
già ra xem. Nhưng chàng đã hoàn toàn thất vọng. Hai mặt
bìa sách đều bị nước xóa nhòa lem luốc hết. Chỉ còn
lờ mờ vài nét mà theo dạng chữ Huấn đoán chừng đó là
hai chữ “Trần Triều”. Sách được chế bằng giấy bổi quá
mỏng đã bị dầm nước khá lâu nên bao nhiêu giấy đều dính
chặt vào nhau thành một mảng. Huấn chỉ còn cách đem nó
ra phơi nắng hy vọng có thể gỡ ra từng tờ. Nhưng rồi
việc này cũng vô ích. Khi sách đã khô vẫn không cách nào
gỡ ra từng tờ được. Gỡ tới đâu nó bấn tơi ra tới đó.
Đành chịu thua.
Hôm sau thằng Cảo đã lại sức
nhiều. Nó đã đi lại được, đã tự bưng được bát cháo để
ăn, đã chủ động việc đi tiêu đi tiểu. Huấn thấy vậy vui
mừng bàn với vợ:
– Tội nghiệp thằng bé rồi đây
không biết sẽ nương tựa vào đâu. Mình chưa có con, hay là
nhận nó làm con nuôi được không?
Thúy Liên sáng mắt lên:
– Tôi cũng định đề nghị với mình
như thế. Cỡ nó cũng có thể nhờ được vào các việc vặt
rồi. Giờ nó cũng đã khá tỉnh táo, mình hãy thử hỏi
phăng về gốc gác nó đi.
Liếc thấy thằng bé đang ngồi với
dáng vẻ âu sầu, Huấn bước lại ngồi gần nó. Thằng Cảo
giật mình ngẩng lên nhìn Huấn trân trân. Huấn cười:
– Cháu thấy mặt chú quen quen phải
không? Đừng buồn nữa. Cứ chờ vài ngày khi cháu khỏe hẳn
chú sẽ dẫn đi thăm mộ cha cháu. À, mà cha cháu tên họ
là gì?
–
Trước kia người ta gọi là ông ăn mày, nay người ta gọi là
ông Kinh.
–
Thế họ của cháu là gì?
– Cháu chỉ biết trước kia cháu tên
“hồ ông”, giờ là tên Cảo thôi.
Cảo vừa trả lời vừa dùng ngón
tay vạch một chữ “Cảo” trong không khí. Cái dạng chữ
“Cảo” thằng nhỏ tả quá đúng khiến Huấn ngạc nhiên hỏi:
– Cháu biết chữ à? Ai dạy cho
cháu?
– Dạ
cha cháu có dạy cháu một ít.
– Vậy cháu thử đọc chú viết chữ
gì đây nhé!
Nói xong, Huấn đưa ngón tay vạch vào không khí sáu chữ.
Cảo đọc ngay:
– “Nhân chi sơ, tính bổn thiện”.
Đọc xong Cảo bỗng khóc òa. Huấn
càng ngạc nhiên hỏi:
– Cháu đọc không sai, sao lại khóc?
Cảo vừa khóc tức tưởi vừa đáp:
– Cháu thương cha cháu quá. Cha
cháu đã bị cảm lạnh lại bị cột nhà đè nữa. Nay cháu
đã khỏe, ngày mai chú cho cháu đi thăm mộ cha cháu được
không?
– Chưa
được, phải đợi người ta báo cho chú biết mộ cha cháu
chôn ở đâu đã. Cháu đã đọc cuốn sách bị ướt này của
cha cháu chưa? Trong sách nói những gì?
– Cháu chưa đọc, cha cháu quí cuốn
sách đó lắm nhưng chưa bao giờ cho cháu đụng tới.
Lời của Cảo đã khiến Huấn đánh
dấu hỏi về gốc gác ông già. Có lẽ vì muốn che giấu
tông tích nên y không cho chính con mình biết họ, sợ nó vô
tình tiết lộ ra chăng?
*
Hôm sau, khi Huấn vừa ra khỏi cửa,
định sang nhà người hàng xóm để hỏi mộ ông già chôn ở
đâu, bất ngờ gặp tù trưởng Lộ Lâu và thầy Miêu ghé thăm.
Sau khi hỏi qua về tình trạng của đứa bé, thầy Miêu vui
vẻ nói:
–
Vậy là quá tốt. Thay mặt quan tri phủ, tôi xin cám ơn ông
bà Huấn đã săn sóc đứa bé mấy hôm nay. Cũng xin báo để
ông bà biết, người đàn ông vô danh đã được chôn cất tử
tế gần chỗ y đã qua đời. Tội nghiệp đứa bé sau này lớn
lên không biết gốc gác mình ở đâu. Xin ông tù trưởng tìm
giúp có ai chịu nhận nuôi nó không? Nếu không có tôi sẽ
đưa nó về cho quan tri phủ.
Tù trưởng Lộ Lâu chợt hỏi Huấn:
– Thế ông Huấn đã đọc cuốn sách
của ông già chưa? Sách nói về chuyện gì vậy?
Huấn liền thuật lại việc mình đã
làm với cuốn sách ra sao. Tù trưởng Lộ Lâu tiếp lời:
– Theo như ông Huấn cho biết cuốn
sách của ông già còn thấy lờ mờ hai chữ Trần Triều, có
thể y họ Trần lắm...
Đã có chủ ý trước, Huấn thưa:
– Vợ chồng tôi xin nhận thằng Cảo
làm con nuôi được không? Nếu được, xin cho nó theo họ Phan
của tôi. Chuyện gốc gác của nó ta sẽ tìm hiểu sau.
Thầy Miêu và tù trưởng Lộ Lâu đều
nói:
– Thế
thì tốt quá. Chúng ta khỏi bận tâm về chuyện này nữa.
Cái tên Phan Cảo nghe cũng hay đấy. Tôi xin thay mặt quan
tri phủ chấp nhận việc này.
Nói xong thầy Miêu trao cho Huấn
một thỏi vàng:
– Đây là món quà đặc biệt quan tri
phủ dành cho người nhận nuôi thằng bé.
Sau khi thầy Miêu và tù trưởng Lộ
Lâu ra về, Huấn liền dẫn Cảo đi thăm mộ ông già.
*
Cảo rất thông minh, ngoan ngoãn.
Những khi rảnh rỗi, Huấn lại dạy chữ nghĩa cho Cảo. Dạy
đến đâu Cảo tiếp thu được đến đó khiến Huấn rất hài
lòng. Thúy Liên thấy vậy cũng vui mừng lắm. Đáp lại,
Cảo cũng tỏ ra rất hiếu thảo, siêng năng. Cha mẹ nuôi sai
bảo việc gì Cảo đều làm tới nơi tới chốn. Khi rảnh rỗi
Cảo còn biết tự tìm các công việc lặt vặt trong nhà để
làm nữa. Vì thế, vợ chồng Huấn càng ngày càng thương
yêu, quí mến Cảo hơn.
Đường con cái của vợ chồng Huấn
ngày càng thu hẹp, Cảo dần thật sự thành kẻ trông cậy
mai sau của họ. Vì vậy, họ không tiếc sức vun bồi mọi
mặt cho Cảo.
Một hôm khi giảng cho Cảo một bài
văn sách đặc biệt, thấy Cảo không những chỉ tiếp thu mau
chóng mà còn gợi ra được một số tư tưởng mới lạ, Huấn
buột miệng than:
– Tiếc quá, con sinh ra không gặp
thời. Nếu đất nước yên bình, với tài học của con lo gì
không đạt được công danh phú quí? Con sẽ có cơ hội giúp
vua trị nước an dân! Hãy nghe cha, gắng lo phát triển học
vấn, gắng lo ôn luyện! Biết đâu sẽ có ngày hữu dụng?
Cảo lộ vẻ phân vân đáp:
– Thưa cha, tấm lòng cha thật cao
khiết, nhân hậu, cha là người con ngưỡng mộ nhất trên
đời. Được cha mẹ đùm bọc, dạy dỗ, yêu thương như hiện
tại con đã quá hạnh phúc. Công ơn tái sinh của cha mẹ
đối với con thật quá lớn lao! Con nguyện sẽ ở bên cạnh
cha mẹ suốt đời. Khi cha mẹ già yếu con phải nâng đỡ,
cung phụng cho tới ngày trăm tuổi mới đền đáp được phần
nào mối ân tình bao la ấy. Con không muốn sống xa rời cha
mẹ. Cha đã từng sợ hãi, chán chường mấy chữ công danh
phú quí mà phải chạy trốn nó tới tận chốn núi rừng
này, sao giờ cha lại khuyên con lo ôn luyện để chờ ngày
lập công danh? Điều này khiến con hơi khó nghĩ. Con sẽ
gắng học hỏi, ôn luyện để bồi bổ kiến thức bản thân
chứ không phải con mong tìm kiếm công danh phú quí. Xin cha
mẹ thông cảm cho con!
– Cám ơn con đã bày tỏ tấm chân
tình đối với cha mẹ! Thật ra việc tìm kiếm công danh đâu
phải là xấu! Kẻ trượng phu có tài muốn góp phần trị
nước an dân tất phải tìm kiếm công danh trước. Không địa
vị, không danh vọng làm nền móng sẵn dễ gì thực hiện
được công việc lớn lao kia? Cha vốn bẩm thụ yếu đuối,
kém tài nên khi thấy cảnh vì việc tranh quyền đoạt vị
mà người ta giết nhau như giết ngóe, nhiều người hôm nay
còn làm quan hôm sau đã trở thành tử tội nên cha chán
ngán thôi. Còn con thì khác...
– Thưa cha, nhất định bắt chước cha
thôi. Con không bao giờ màng đến hai chữ công danh!
– Tùy ý con! Cha cũng không ép!
Từ đó vợ chồng Huấn hoàn toàn
coi Cảo như con đẻ. Việc gì hai cha con cũng tâm đầu ý
hợp. Dần dần Huấn không chỉ còn coi Cảo như con cái mà
còn coi Cảo như một người bạn tri kỷ.
Đối với mọi người chung quanh Cảo
luôn lễ phép, khiêm tốn. Thấy ai gặp khó khăn, Cảo không
ngần ngại ra tay giúp đỡ. Bởi thế, cả bản Thủy Sách ai
cũng mến chuộng Cảo.
*
Thấm thoát Cảo đã trở thành một
thanh niên cao lớn. Một hôm Huấn bàn với vợ:
– Nhà mình được đứa con nuôi hiếu
thuận, biết ăn ở như thằng Cảo cũng là phước lớn lắm.
Ta nên lo chuyện vợ con cho Cảo là vừa.
Thúy Liên có vẻ đắn đo:
– Tôi đồng ý với mình. Nhưng mình
cũng nên từ từ lựa con nhà ai có nết na và ít nhất
cũng có chút nhan sắc để con mình nó khỏi buồn.
– Đáng tiếc, Cảo ngoài hình tướng
cao ráo đẹp đẽ lại thông chữ nghĩa, ở chốn thâm sơn cùng
cốc này muốn tìm được một cô vợ cho xứng cũng hơi khó.
Hay ta về thăm Cao Mật và Yên Tôn một chuyến may ra tìm
được mối nào chăng?
Thúy Liên băn khoăn:
– Cũng có lý. Nhưng nay chiến tranh
đang hồi gay cấn đi lại chưa tiện. Cứ thử ra công dò tìm
ở đây đã. Biết đâu chốn thâm sơn cùng cốc này cũng có
ngọc lành?
Từ đó vợ chồng Huấn âm thầm tìm hiểu mấy nhà có con
gái chung quanh. Việc chưa đi đến đâu bỗng có ba người
khách đến thăm. Đó là ông bà Lâm và đứa con trai, người
cùng làng Yên Tôn với Thúy Liên. Ông bà này đều cỡ ngoài
năm mươi. Họ mang theo một gùi nếp và một cặp vịt to béo
làm quà. Thúy Liên thoáng ngạc nhiên một chút rồi tươi
cười đón khách vào nhà:
– Trời ơi, quí hóa quá. Hai bác
vẫn mạnh khỏe? Cậu này là cháu Tuất đây phải không? Cơ
duyên nào đưa hai bác đến tận chốn núi rừng này? Mời hai
bác và cháu Tuất ngồi chơi đã.
– Đúng là cháu Tuất. Già rồi, đi
đâu chúng tôi cũng dắt nó theo để đỡ đần cho mình.
Huấn vui vẻ ra chào khách. Trong
khi Thúy Liên lo trà nước, bác Lâm gái nói với Huấn:
– Cháu Thúy Liên ngày xưa ở cùng
xóm với chúng tôi. Chúng tôi mến Thúy Liên lắm, muốn tìm
thăm cháu đã lâu nhưng nay mới có dịp.
– Dạ cám ơn tấm lòng ưu ái của
hai bác. Nhà cháu cũng hay nhắc đến hai bác. Chúng cháu
định vài ba ngày nữa sẽ về thăm quê, lúc ấy thế nào
cũng ghé thăm hai bác, không ngờ nay hai bác đã lên đây
trước.
Thật
ra Huấn chỉ là con rể, lại lên sống ở miền núi đã lâu,
làm sao nhớ được mấy ai ở làng Yên Tôn? Còn Thúy Liên
thì hết sức cảm động nhưng không khỏi gợn chút thắc
mắc. Ngày xưa gia đình Thúy Liên với gia đình ông bà Lâm
cũng không thân thiết lắm, cớ sao lại có vụ thăm viếng
đầy vất vả này?
– Nghe nói hai cháu có đứa con nuôi
hiểu thảo lắm phải không? Cháu đâu không thấy?
– Dạ, cháu tên Cảo, đang đi săn
trầm chắc vài ba ngày nữa mới về.
Thế rồi Thúy Liên dọn bữa trưa ra
mời khách. Bác Lâm trai và cậu Tuất đều có vẻ ít nói
nhưng bác Lâm gái thì liến thoắng lắm. Giữa lúc chuyện
trò vui vẻ, bác Lâm gái bỗng hỏi:
– Này, Thúy Liên còn nhớ cụ Bá
Hoành không?
– Có phải cụ bá hộ giàu nhất làng mình đó không? Bây
giờ gia đình cụ ấy sao rồi? Hai cụ ấy vẫn khỏe chứ?
– Cả hai cụ đều còn khỏe. Hai cụ
vẫn nhắc đến hai cháu hoài và bây giờ hai cụ nhờ chúng
tôi chuyển đến hai cháu một đề nghị.
Thúy Liên càng ngạc nhiên hơn vì
suốt thời còn ở làng nàng chỉ gặp hai cụ ấy dọc đường
một hai lần chi đó chứ chưa từng tiếp xúc thẳng với ai
trong gia đình họ cả. Nàng hỏi lại:
– Thưa, cụ Bá đề nghị chuyện gì
vậy?
Bác Lâm
gái tươi cười cởi mở:
– Một chuyện đáng mừng cho hai
cháu thôi. Trước đây hai cụ đã rất có cảm tình với Thúy
Liên, nay lại nghe hai cháu có một đứa con nuôi rất hiếu
thảo đã đến tuổi trưởng thành nên hai cụ muốn đưa đứa
cháu nội cưng của hai cụ về làm con dâu hai cháu...
Thấy cả hai vợ chồng Huấn đều lộ
vẻ ngẩn ngơ bác Lâm gái nói tiếp:
– Thật đấy, hai cụ nói thấy trong
gia đình hai cháu ai cũng có đức nên muốn gởi gắm đứa
cháu yêu là Hồng Tiên vào cho nó được hưởng phúc ké.
Hồng Tiên đã mồ côi cả cha lẫn mẹ từ thuở nhỏ. Chính
hai cụ đã nuôi dưỡng, vun bồi cho cháu trở thành một
thiếu nữ sắc nước hương trời như ngày nay. Hai cụ thương
yêu Hồng Tiên lắm. Vì thấy mình tuổi trời đã cạn nên hai
cụ rất lo lắng cho tương lai của Hồng Tiên. Nếu gởi Hồng
Tiên vào gia đình hai cháu được hai cụ sẽ rất yên tâm để
chờ ngày nhắm mắt. Khỏi cần thắc mắc, vì thương cháu,
mọi phí tổn về việc cưới hỏi hai cụ tình nguyện bao
trọn hết. Nói nôm na là coi như “cho không” đó. Không những
thế, hai cụ sẽ cho đôi trẻ một món hồi môn xứng đáng
nữa. Hai cụ chỉ yêu cầu một điều là phải làm đám cưới
thật sớm, càng sớm càng tốt. Nên nhận lời đi, bỏ lỡ
dịp này uổng lắm. Hãy suy nghĩ, bàn luận với nhau rồi
cho hai bác biết ý kiến để tính liệu nghe.
Vợ chồng Huấn nghe bác Lâm gái
nói xong càng ngớ người ra thêm. Một lát sau Huấn thưa:
– Chúng cháu rất cám ơn hai bác
đã có ý muốn tác hợp duyên lành cho cháu Cảo. Chúng
cháu cũng xin gởi lời cám ơn hai cụ Bá Hoành đã chiếu
cố đến gia đình cháu. Nhưng bây giờ chúng cháu chưa có
thể nói gì được. Ít nhất cũng phải đợi cháu Cảo về
để xem ý nó ra sao đã. Xin hẹn vài ba ngày nữa chúng
cháu về thăm quê sẽ ghé nhà hai bác để trả lời luôn
thể.
– Cũng
được. Chớ bỏ lỡ dịp tốt này uổng lắm!
Đêm đó bác Lâm gái lại tiếp tục
thuyết phục vợ chồng Huấn: gia sản của cụ Bá lớn lắm.
Phải cưới gấp Hồng Tiên cho Phan Cảo như thế sẽ bảo đảm
cho tương lai của Cảo suốt đời.
Hôm sau thì ông bà Lâm ra về.
*
Ông bà Lâm vừa bước ra khỏi cửa
Thúy Liên hớn hở nói với chồng:
– Không ngờ thằng Cảo lại có
phước lớn đến thế. Nghèo xơ xác, lại ở chốn non cùng
núi thẳm mà cũng có người muốn đến dâng vợ đẹp. Chuyện
lạ lùng hết sức.
– Đúng là con người có số!
– Tôi cũng rất ngạc nhiên về gia
đình cụ Bá nữa. Trước đây họ coi gia đình mình như rác,
có bao giờ tiếp xúc với nhau đâu mà bây giờ bảo là có
cảm tình, mến đức? Nhưng thôi. Mặc họ.
Hai hôm sau thì Cảo về. Trong khi
cả nhà đang ngồi phân loại các sản vật Cảo vừa thu
hoạch được bất ngờ quan tri phủ Cầm Quý cùng tù trưởng
Lộ Lâu lại ghé nhà! Huấn giật mình đứng dậy chào hỏi.
Cầm Quý thân mật nói:
– Hôm nay tôi mang đến cho ông bà
một tin rất quan trọng. Ông bà và cháu Cảo hãy cùng
chúng tôi ngồi lại một lát, ta sẽ bàn bạc với nhau việc
này. Khỏi cần lễ nghi làm gì, hãy trải một tấm chiếu
nứa ra nền nhà để ngồi cho mát là đủ.
Cảo lấy tấm chiếu nứa trải ra.
Cầm Quý ra hiệu cho mọi người cùng ngồi rồi hỏi:
– Lâu nay cháu Cảo mang họ Phan
phải không?
Có chuyện gì xảy ra cho Cảo ư?
Huấn hồi hộp thưa:
– Bẩm quan phủ, đúng là cháu Cảo
mang họ Phan. Xin quan phủ cho biết cái tin quan trọng ấy,
chúng tôi hồi hộp quá.
– Kể từ hôm nay chúng ta hãy đổi
cháu Cảo sang họ Trần. Tù trưởng Lộ Lâu sẽ lo việc đó
giúp ông bà. Cái tin rất quan trọng tôi nói chính là tin
đó.
Huấn
chẳng hiểu gì cả, bèn hỏi lại:
– Bẩm, sao cháu Cảo phải đổi ra
họ Trần?
Tri
phủ Cầm Quý hỏi lại:
– Ông Huấn còn giữ cuốn sách của
ông già vô danh không?
– Bẩm, cuốn sách đó bị nước thấm
làm hỏng hết không đọc được nữa nên tôi không còn giữ.
– Nhưng chắc ông không quên trên bìa
cuốn sách ấy còn thấy lờ mờ hai chữ Trần Triều phải
không? Điều này đã khiến ai cũng tin rằng ông già ấy họ
Trần. Vừa rồi quân Minh đã bị nghĩa quân ta đánh bại
khắp nơi. Tuy đã yếu thế, nhưng chúng vẫn ngoan cố tử
thủ ở các căn cứ chính để đợi viện binh. Vì muốn tiết
kiệm xương máu cho cả đôi bên, Bình định vương đã thương
lượng với viên Tổng binh nhà Minh là Vương Thông. Ngài nói
nếu Vương Thông chịu rút quân về nước, ngài sẽ trả toàn
bộ số tù binh quân ta đã bắt giữ cho về theo, sẽ cấp
lương thực đầy đủ và dành mọi sự dễ dàng cho họ trên
đường về. Thế nhưng Vương Thông lại đưa ra điều kiện muốn
quân Minh rút về, bên ta phải tìm một người dòng dõi nhà
Trần lập lên làm vua theo đòi hỏi của vua Minh họ mới
chịu. Hiện nay Bình định vương đang cho tìm gấp một người
dòng dõi nhà Trần. Vậy tại sao dịp này không để cháu
Cảo cải sang họ Trần?
Giờ Huấn mới vỡ lẽ, chàng lắc
đầu:
– Chúng
tôi không dám làm thế đâu. Chuyện cuốn sách trước kia hết
sức mơ hồ ai làm chứng cho? Sự cải họ này có thể khiến
chúng tôi bị bắt tội gian dối đấy. Hơn nữa, chúng tôi đã
quen cuộc sống yên tĩnh ở đây. Tuy nghèo mà vui. Chúng tôi
không hề mơ ước được bước vào chốn quyền quý cao sang.
Kính xin quan phủ bỏ qua cho.
Tri phủ Cầm Quý nói:
– Ai bắt tội man khai trong trường
hợp này mà sợ? Làm chứng thì đã có chúng tôi đây. Việc
dựng người tôn thất nhà Trần làm vua chỉ cốt cho người
Minh vừa lòng. Dù mình đưa người giả đi nữa người Minh
làm sao biết được? Chẳng lẽ đang nghèo hèn bỗng chốc
được người ta tôn lên làm vua ông bà không muốn? Cháu Cảo
nghĩ thế nào?
Cảo từ tốn thưa:
– Bẩm quan phủ, ý cháu cũng như ý
của cha cháu thôi. Cháu rất sợ mấy chữ công danh phú
quí. Hơn nữa, cháu chưa hề có một tấc công với đất
nước, chưa làm được gì cho ai hết, bỗng nhiên nhảy tót
lên địa vị chí tôn thiên hạ, cháu tự thấy xấu hổ lắm,
không thể nào yên lòng được.
– Cháu suy nghĩ chưa tới đó thôi.
Người Minh đã hứa, hễ Đại Việt có một vị vua dòng dõi
nhà Trần lên ngôi họ sẽ rút quân về ngay. Cháu chịu làm
theo yêu cầu của Bình định vương tức là cháu đã cứu
được hàng vạn sinh mạng quân dân của hai nước. Dân Đại
Việt sẽ được trở lại cuộc sống thanh bình. Điều đó
không phải là công lao và ơn đức mà cháu ban phát cho
quốc dân sao? Việc gì mà cháu phải xấu hổ, áy náy?
Thúy Liên tuy biết tính chồng, con
đều không ham chuyện phú quí nhưng thấy đây là cơ hội
ngàn năm một thuở để đời lên hương, không kiềm hãm được
lòng tham, liền nói:
– Xin quan phủ và tù trưởng cho
thiếp nói hỗn một lời. Cảo à, quan phủ giải thích như
thế đã quá rõ ràng. Tuy con chưa có công lao gì thật
nhưng giờ nếu con giúp được cái việc chấm dứt cuộc
chiến, cứu được hàng vạn sinh mạng quân lính của hai
nước, đưa Đại Việt đến chỗ độc lập, tức là con đã lập
được một công lao to lớn rồi. Sao con lại phải áy náy?
Con phải hy sinh vì đất nước, vì dân tộc, đứng ra gánh
vác việc này mới phải!
Thấy vợ nói có lý, Huấn cũng
xuôi theo:
–
Thôi, quan phủ dạy sao chúng tôi xin nghe vậy.
Tri phủ Cầm Quý vui vẻ nói:
– Có thế chứ! Kể từ đây cháu Cảo
phải nhớ mình là Trần Cảo, cháu ba đời của vua Trần
Nghệ Tông! Nhắc lại Trần Cảo là cháu ba đời của vua
Trần Nghệ Tông! Nhân chứng thì đã có chúng tôi. Mai mốt
khi sứ giả của Bình định vương đến có hỏi chúng ta cứ y
như thế mà trả lời.
Tù trưởng Lộ Lâu bấy giờ mới lên
tiếng:
–
Cháu Cảo phải nhớ lấy! Cháu là cháu ba đời của vua
Trần Nghệ Tông! Xin chúc mừng! Sau này được phú quí rồi
đừng quên chúng tôi nhé.
Thế rồi hai người cáo từ ra về.
Họ vừa ra khỏi nhà, Thúy Liên liền cười:
– Giờ đây tôi mới hiểu vì sao cụ
Bá Hoành đòi gả đứa cháu gái xinh đẹp cho thằng Cảo!
Cảo à, sao con tốt số dữ vậy?
Huấn cũng cười, lắc đầu:
– Nực cười quá, qua việc này mới
biết thiên hạ bắt mùi phú quí nhạy hết cỡ! Mấy ngày
này tôi cứ cảm động vì tưởng người ta tốt bụng với
mình. Giờ mới rõ họ cố tình lợi dụng mình! Đểu giả
không tưởng tượng được! Con nên coi chuyện này là một bài
học đáng nhớ nghe Cảo!
Trần Cảo thản nhiên cười nhẹ:
– Dạ, con biết, con xin nghe lời cha
dạy. Nhưng thú thật với cha mẹ, lòng con không muốn làm
vua một chút nào. Con muốn từ chối thôi. Con muốn suốt
đời được ở cạnh cha mẹ.
Thúy Liên khuyên lơn:
– Sao con nghĩ dại dột vậy? Nếu
con từ chối thiên hạ sẽ mắng nhiếc gia đình ta là ngu. Ăn
trên ngồi trước, nắm quyền sinh sát thiên hạ không chịu
lại cúi đầu làm tên mọi đen trong rừng?
Tuy nghe theo lời mẹ nhưng suốt mấy
ngày Cảo vẫn lộ vẻ phiền não khiến Thúy Liên rất lo.
*
Đúng như viên tri phủ Cầm Quý đã
dặn, hai hôm sau sứ giả của Bình định vương là quan Tả
bộc xạ Bùi Quốc Hưng đến nhà Huấn. Tri phủ Cầm Quý và
tù trưởng Lộ Lâu cũng tháp tùng. Sau khi kiểm chứng xác
nhận lại lý lịch của Trần Cảo xong, quan Tả bộc xạ
nói:
– Theo
lệnh của Bình định vương, hôm nay bản chức sẽ rước tôn
ông Trần Cảo về triều. Để đền công nuôi dưỡng tôn ông bao
lâu nay, triều đình cũng sẽ ban cho Phan Huấn một chức
quan. Vậy, Phan Huấn cũng thu xếp gia đình để cùng đi luôn
thể.
Huấn
nghe quan sứ bảo vậy liền đáp:
– Thưa ngài sứ giả, việc Trần Cảo
được triều đình chiếu cố là một diễm phúc quá lớn đối
với gia đình tôi rồi. Riêng bản thân tôi, vốn lười biếng,
lại đã quen sống ở chốn tĩnh lặng này, tôi thật tình
không muốn làm quan. Chỉ cầu xin một ân huệ, nếu khi nào
cần thiết, chúng tôi có thể xin phép đến thăm Trần Cảo
là đủ.
Quan
sứ Bùi Quốc Hưng nói:
– Tùy ý ông thôi. Yêu cầu của ông
không có gì trở ngại. Nhưng hiện giờ việc đóng đô vẫn
chưa nhất định chỗ nào. Việc làm quan hay không ông cứ
thong thả mà suy nghĩ lại.
Thế rồi Bùi Quốc Hưng cho rước
Trần Cảo về một căn cứ nghĩa quân ở núi Không Lộ thuộc
phủ Quốc Oai.
Ở đây Bùi Quốc Hưng bắt đầu dạy
Trần Cảo học nghi lễ, phép tắc làm vua cũng như chữ
nghĩa. Tới lúc này Quốc Hưng mới giật mình trước cái
vốn học thức Trần Cảo đã có sẵn. Không ngờ con của một
gã ăn mày ở chốn núi rừng lại ôm một bụng chữ nghĩa
như thế.
*
Tháng 11 năm Bính Ngọ (1426) Bình
định vương cùng các quan làm lễ tôn Trần Cảo lên làm vua.
Trần Cảo lấy niên hiệu là Thiên Khánh. Bình định vương
tự giáng xuống làm Vệ quốc công Kiểm hiệu Thái sư. Vì
tình thế còn gay cấn, vua Thiên Khánh lại chưa quen việc
nên Vệ quốc công Kiểm hiệu Thái sư vẫn nắm giữ mọi
quyền hành.
Tả bộc xạ Bùi Quốc Hưng được cử làm quân sư cho vua.
Quốc Hưng đã trực tiếp giám sát việc tuyển lựa những
người hầu hạ vua. Một viên quan gốc Chiêm Thành là Văn
Nhuệ đã được Quốc Hưng giao nhiệm vụ chỉ huy đội cận vệ
của vua.
Tôn
ngôi vua xong, Vệ quốc công sai Nguyễn Trãi viết một tờ
biểu đứng tên Trần Cảo dâng cho vua Minh đại lược như sau:
“Khi Thái tổ Cao hoàng đế lên ngôi
tổ tiên của thần là Nhật Khuê đã cho người sang triều
cống và được ban tước Vương. Từ đó đời đời giữ lệ
triều cống không sai sót. Gần đây, nhân họ Hồ soán
nghịch, Thái tông Văn hoàng đế đã khởi quân hỏi tội. Sau
khi dẹp yên giặc, vua đã hạ chiếu tìm con cháu họ Trần
để giữ việc thờ cúng. Bấy giờ Tổng binh Trương Phụ chưa
kịp tìm kiếm rộng khắp đã vội xin đặt đất nước thần
làm quận huyện. Thần, trước đây vì đất nước rối loạn
phải chạy trốn sang Lão Qua chỉ mong được kéo dài chút
hơi tàn. Nào ngờ người nước quen thói man di, nghĩ đến ơn
trạch của tổ tiên nhà thần, ép thần phải về nước. Bất
đắc dĩ thần phải gượng theo. Dù việc này do người nước
ép buộc nhưng cũng là cái tội bởi thần không biết đắn
đo suy tưởng. Mới đây đã đến cửa quân tạ tội nhưng chẳng
được đâu để ý lắng nghe. Người nước sợ bị giết nên mới
phải đem nhau giữ những nơi quan ải để tự vệ. Nào ngờ
quan quân từ xa đến thấy voi hoảng sợ bỏ chạy nên đã tự
tan vỡ. Việc đã đến thế, tuy do sự bất đắc dĩ của
người nước, cũng là tội lỗi của thần. Nhưng, số quan
quân và ngựa bị bắt đều đã thu lượm nuôi dưỡng, không
dám tơ hào xâm phạm. Nép mong hoàng thượng dựa theo lời
chiếu của Thái tông Văn hoàng đế cho tìm kiếm con cháu
họ Trần, nghĩ đến lòng thành của ông cha nhà thần đã
dâng lễ triều cống trước tiên, tha cho thần cái tội lớn,
miễn cho thần tội chết, khiến thần được nối dõi ở cõi
Nam, triều cống cửa trời. Ngoài sự riêng sai bồi thần
thân tín đem dâng tạ biểu và đưa đến kinh đô nạp trả ấn
tín và người ngựa, nay xin đem danh sách và số mục kính
cẩn tâu lên để nhà vua soi xét”.
Bình định vương sai sứ mang tờ biểu này đến Vân Nam cậy
Tổng binh Mộc Thạnh đem dâng cho vua Minh. Mộc Thạnh vốn
đã quá ớn lạnh với cuộc chiến này nên lập tức cho
người mang tờ biểu chạy ngựa trạm về Yên Kinh dâng vua.
Thế nhưng vua Minh đã lờ đi, không trả lời. Vậy là cuộc
chiến vẫn tiếp tục...
*
Trên các mặt trận, quân Minh càng
ngày càng yếu thế. Chúng phải co cụm dần về một số cứ
điểm cuối cùng cố tử thủ để chờ viện binh. Tổng binh
Vương Thông ở Đông Quan đã nhiều lần bí mật cử người mang
thư bọc sáp về Yên Kinh cầu cứu nhưng đều vô hiệu. Một
số thư cầu cứu này đã bị quân Nam bắt được.
Thấy vô vọng, Vương Thông định liều
tự ý rút quân. Thông bèn gởi thư xin Vệ quốc công Lê Lợi
mở đường cho quân Minh rút. Vệ quốc công đồng ý, hứa
không gây trở ngại và sẵn sàng trả luôn cả số tù binh
quân Nam đang giữ. Thế nhưng khi Thông chuẩn bị rút quân
thì một viên quan gốc Việt đã theo quân Minh từ lâu là
Lương Nhữ Hốt thưa:
– Xin Tổng binh phải đề phòng,
người Nam dối trá lắm. Trước đây nguyên soái Ô Mã Nhi bị
quân nhà Trần bắt, đã đầu hàng. Khi hai nước đã hòa
nhau, nhà Trần hứa sẽ đưa trả lại nhà Nguyên toàn bộ số
tù binh đã bắt được. Số tù binh này đã được đưa về Tàu
bằng đường biển. Nhưng Hưng đạo vương lại cho người lặn
giỏi lén đục thuyền khiến Ô Mã Nhi và một số tướng
lãnh phải chết đuối giữa biển.
Vương Thông nghe Nhữ Hốt nói vậy
hoảng quá, liền đổi ý. Y lại ra lệnh cho toàn quân quyết
tử thủ.
Nhằm thời điểm đó vua Minh lại đáp ứng yêu cầu của Vương
Thông. Vua Minh đã sai danh tướng Liễu Thăng dẫn 10 vạn binh
và lão tướng Mộc Thạnh dẫn 5 vạn binh chia hai đường
tiến vào đất Việt nhằm tiếp ứng Vương Thông.
Liễu Thăng, tước An viễn hầu, vốn
tuổi trẻ, ỷ tài nên đã quá khinh địch. Quân Nam đã lợi
dụng nhược điểm của Thăng, đã dùng kế dụ địch vào chỗ
hiểm để rồi khử được Thăng tại ải Chi Lăng. Cái chết
của Liễu Thăng làm quân Minh mất tinh thần khiến đạo quân
lớn do y chỉ huy đã dễ dàng tan vỡ.
Đạo quân của Mộc Thạnh tiến chậm
hơn. Khi quân hai bên vừa giáp mặt, Vệ quốc công liền cho
trương cái thủ cấp và ấn kiếm của Liễu Thăng lên cho quân
Minh “chiêm ngưỡng”. Quân của Mộc Thạnh thấy vậy vô cùng
khiếp sợ, cũng tan vỡ luôn.
Thanh toán xong hai đạo viện binh,
quân Nam lại tiếp tục tấn công các cứ điểm còn lại của
quân Minh. Quân Minh lại cứ thua liên tiếp. Các cứ điểm
của quân Minh cứ lần lượt thất thủ. Trước tình thế
tuyệt vọng ấy, Vương Thông lại phải gởi thư cầu hòa. Vệ
quốc công lại chấp thuận. Lần hòa nghị này hai bên đều
có trao người làm con tin cho nhau.
Nhân dịp này, Vệ quốc công đã cử
một sứ đoàn do Lê Thiếu Dĩnh, Lê Cảnh Quang, Lê Đức Huy
cầm đầu, mang tờ biểu nội dung cũng tương tự tờ biểu
trước, đi cùng một số quan chức nhà Minh sang Yên Kinh xin
phong vương. Sứ đoàn cũng nộp trả những hổ phù, ấn kiếm
của một số chỉ huy cao cấp người Minh mà quân Nam thu
được. Sứ đoàn cũng nộp luôn bản danh sách quan quân và
ngựa chiến đang bị quân Nam giữ, hứa sẽ trao trả.
Vua Minh xem biểu biết có nhiều
điểm dối trá nhưng không bắt bẻ nữa. Tướng Liễu Thăng đã
bị giết, tướng Mộc Thạnh đã tan quân, thoát thân trơ trọi
một mình chạy về, giờ biết cử tướng nào đi cứu Vương
Thông đây? Bắt không được đành tha làm phước vậy! Thế là
vua Minh ban lệnh bãi binh, cho Vương Thông rút quân về
nước. Vua Minh cũng sai Lễ bộ thị lang Lý Kỳ và La Nhữ
Kính mang chiếu chỉ sang phong Trần Cảo làm An Nam quốc
vương. Cuộc đô hộ của nhà Minh trải ngót 20 năm tới đây
chính thức chấm dứt!
*
Khi Trần Cảo được rước về triều,
vợ chồng Huấn vẫn ở lại nhà cũ. Một hôm Huấn bảo vợ:
– Bây giờ đã rảnh rang, mình về
thăm quê được rồi đó. Phía “nhà gái” đang nóng ruột trông
đợi đấy.
Thúy Liên lắc đầu cười:
– Quên chuyện đó đi, mặc kệ họ!
Mình đâu có lỗi gì! Sao trời lại ban cho họ những cái
mũi thính đến thế? Tôi ghét cái hạng tham lam đểu giả
đó lắm! Họ có hỏi cứ bảo nay Cảo không còn ở với mình
nữa, mình làm sao dám tính đến chuyện hôn nhân của Cảo?
Huấn cười xuề xòa:
– Thôi đi mình ơi. Dù sao mình cũng
đã hứa với họ khi về thăm quê sẽ ghé thăm họ để bàn
tiếp chuyện duyên nợ của bọn trẻ, không nên thất tín. Nay
Cảo đã về triều, việc hôn nhân của Cảo đương nhiên do
triều đình quyết định ai chẳng hiểu. Mình cứ thành thật
trình bày như thế với họ. Còn việc phải trái của họ
mình chẳng nên để tâm làm gì.
– Nói là nói vậy thôi chứ để tâm
làm gì cho mệt. Không chừng bây giờ họ lại ngại mình
tới thăm nữa đó. Chắc hẳn họ phải ngượng vì cái tẩy
“đón gió” của họ đã bị lộ quá rõ.
– Đừng nghĩ tới chuyện đó nữa,
bỏ hết. Vui vẻ lo sửa soạn để mai về thăm quê.
*
Vì trong làng không còn mấy người
thân nên vợ chồng Huấn chỉ ở lại Cao Mật một ngày rồi
sang Yên Tôn, quê của Thúy Liên. Ở đây vợ chồng Huấn nghỉ
lại tại nhà chị Thục, chị ruột của Thúy Liên. Họ dành
hai ngày để đi thăm bà con, bạn bè. Nhưng họ chưa kịp đi
thăm ai thì bác Lâm gái đã tìm đến. Vừa thấy mặt vợ
chồng Huấn bác Lâm gái liền đon đả:
– Phúc lớn đến rồi hả? Nghe nói
cậu Cảo được rước về triều rồi phải không? Mừng cho các
cháu. Bác cứ tưởng hai cháu lúc này sẽ bận rộn không
thể giữ lời hứa đấy chứ.
Huấn cũng tươi cười:
– Mời bác gái vô nhà. Bọn cháu
định chiều nay đến thăm hai bác đó. Thế bác trai đâu không
đến chơi?
Bác Huấn gái lại cười:
– Hôm nay lão hờn bác nên không
cùng đi.
Thúy Liên tức cười:
– Già rồi mà cũng giận hờn nhau
nhỉ? Giận hờn chuyện gì bác nói cho bọn cháu nghe với.
– Có gì đâu, tại cái chuyện chúng
tôi đã lên châu Ngọc Ma tìm hai cháu để làm mối cho cô bé
Hồng Tiên ấy mà. Lão lấy làm xấu hổ vì đã giúp cụ Bá
cái việc cầu hôn đó. Không rõ ông bạn nào của lão đã
chế nhạo cụ Bá quá tham lam! Hóa ra cụ Bá đã biết
trước cái tin cậu Cảo sẽ được rước về triều mới đến
cậy chúng tôi dắt mối. Người ta thuê thì mình làm lấy
công, cháu người ta lấy chồng thì mình được uống rượu,
thế thôi. Còn chuyện mánh mung đón gió mưu cầu giàu sang
là chuyện của người ta, mắc mớ gì mình mà phải xấu
hổ? Thế mà hai ngày nay lão cứ cằn nhằn tôi ham tiền,
nghe người ta nhờ là bợp chợp nhận lời ngay...
Mọi người đều cười ồ lên. Chị
Thục hỏi:
–
Thế hai em đã nhận lời rồi à?
Huấn lắc đầu nói:
– Đâu có. Em chỉ hứa khi về thăm
làng sẽ ghé thăm hai bác rồi bàn tiếp chuyện đó thôi.
Chị Thục cười cởi mở:
– Cái tin vợ chồng em có đứa con
nuôi sắp làm vua đã lan tràn nhiều nơi gần nửa tháng nay
rồi. Bảo cụ Bá Hoành tham lam cũng đúng đấy. Nhưng cụ
Bá kén chồng cho cháu Hồng Tiên như thế cũng không có gì
quá đáng. Hồng Tiên nó đẹp lắm, khó có cô gái nào bì
kịp đâu. Khi quân Minh còn mạnh, chúng hay rảo quanh xóm
làng, gia đình cụ Bá phải giữ riệt nó trong nhà. Quân
Minh mà thấy được Hồng Tiên đố ai giữ nổi? Nhưng đã làm
vua tất phải có hoàng hậu chứ. Sau này nếu cháu Cảo lên
làm vua thật, lựa được một hoàng hậu cỡ Hồng Tiên chị
nghĩ cả triều đình lẫn cháu Cảo sẽ rất vừa lòng.
Thúy Liên vui vẻ lên tiếng:
– Được rồi, cháu nói để bác Lâm
yên tâm. Khi cháu Cảo tính đến chuyện vợ con bọn cháu
nhất định không quên Hồng Tiên. Ngày mai bọn cháu sẽ ghé
thăm bác trai.
– Thôi, tôi đến thăm đây là đủ rồi.
Không khéo gặp hai người lão lại ngượng rồi lại nổi cáu
với tôi. Để thì giờ mà đi thăm người khác. Chúc hai cháu
vui vẻ, tôi về. Cô Thục khi nào rảnh ghé nhà tôi chơi.
– Dạ, kính chào bác.
*
Chừng bốn tháng sau vợ chồng Huấn
đến căn cứ Không Lộ thăm Trần Cảo. Lúc này Cảo đã trở
thành vua Thiên Khánh. Khi hàn huyên cùng vợ chồng Huấn,
Cảo cho biết công việc của Cảo nhàn hạ quá. Những vấn
đề quan trọng Vệ quốc công Kiểm hiệu Thái sư Lê Lợi đã
lo hết cả. Chung quanh Cảo chỉ có năm bảy viên quan trung
cấp và một đám lính để canh gác, sai vặt. Trong số này
chỉ có một viên quan gốc Chiêm tên Văn Nhuệ là luôn tỏ vẻ
nhiệt tình khi phục vụ Cảo. Nhờ có Văn Nhuệ mà thỉnh
thoảng Cảo giãi bày được vài chút ấm ức trong lòng...
Các quan khác có lẽ vì thấy Cảo không có thực quyền,
họ chỉ biết gọi dạ bảo vâng, chẳng đoái hoài đến cả
việc tranh thủ cảm tình với Cảo. Sự hững hờ, xa cách
giữa vua với tôi đã có lúc khiến Cảo tưởng như mình đang
chung sống với một đám dã nhân hiền lành... Lâu lâu mới
có vài viên đại quan vào chầu hầu Cảo chốc lát lấy lệ.
Cảo cũng tự biết mình chỉ là một ông vua hờ không có
công trạng gì với đất nước nên cũng không buồn trách ai
cả. Ngày lại ngày Cảo chỉ biết tìm thú vui với mấy
cuốn sách. Tất nhiên là cái cảm giác cô đơn, trống vắng
vẫn ngày càng lớn dần trong tâm hồn Cảo...
Thúy Liên nghe đến đây bỗng nấc
lên:
– Chết
con tôi rồi! Tội nghiệp chưa! Vua với chúa! Cũng tại tôi
cả!
Huấn
nhỏ nhẹ an ủi:
– Âu cũng là số phận. Con mình nó
đâu muốn làm vua! Tình thế của đất nước khiến nó phải
hy sinh như vậy thôi! Theo tôi nghĩ, mình cũng có thể hóa
giải nỗi cô đơn trong tâm hồn Cảo mà... Cứ lập hoàng hậu
thử xem sao?
Vợ chồng Huấn bèn đem chuyện thiếu nữ tuyệt sắc Hồng
Tiên ở quê nhà đang sẵn sàng về với Cảo kể cho Cảo nghe.
Nghe xong Cảo buồn bã thở dài:
– Không biết sau này thế nào chứ
hiện tại mọi việc ở đây đã mọi chuyện đều do Bùi quân
sư lo liệu sắp đặt cả. Con chưa hề đề nghị điều gì mà
người ta chịu nghe.
Huấn cũng than thở:
– Thế thì làm vua cái gì? Theo
phép xưa nay có mặt trời tất phải có mặt trăng! Cổ kim
đâu có ông vua nào không vợ? Ngay cả khi vợ vua mới chết,
triều đình phải lập vợ khác cho vua ngay chứ đâu cần đợi
hết tang như thường dân? Con cứ đề nghị việc lập hoàng
hậu thử xem Bùi quân sư nói sao?
Trần Cảo cúi đầu đáp:
– Dạ, con sẽ làm theo lời cha mẹ
dạy. Nếu họ nghe lời, con sẽ lập tức cho sứ về báo tin
để cha mẹ chuẩn bị. Trong vòng hai tháng nếu chẳng có
tin thì coi như việc không xong. Tuy tiếng làm vua, có
người hầu hạ, ăn ngon mặc ấm, nhưng thật sự con vô cùng
cô đơn. Con rất tiếc những ngày tháng vui sống êm đềm bên
cạnh cha mẹ...
*
Mấy hôm sau Trần Cảo hỏi Bùi Quốc
Hưng:
– Thầy
có biết theo đúng phép, xưa nay đã có ông vua nào không
vợ chưa?
–
Tâu bệ hạ, thần chưa từng thấy ai ngoài mấy vị ấu quân
mệnh yểu.
–
Vậy, bây giờ ta đã nên lập hoàng hậu chưa?
– Tâu, việc lập hoàng hậu của bệ
hạ là việc phải làm, việc tất nhiên! Nhưng thần nghĩ,
làm việc đó bây giờ là chưa phải lúc. Việc tổ chức lễ
cưới cho một bậc chí tôn đâu có thể làm đơn giản, qua loa?
Nhà nước còn đang nghèo, kho đụn chưa có. Kinh đô hiện
chưa nhất định đóng ở đâu. Triều đình cũng chưa xây dựng
được cung thất đàng hoàng. Vả lại lúc này quan quân cả
nước đang dấn thân vào chiến trường để chống kẻ thù, bệ
hạ lại nghĩ đến việc tạo dựng hạnh phúc riêng e rằng
sĩ dân không phục. Xin nán lại ít lâu, đến khi đất nước
đã quét sạch bóng thù, kinh đô đã được xây dựng lại rồi
lập hoàng hậu cũng chưa muộn. Chắc chẳng bao lâu nữa đâu!
– Thầy nói có lý. Ta hỏi cho biết
vậy thôi.
Mấy tháng sau triều đình dời về Ninh Giang. Khi quân Minh
ở thành Cổ Lộng tập kết về Đông Đô để chờ rút về Tàu
thì Bùi Quốc Hưng phò vua về thành Cổ Lộng, nơi đã được
giao cho tướng Lê Ngang trấn giữ.
*
Cuối năm Đinh Mùi (1427) Tổng binh
Vương Thông đã được Vệ quốc công Lê Lợi đồng ý cho rút
toàn quân về nước. Giữ lời hứa, Vệ quốc công cũng trao
trả luôn cả số tù binh đang giữ, cấp đủ lương thực cho
chúng ăn trên đường về. Cả bọn quan lại người Việt phục
vụ cho quân Minh như Lương Nhữ Hốt cũng được trao trả luôn.
Cuộc rút quân của Vương Thông đã diễn ra hết sức suôn sẻ.
Nhưng đất nước vừa sạch bóng thù
thì các vấn đề quan trọng khác lại phát sinh.
Đầu tiên là thắc mắc của một số
quan quân về chính sách quá hòa dịu của triều đình đối
với quân Minh trong những ngày cuối cuộc chiến. Quân dân
Đại Việt phần lớn căm thù quân Minh đã tàn ác giết hại
thân nhân họ, cướp bóc, đốt phá tài sản của họ nên ai
cũng muốn diệt chúng để trả thù. Lúc đó quân Minh đã
quá yếu thế, có thể bị tiêu diệt dễ dàng. Không hiểu
sao triều đình lại chỉ cho bao vây, kềm chân chúng mà
không chịu tiêu diệt?
Sau đó quan quân mới vỡ lẽ triều
đình đã nắm chắc phần thắng qua những mật thư bọc sáp
gởi đi gởi lại giữa Vương Thông và Minh triều mà quân ta
đã bắt được. Tiêu biểu một đoạn quan trọng trong các bức
mật thư Vương Thông gởi về Minh triều có nội dung như sau:
“Chớ vì một góc đất nhỏ nhoi mà
bao phen làm nhọc quân đi muôn dặm. Giả sử dùng tới số
quân như lần đánh ban đầu (80 vạn), có được 6, 7, 8 viên
đại tướng... như bọn Trương Phụ thì mới có thể đánh
được. Nhưng dẫu đánh được cũng không thể nào giữ được”.
Đoạn thư trên chứng tỏ người Minh đã ớn tới xương cuộc
xâm lăng này. Vệ quốc công biết chắc sớm muộn quân Minh
cũng phải rút nên ngài không muốn quân dân ta phí thêm
xương máu và cũng không muốn gây thêm hận thù với nhà
Minh. Nghe vậy, các quan đã đồng loạt reo lên: Thế này
thì dù cho ăn vàng quân Minh cũng chẳng dám trở lại nữa!
Thắc mắc trên vừa được giải tỏa
thì thắc mắc kế tiếp lại nổi cộm lên. Vệ quốc công Lê
Lợi trải mười năm nằm gai nếm mật mới đuổi được giặc
Minh ra khỏi cõi sao bây giờ không được làm vua? Tại sao
vua Thiên Khánh không hề có một chút công trong kháng
chiến giờ lại được tọa hưởng ngôi lớn? Đã cầm chắc quân
Minh không bao giờ dám trở lại, cần gì phải mượn tấm
mộc “họ Trần” để che chắn nữa? Thắc mắc này ban đầu
chỉ phát sinh với sự dè dặt nhưng dần dần nó đã diễn
biến tới chỗ cực đoan. Phần lớn các quan văn võ đều
muốn vua Thiên Khánh nhường ngôi lại cho Vệ quốc công. Có
người nói vua Thiên Khánh nên trở về làm dân. Có người
bảo như thế không được, vua Thiên Khánh phải hoàn toàn
“biến mất!”, v.v.
Nguồn dư luận dữ dội này ngày
càng lan rộng. Viên cận thần thân tín của vua Thiên Khánh
là Văn Nhuệ nghe được liền báo lại cho vua hay. Vua Thiên
Khánh sợ quá, ngày đêm ăn ngủ không yên. Một hôm vua than
với Văn Nhuệ:
– Việc làm vua đây đâu phải do ta?
Chính triều đình đã kêu gọi ta hy sinh, ép ta ra làm vua
theo đòi hỏi của nhà Minh cơ mà! Nhưng giờ đây nhà Minh
đã thua, triều đình không cần đến ta nữa. Vai tuồng của
ta phải chấm dứt thôi! Ta không tiếc cái ngôi báu vì thật
sự nó đâu phải là của ta! Ta chỉ hận mình vô tội mà
phải chết lúc còn quá trẻ thế này. Ta thật chưa muốn
chết!
Viên
cận thần Văn Nhuệ ngạc nhiên:
– Bệ hạ đâu có tội gì đến nỗi
phải chết? Không làm vua nữa thì bệ hạ trở về làm dân
thôi!
Vua Thiên Khánh thở dài:
– Ngươi chưa hiểu thôi. Khi mới được
rước về làm vua ta đã mơ hồ thấy sẽ có ngày hôm nay.
Hồi ấy trong triều đã có sẵn một viên tướng tài ba Trần
Nguyên Hãn từng giữ chức Tư đồ, Thái úy, có uy tín lớn,
cũng là hậu duệ của nhà Trần, sao triều đình không chọn
ông ấy mà lại phải vất vả tìm ta? Chẳng qua vì triều
đình đã biết rõ ta là kẻ bất tài, cô đơn, cô thế, khi
không cần dùng nữa muốn loại bỏ lúc nào cũng được. Nay
mai đây người ta sẽ ép ta thoái vị. Xưa nay có mấy ông vua
đã mất ngôi mà còn sống được? Dù ông vua đó ngu si, bất
lực, không thể mưu đồ gì được, vẫn bị khử như thường.
Huống chi ta còn lành mạnh, trẻ trung, ai tin được ta sẽ
chịu ngồi yên hay không bị kẻ gian lợi dụng? Dứt khoát ta
phải chết họ mới chịu! Luật đời mà!
Văn Nhuệ rơi nước mắt:
– Thế bây giờ bệ hạ tính sao?
Vua Thiên Khánh cười chua chát:
– Còn tính toán gì nữa! Đế vương
đều có mạng cả! Dù sao ta cũng có chút hãnh diện là ta
đã đáp ứng kịp nhu cầu đòi hỏi của lịch sử dân tộc
trong một giai đoạn cần thiết.
Văn Nhuệ xúc động hạ giọng:
– Nếu bệ hạ không muốn chết, thần
xin đưa bệ hạ đi trốn. Bệ hạ muốn sang nước Chiêm không?
– Không, sang Chiêm làm gì? Nếu
ngươi giúp được hãy đưa ta trở về châu Ngọc Ma rồi tính.
Ta muốn được gặp lại cha mẹ nuôi của ta một lần nữa. Ơn
nghĩa của hai Người to lớn quá ta không thể quên được!
Gặp được hai Người rồi có chết ta cũng không ân hận.
Văn Nhuệ nghẹn ngào:
– Được rồi, bệ hạ cứ chuẩn bị
sẵn. Chúng ta phải lựa một đêm thật tối trời. Thần sẽ
sắp đặt mọi việc.
*
Vệ quốc công biết hầu hết các
tướng lãnh không ai muốn để vua Thiên Khánh tồn tại nữa.
Ngài sợ nếu có kẻ nào làm ẩu, ngài rất khó thoát
khỏi tai tiếng. Vì thế, ngài đã ra lệnh tăng cường phòng
vệ cung vua kỹ hơn. Đây là một vấn đề nhạy cảm có thể
ảnh hưởng đến uy tín của ngài. Ngài muốn tìm một cách
giải quyết hợp lý hợp tình hơn...
Nhưng rồi chuyện phải đến đã đến.
Vào một đêm trời tối như mực, vua Thiên Khánh cùng Văn
Nhuệ bí mật xuống kinh Bèo – con kinh đào ăn thông từ
thành Cổ Lộng ra sông Đáy – rồi xuôi ra biển. Những người
chèo chiếc thuyền này đều do Văn Nhuệ thuê. Văn Nhuệ đã
thật thà không hề biết Bùi Quốc Hưng đã cài đặt thuộc
hạ canh chừng vua Thiên Khánh khắp nơi.
Khoảng nửa đêm, Quốc Hưng đang ngon
giấc thì bị lính hầu đánh thức. Một gã lái đò ở kinh
Bèo xin vào báo việc tối khẩn. Gã lái đò cho Quốc Hưng
biết vua Thiên Khánh đã xuôi sông Đáy ra biển vào Nghệ An
tìm đường trở lại châu Ngọc Ma. Thế là Quốc Hưng cho mời
ngay tướng Lê Ngang – trấn thủ thành Cổ Lộng – đến bàn
việc.
– Quan
Tả bộc xạ mời bản chức đến gặp lúc khuya khoắt thế
này hẳn có việc quan trọng?
– Đúng thế, vua Thiên Khánh đã bỏ
trốn tướng quân biết chưa? Phải cho quân đuổi theo gấp mới
kịp!
Quốc
Hưng kể rõ đường đi nước bước của vua Thiên Khánh cho Lê
Ngang nghe rồi dặn:
– Việc này tướng quân phải xử trí
thật khéo léo, tế nhị mới xong! Bắt được vua Thiên Khánh
tướng quân cũng chẳng cần giải về. Làm thế nào để Vệ
quốc công khỏi mang tiếng là được.
– Thủ tiêu vua Thiên Khánh sao? Ông
ta có tội gì?
– Ông ta vô tội thật nhưng sự tồn
tại của ông ta sẽ làm cho triều đình sau này có thể ăn
ngủ không yên thì cũng coi như có tội rồi!
Lê Ngang lập tức điều động một
đội thủy quân rồi tự mình chỉ huy lên đường. Khi đội
thuyền của Lê Ngang gần tới châu Hoan thì bắt được dấu
vết của vua Thiên Khánh do mấy ngư dân ven biển cho biết.
Thế là Lê Ngang thúc hối quân sĩ ráo riết đuổi theo. Vừa
đến Ma Cảng (Nghệ An) con thuyền của vua Thiên Khánh đã
hoàn toàn bị đón đầu đón đuôi bởi đội thuyền của tướng
Lê Ngang. Vua Thiên Khánh điềm tĩnh hỏi lớn:
– Vua Thiên Khánh đây. Lê tướng quân
cần gì?
–
Giờ đây không còn vua tôi gì nữa. Ông có công gì cho nước
mà lại được ăn trên ngồi trước thiên hạ? Ông phải tự
biết thân phận chứ!
– Đúng, ta tự biết ta không có công
trạng gì với nước nên ta muốn trả ngôi báu lại cho người
thật sự có công lao là Bình định vương Lê Lợi. Vì thế ta
định trở lại cuộc sống dân dã nên đã ra đi chứ không
phải ta trốn tránh ai!
– Không được! Ngày nào ông còn
sống bọn xấu còn có thể lợi dụng ông với danh nghĩa
“Phù Trần” để làm bậy! Ông nhất định phải biến mất
khỏi cuộc đời này! Ông hiểu chưa?
– Thế à? Cũng được! Ta sẽ biến
mất cho các ngươi yên lòng! Nhưng trước khi biến mất ta
phải nói cho hết ý đã. Quân sĩ hãy lặng nghe đây: Ta vốn
chưa bao giờ thèm muốn phú quí. Ta đã trốn lên tận chốn
rừng xanh núi thẳm an phận kiếm sống qua ngày. Chính
triều đình đã cho người lên tận nơi nài ép ta về làm vua
chứ ta có giành giựt của ai đâu? Triều đình khuyên ta hy
sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc, để giảm thiểu xương máu
của quân dân! Vì nghĩa lớn, ta phải nghe lời. Trước sau ta
nào có chút tội tình gì? Thế sao bây giờ các ngươi lại
tàn nhẫn bắt ta phải chết? Ta nguyện xin trời đất, mai
sau con cháu các ngươi cũng sẽ phải chết oan ức như thế
này!
Nói
xong vua Thiên Khánh hét lên một tiếng rồi phóng mình
xuống biển. Viên cận thần Văn Nhuệ cũng phóng theo vua
luôn. Tướng Lê Ngang sai một số lính thủy lặn giỏi nhảy
xuống nước tìm kiếm một hồi lấy lệ rồi dẫn mấy gã
chèo thuyền của vua Thiên Khánh về làm chứng.
Hai hôm sau thì đám dân chài ở Ma
Cảng vớt được xác vua Thiên Khánh. Vệ quốc công liền chỉ
thị triều đình đưa xác vua về an táng với đầy đủ nghi
lễ dành cho một vị quốc vương.
*
Sau chuyến đi thăm Trần Cảo ở núi
Không Lộ về, vợ chồng Huấn đều rất hoang mang lo lắng.
Cả hai đều có một nhận xét chung: gương mặt của “ông vua
trẻ” đã hoàn toàn biến mất vẻ hồn nhiên tươi vui ngày
còn chốn núi rừng. Họ không làm sao quên được cái nụ
cười gượng gạo đau khổ của Cảo khi gặp lại họ. Nếu
không có nỗi đau khổ, chán chường của nội tâm Cảo đâu
đến nỗi ra thế? Cả hai đều rất hối hận và cảm thương
cho số phận của Cảo. Người cảm thấy hối hận ray rứt
nhất chính là Thúy Liên. Nàng tự nghĩ chính mình đã mù
quáng trước miếng mồi công danh phú quí, đã đẩy đứa con
nuôi hiếu hạnh thân yêu của nàng lâm vào cái cảnh dở
khóc dở cười hiện tại...
Một tháng, rồi hai tháng đã trôi
qua, vẫn chưa thấy người của vua Thiên Khánh đưa tin về
việc vua đã tính lập hoàng hậu hay chưa. Bên “họ nhà
gái” vẫn cho người đến hỏi thăm nhiều lần khiến vợ
chồng Huấn càng áy náy.
Qua một thời gian đợi chờ, vợ
chồng Huấn nóng ruột quá lại quyết định đi thăm vua Thiên
Khánh. Nhưng vừa chuẩn bị lên đường thì Thúy Liên lại
bất ngờ ngã bệnh. Cơn bệnh không kịch liệt lắm, chỉ
váng đầu, chóng mặt, người uể oải ưa nằm và hay nói mê
sảng. Nhiều đêm nàng đã thức dậy khóc lóc than thở tự
trách mình đã làm khổ đứa con thân yêu... Huấn đã tìm
đủ cách lo việc thang thuốc cho vợ, rước cả thầy người
Kinh lẫn thầy người thiểu số, kể cả thầy Miêu Tú về
chữa nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm. Thầy Miêu Tú khuyên
Huấn:
– Tôi
nghĩ bệnh của bà nhà là tâm bệnh, khó chữa lắm. Có lẽ
bà đang bị áp lực bởi một nỗi uẩn ức nào đó. Chỉ cần
hóa giải được nỗi uẩn ức tự nhiên sẽ hết bệnh. Ông thử
tìm xem bà nhà đã gặp vấn đề gì? Tìm ra vấn đề mới hy
vọng chữa được.
Tất nhiên Huấn đã hiểu nguyên nhân.
Nhưng biết làm sao đây? Nếu tìm cách báo cho vua Thiên
Khánh biết không chừng lại làm cho vua khổ tâm hơn? Vì
nỗi lo ấy, Huấn chỉ còn biết hết mình lo chạy chữa cho
vợ thôi...
Rồi cơn bệnh của Thúy Liên đột nhiên trở nặng. Cầm cự
với cơn bệnh được chừng ba tháng, Thúy Liên tự biết sức
mình không qua khỏi nên đã căn dặn chồng:
– Chính vì tôi mà Cảo phải khổ,
tôi hối hận lắm. Sau khi tôi mất, chôn cất tôi xong mình
phải đi thăm Cảo ngay. Cái nét đau khổ trên gương mặt Cảo
ngày mình đến thăm giờ vẫn còn in đậm trong đầu tôi. Tôi
linh cảm số phận của Cảo cũng chẳng sáng sủa gì. Mình
nhớ nghe lời tôi nhé!
– Được rồi, tôi nhớ. Nhưng không sao
đâu, mình đừng nghĩ vẩn vơ thêm hại sức vô ích.
– Tôi biết sức mình mà! Gắng nhớ
lời tôi dặn nhé!
Thúy Liên đã nghĩ không sai. Hôm sau
nàng qua đời.
*
Dù có lời dặn của vợ, khi chôn
cất vợ xong Huấn vẫn chưa đi thăm Trần Cảo, chàng không
nỡ để bàn thờ của vợ chịu cảnh hoang lạnh trong thời
gian nàng mới mất. Dùng dằng mãi đến khi làm lễ “bách
nhật” cho vợ xong Huấn mới lên đường. Khi hỏi thăm phương
tiện để đi Không Lộ, Huấn mới biết tin triều đình đã
dời về Cổ Lộng. Thế là Huấn phải đổi hướng đi.
Trong cuộc hành trình đến thành
Cổ Lộng, Huấn đã quá giang trên một chuyến xe ngựa chở
thuê khách và hàng hóa qua một đoạn đường dài. Cùng
ngồi với mấy vị khách đồng hành, Huấn bỗng giật nảy
mình khi nghe bọn họ kháo chuyện:
– Thật quá tội nghiệp cho ông vua
Thiên Khánh đã phải chết một cách oan ức, thê thảm.
– Nhưng ông ấy cũng còn có phước
lắm. Bình định vương đã cho vớt xác về chôn cất đàng
hoàng với đủ nghi lễ của một ông vua đấy...
– Ông ta tội gì? Chắc tại cái ngôi
báu oan nghiệt thôi!
Huấn nghe mà rụng rời cả chân tay.
Chàng xích lại gần hỏi họ với giọng cà lăm:
– Chuyện mấy ông kể có thật sao?
Vua Thiên Khánh vì sao mà phải chết và chết ở đâu vậy?
Mấy người kia thấy Huấn có vẻ
hoảng hốt đều đâm lo ngại im tiếng hết. Huấn phải hỏi
lại:
– Xin
các ông cho tôi biết rõ chuyện hơn được không? Tôi rất cần
biết!
Một
người ái ngại nhìn Huấn rồi lên tiếng:
–Ông bảo ông cần biết chắc hẳn ông
có liên can gì đến vụ này? Thật ra chúng tôi cũng mới
nghe qua lời bàn tán của dân chúng thôi chứ không rõ lắm.
Nghe nói vua Thiên Khánh đã trốn khỏi thành Cổ Lộng đi ra
biển rồi bị quân triều đình vây bắt ở Ma Cảng. Nhà vua
đã trầm mình ở đó. Nếu cần biết rõ, ông nên đến Ma
Cảng hỏi người dân địa phương hy vọng sẽ được nghe chuyện
chính xác hơn.
Mấy người kia cũng bổ túc cho
Huấn nghe mấy lời đối thoại giữa vua Thiên Khánh với
tướng Lê Ngang...
Nghe xong Huấn bất giác kêu lớn
“Trời ơi!” một tiếng rồi đổ vật xuống lòng xe. Nỗi đau
vợ qua đời chưa nguôi Huấn lại gánh tiếp nỗi đau mất mát
đứa con nuôi thân yêu và cũng là một người bạn tri kỷ
nữa!
Người
xà ích phải ngừng xe để mấy người khách đồng hành cứu
Huấn tỉnh lại xong mới đi tiếp. Khi tới trạm, Huấn không
tiếp tục đi Cổ Lộng nữa mà tìm đường đi về Ma Cảng.
Trên đường đi, Huấn đã cố tình
tìm hiểu qua dư luận về cái chết của vua Thiên Khánh.
Càng tới gần Ma Cảng, dư luận càng dồi dào nhưng cũng
chẳng có gì mới lạ hơn những điều Huấn đã nghe được
trước đây.
Thế rồi Huấn sắm lễ vật và thuê một con thuyền ra Ma
Cảng, tự mình tế vua Thiên Khánh. Tế xong, Huấn cởi
những đồ tư trang trong người cùng với số bạc còn lại
trao hết cho người chèo đò và nói “Những thứ này tôi
không dùng nữa, xin biếu ông”. Người chèo thuyền còn đang
ngơ ngác chưa biết xử trí ra sao Huấn đã nói lớn:
“Phan Cảo con ơi! Cha con ta đã coi
nhau như bạn tri kỷ. Con đã thề suốt đời nhất định không
xa rời cha. Nay chỉ vì ‘cái ngôi báu oan nghiệt’ mà con
đã phải tự trầm. Con đã vì nghĩa lớn mà hy sinh sao cha
lại không thể vì người tri kỷ mà hy sinh? Con không thể
theo cha được thì cha xin theo con để con khỏi lỗi thề!”.
Nói xong Huấn cũng phóng mình
xuống biển.
Ngô Viết Trọng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Ngô Viết Trọng chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, May 7,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang