Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tạp
ghi
Chủ đề:
Chính trị Thế giới
Tác giả:
Phan Nhật Nam
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Tổng thống Ngô Đình Diệm trong buổi lễ
Quốc khánh VNCH
(ảnh: Keystone/Getty
Images)
Từ Hoa
Kỳ... dị! – Bài một
Dẫn Nhập: Trước khi bắt đầu bài viết
cần nói rõ chi tiết, chúng tôi thuộc thành phần quân nhân Nhảy dù
là đơn vị có hoạt động phối hợp trực tiếp trước nhất với hệ thống
cố vấn Mỹ (đến cấp đại đội) từ những năm đầu của thập niên 1960,
trước khi lực lượng bộ chiến Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng, Tháng Ba 1965.
Mối liên quan này càng thêm cụ thể với tư thế cá nhân là thành
viên Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương, cơ quan quân sự duy nhất
của QLVNCH/CPVNCH vẫn duy trì liên lạc với Văn Phòng Tùy Viên
Quân Sự Mỹ (DAO) tại Căn cứ Phi trường Tân Sơn Nhất cho đến sáng
29 Tháng Tư 1975.
Sau thời gian đi tù cộng sản
(1975–1989), chung với thành phần H.O, chúng tôi đã đến Mỹ từ đầu
thập niên 1990. Những chi tiết này cần được kể ra nhằm để chứng
thật, bản thân cá nhân đã có những liên quan trực tiếp, gián
tiếp, xa, gần với người/việc của quân đội/chính quyền/xã hội Mỹ
từ hơn nửa thế kỷ, cụ thể từ 1993, lần bắt đầu sống trên đất Mỹ
với tư cách là Công Dân Mỹ Gốc Việt (1999) cho đến hôm nay – Dài
hơn thời đoạn sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa (26 Tháng Mười
1955 – 30 Tháng Tư 1975) đến hơn 10 năm.
Nhưng nay, sau biến cố 15 Tháng Tám
2021 xảy ra ở Kabul, Afghanistan đành phải thú nhận một điều khó
tin nhưng rất hiện thực: Vẫn không thể hiểu được (một cách chính
xác) Người Thật/Việc Thật của Nước Mỹ là gì? Ngoài những “Bài
Học” được kể ra sau đây. Những “Bài Học” về “Kỹ Thuật Giết
Người–Giết Con Người/Giết một Dân tộc” – từ của những “Đại Sát
Nhân” giấu mặt, hay ngang nhiên công khai, hiện diện suốt thế kỷ
20, và trong hiện tại, khắp cùng quả đất, giữa chúng ta. Những
“Đại Sát Nhân” điển hình, cụ thể ở Washington, D.C., ở Mạc Tư
Khoa, ở Bắc Kinh và, tất nhiên đầy dẫy nơi Hà Nội – Bắc Việt Nam.
1. Bài Học Thứ Nhất
Ngày 8 Tháng Năm 1957, Tổng thống VNCH
Ngô Đình Điệm chính thức thăm viếng Mỹ. Tổng thống Eisenhower và
Ngoại trưởng Foster Dulles đón tại cầu thang máy bay với lời chúc
tụng nồng nhiệt nhất đối với một nguyên thủ quốc gia, lại là một
nước nhỏ xa xôi vừa mới thành hình ở Đông–Nam Châu Á, ngày 26
Tháng Mười 1955. Báo chí Mỹ hòa nhịp qua tờ The Washington Post,
dành bốn trang để đăng hình và bài viết về người lãnh đạo VNCH
với hàng tít lớn “Diệm–Symbol of Free New Asia/Biểu Tượng của Một
Châu Á Mới”; tờ The Washington Evening Star chạy tiêu đề:
“Welcome to a Champion/Hoan Hô Nhà Vô Địch” và mô tả Tổng thống
Diệm như một “chiến sĩ dũng cảm và có năng lực nhất chống chủ
nghĩa cộng sản”. Báo The New York Times đăng lời ca tụng: “Cuộc
viếng thăm (của Tổng thống Diệm) là một bước tiến cho những
nguyên lý của tự do và dân chủ ở Châu Á”. Báo The Boston Globe
tán dương thêm: “Con Người Thép của Việt Nam”.
Tổng thống
Dwight D Eisenhower và Ngoại trưởng John Foster Dulles
đón Tổng thống Ngô Đình Diệm tại Phi trường Quốc gia, Washington,
D.C.,
ngày 8 Tháng Năm 1957
(ảnh: PhotoQuest/Getty Images)
Nhưng những lời tán dương trên báo chí,
từ giới lãnh đạo Mỹ, của chính quyền Tổng thống Eisenhower (Đảng
Cộng hòa) qua thập niên 1960 hoàn toàn biến mất. Thật ra chỉ ba
năm kể từ 1957, bắt đầu với chính quyền của Tổng thống Dân chủ
John Kennedy (1961–1963), thế hệ lãnh đạo mới của Mỹ sau lần Thế
Chiến Thứ Hai chấm dứt, 1945, mở đầu Chiến Tranh Lạnh giữa hai
khối Tư Bản–Cộng Sản (1960–1989). Tháng Tám 1963, Tổng thống
Kennedy cử Đại sứ Henry Cabot Lodge (1902–1985); thượng nghị
sĩ/Cộng hòa, tiểu bang Massachussetts) đến Sài Gòn thay thế Đại
sứ Frederick Nolting, một người từ lâu yểm trợ chế độ Tổng thống
Diệm.
Không
chỉ thay thế ông Nolting trong nhiệm vụ hành chính–ngoại giao
thông thường, Đại sứ Lodge đến Sài Gòn với một nhiệm vụ bí mật
quan trọng hơn hẳn. Vừa đến Sài Gòn, ông Lodge đích thân mời
David Halberstam, Malcolm Wilde Browne, Neil Sheehan – nhóm ký
giả của Hãng thông tấn AP, Truyền hình CBS, báo New York Times đã
có mặt từ lâu tại Sài Gòn – đến ăn cơm, tiếp xúc thân mật riêng
tư để trao đổi câu chuyện, điển hình những lời “cố vấn” như sau
của Sheehan về... “chế độ; khủng hoảng Phật giáo (xảy ra từ 8
Tháng Năm 1963 tại Huế); cuộc chiến...”.
Sheehan cho “ý kiến/cố vấn”: Tựu trung,
chế độ Ngô Đình đã bị ghét bỏ, điên cuồng không cai trị được đất
nước. (Nếu) Diệm (không có chức vụ, danh vị đi trước tộc danh) và
gia đình tiếp tục cầm quyền thì cuộc chiến tất sẽ thất bại. (Nếu)
chế độ họ Ngô được thay thế bởi một chế độ quân nhân thì không có
gì bảo đảm các ông tướng sẽ hành xử khá hơn, nhưng hy vọng là họ
sẽ có thể. Sheehan “cố vấn” tiếp: “Với họ Ngô Đình nhìn về tương
lai thì chỉ có thất bại!” (Neil Sheehan, A Bright Shining Lie.
New York, Random House. 1988. Page 359). (Lưu ý: Neil Sheehan
sinh 1936, khi “cố vấn” cho Đại sứ Logde quyết định vận mệnh dân
tộc/chiến tranh Việt Nam thì chỉ mới 27 tuổi – chú thích của tác
giả PNN).
Ngày 13 Tháng Năm 1957: Tổng thống Ngô
Đình Diệm chào đám đông
người dân Mỹ khi
đi cùng công sứ Richard Patterson và viên chức Bộ Ngoại giao
Hoa Kỳ Wiley T. Buchanan trên đường phố Broadway, New York City
(ảnh: Carl T. Gossett Jr/New York Times Co./Getty Images)
***
Không phải vô cớ và vô tình, Đại sứ Lodge chọn Sheehan, Halberstam... để mời ăn khi tới Sài Gòn mà vì danh tính, bài báo của những người này đã được William Averell Harriman (1981–1986); nhà ngoại giao được đánh giá cao/cao nhất của chính giới thuộc đảng Dân chủ) để ý đến từ khi nhân sự này giữ chức Giám đốc Đông Nam Á Sự Vụ, tiếp theo chức Phụ tá Ngoại trưởng về ngoại giao, nhường ghế giám đốc lại cho Roger Hilsman (Ibd, Pg. 359). Phải nói rõ thêm: Hệ thống nhân sự Harriman cùng Roger Hilsman từ lâu vốn mang mối thâm thù chính trị quyết liệt đối với Tổng thống Diệm khi nhà lãnh đạo VNCH cực lực phản đối Hiệp Định Trung Lập Lào 1962 do Harriman chủ trương (nhằm đạt thỏa thuận với Liên Xô để ký kết về Hiệp Ước Vũ Khí Hạt Nhân). Giới quan sát quốc tế không vô lý gọi Đường mòn HCM trên đất Lào là Harriman Freeway!
Đại sứ Henry
Cabot Lodge Jr. trong một cuộc gặp giới chức VNCH
vào những ngày cuối cùng của nhiệm kỳ, Tháng Bảy 1964
(ảnh: Nguyen Van Duc/Michael Ochs Archives/Getty Images)
Tóm lại “quyết định lật đổ chế độ Đệ
Nhất Cộng hòa–Tổng thống Ngô Đình Diệm” hoàn toàn (có trước/bên
ngoài/rất xa) so với sự kiện tại Đài Phát thanh Huế (8 Tháng Năm
1963); Thượng Tọa Thích Quảng Đức tự thiêu (11 Tháng Sáu 1963)
tại Sài Gòn... Tất cả chỉ là giọt nước tràn chiếc ly (sẽ) bị đập
vỡ. Tập đoàn tướng lãnh miền Nam giáng xuống chiếc búa quyết định
tại Ngày 1 Tháng Mười Một 1963. Cần nói lại một lần: Tín hiệu bật
đèn xanh để Đại sứ Lodge đồng thuận cho cá nhân/nhóm cá nhân
tướng lãnh hạ sát Tổng thống Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu là Công
Điện số 243 do Roger Hilsman soạn thảo, gởi từ Bộ Ngoại giao Hoa
Kỳ đến Đại sứ Henry Cabot Lodge, Jr tại Sài Gòn trong ngày 24
Tháng Tám 1963.
Công điện số 243 quyết định vận mệnh
người lãnh đạo miền Nam, đưa cuộc chiến vào một ngã rẽ tai họa
không do tổng thống, phó tổng thống, bộ trưởng ngoại giao, kể cả
phụ tá ngoại trưởng Hoa Kỳ quyết định, nhưng do Roger Hilsman đơn
độc thực hiện lúc 44 tuổi (sinh 1919–2014 – chú thích của tác giả
PNN). Công điện 243 tuyên cáo Hoa Thịnh Đốn không muốn để Nhu (cố
vấn Nhu, bào đệ Tổng thống Diệm, chỉ có gọi tộc danh Nhu trong
điện văn – PNN) ở vị thế quyền lực và ra lệnh Đại sứ Logde phải
buộc Diệm (Chỉ nêu tộc danh Diệm – PNN) phải cất bỏ người em.
Công điện nói rõ, nếu Diệm từ chối, người Mỹ (Là những ai? – PNN)
sẽ khai triển khả năng thay thế (người) lãnh đạo ở Nam Việt Nam.
Thượng nghị
sĩ Edward M. Kennedy cùng phu nhân gặp
Bà Ngô Đình Nhu tại Belgrade, Yugoslavia nhân một sự kiện quốc tế
(ảnh: Getty Images)
***
Bài học oan nghiệt đẫm máu phần đầu tại
Sài Gòn trong ngày 2 Tháng Mười Một 1963 với thi hài hai anh em
Tổng thống Diệm bị đâm vằm nát mặt chắc chắn vượt khỏi “dự
tính/mong ước” của những đối thủ chính trị của hai ông cho dù đấy
là HCM ở Hà Nội hay Trí Quang ở Sài Gòn?! Bài học cũng không đơn
giản là chỉ thanh toán người lãnh đạo miền Nam để thay thế bởi
một thành phần cầm quyền mới. Hoàn toàn không là như vậy. Máu đổ
từ Sài Gòn tràn qua nước Mỹ, loang rộng, thấm sâu oan nghiệt hơn,
khủng khiếp hơn gấp bội phần. Máu thấm tới hôm nay. Qua thế kỷ
hai mươi–mốt.
Trở lại năm 1963, chỉ trong Tháng Mười Một, hai–mươi ngày sau –
Tổng thống Kennedy, nhà lãnh đạo trẻ nhất (sinh 1917; nhậm chức
lúc 44 tuổi – PNN), được yêu mến nhất của 35 đời tổng thống Mỹ,
kể tới năm 1961, cũng đúng tại hôm nay. Vị tổng thống đã tạo nên
huyền thoại lẫn thực tế về vai trò lãnh đạo của tư thế cá nhân
lẫn nước Mỹ trên toàn thế giới. Tổng thống Kennedy và Đệ nhất phu
nhân Jacky Kennedy đã là mẫu mực tượng trưng cao nhất cho nước Mỹ
trước nhân loại toàn cầu ở thập niên 1960. Tổng thống Charles de
Gaulle, vị anh hùng của Pháp (chỉ sau Hoàng Đế Napoléon) dẫu là
người “kỵ Mỹ” cũng phải trầm trồ tán dương lần Tổng thống Kennedy
đến thăm Pháp, ngày 1 Tháng Sáu 1961.
Vị Tổng thống Mỹ huyền thoại kể trên,
chỉ sau 20 ngày của cái chết của Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm,
đã bị bắn vỡ đầu tại Dallas, Texas trong ngày 22 Tháng Mười Một
1963. Tổng thống Kennedy bị sát hại “bất ngờ/nhanh chóng/vô lý”
đến nỗi dư luận phản chiến, báo chí thiên tả CHƯA KỊP TẠO NÊN BẤT
CỨ LÝ DO GÌ ĐỂ GIẢI THÍCH CHO VỤ MƯU SÁT! Không thể kết án là
“gia đình trị” (dẫu người em, Robert Kennedy là Bộ trưởng Tư
pháp; người em út Edward Kenndy là thượng nghị sĩ); hoặc “đàn áp
tôn giáo” (khác) dẫu là Tổng thống Mỹ đầu tiên theo Đạo Công
Giáo; và càng không thể là do “dự tính thỏa hiệp với cộng sản”
qua thái độ quyết liệt trong vụ Thủ tướng Liên Xô Khruschev dự
tính thiết trí hỏa tiễn tầm ngắn ở Cuba, 1962.
Vậy thì tại sao? Tại sao? Có nhiều lý
do, nhiều nguồn giải thích về vụ mưu sát Tổng thống Kennedy,
không thể kể ra trong bài viết ngắn này. Người viết CHỈ đúc kết
LÝ DO CỐT LÕI QUA THỰC TẾ LỊCH SỬ ĐƯỢC SOI RẠNG TỪ HƠN NỬA
KỶ/CÀNG ĐÚNG VỚI DIỄN TIẾN VÀ HẬU QUẢ CHIẾN TRANH VIỆT NAM, KẾT
THÚC TRONG NGÀY 30 THÁNG TƯ 1975. CŨNG ĐÚNG/CÀNG ĐÚNG VỚI NƯỚC MỸ
HIỆN TẠI, 2021.
Nguyên nhân ấy là: Trong lần gặp thượng
nghị sĩ Mike Mansfield (mùa Xuân 1963) với tư cách riêng, Tổng
thống Kennedy nói rõ: “Tôi chỉ có thể rút ra khỏi Việt Nam trong
năm 1965 – Sau khi tôi tái đắc cử (sau bầu cử tổng thống 1964)”
(Seymour M. Hersh, The Dark Side of Camelot. Boston New York,
Little Brown and Company. 1997. Page 430). Đoạn sau của trang 430
này, Tổng thống Kennedy nói rõ hơn với người bạn thân, O’
Donnell: “Vào năm 1965 (sau khi tái đắc cử/và rút quân khỏi Việt
Nam – PNN), tôi sẽ trở nên là một tổng thống bị ghét bỏ nhất
trong lịch sử. Tôi sẽ bị kết án khắp nơi là ‘thỏa hiệp với cộng
sản’. Nhưng tôi bất cần (vào năm 1965/sau khi đã tái đắc cử).”
Phần cuối trang 430, nói rõ thêm về Tổng thống Diệm: Ngô Đình
Diệm bị giết là vì ông ấy muốn thực hiện một điều gì (tương tự
như cuộc rút quân dự trù 1965 của Tổng thống Kenndy) từ 1963 –
Đưa Quân Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Vâng, chỉ là: “ĐỔ QUÂN VÀO / RÚT QUÂN
RA KHỎI VIỆT NAM” chứ không có gì khác! Khác chăng là Tổng thống
VNCH Ngô Đình Diệm muốn thực hiện từ 1963 – Khác với Tổng
thống/Liên Bang Mỹ Kennedy (dự trù) thực hiện vào năm 1965, sau
lần tái đắc cử, 1964.
Tóm lại, hôm nay 58 năm sau thảm kịch
của năm 1963, chúng ta có thể kết luận chắc một điều: Do dự tính
trước, sau cách nhau chỉ hơn một năm (1963/1965), hai vị tổng
thống được đánh giá cao/cao nhất đã đồng bị thảm sát tại một thời
hạn gấp rút: Chỉ trong Tháng Mười Một của năm 1963! Tại sao?
Chúng ta sẽ nói tiếp qua Bài Học Thứ
Hai với một thời điểm đã gióng trước, 1965...
Phan Nhật Nam
19 tháng 8, 2021
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: phong cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Hùng Đỗ chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu,
September 3, 2021
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang