Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Thời sự Chính trị Hải ngoại
Chủ đề:
Chống quân Tầu
Tác giả: Phan Văn Song
Bấm vào đây để in ra giấy (PDF)
Tháng
qua đến thăm ông bạn già Nguyễn Văn Trần, nhìn thấy trên bàn có
cuốn sách tựa đề Lược Sử Việt Nam Chống Trung Hoa Xâm Lăng của
Ông Huỳnh Thanh Nhơn bèn xin mượn đọc.
Sau khi đã đọc kỹ,
chẳng những chúng tôi có ý kiến, mà chúng tôi xin có đôi dòng
cảm tạ tác giả Huỳnh Thanh Nhơn!
Sách khá dầy, 443 trang,
soạn thảo rất công phu. Nhưng vốn là một nhà nghiên cứu sử khá
lão luyện, nên đã lôi cuốn người đọc vào dòng sử Việt Nam ngay.
Cũng như tác giả đã cẩn thận mở lòng mình trong những lời Trần
Tình, ông Huỳnh Thanh Nhơn nhấn mạnh rằng:
“Ai ai mỗi
người Việt chúng ta đều ít nhiều gì thuộc sử nước nhà. Ai ai mỗi
người Việt chúng ta đều biết ‘chọn cho mình những vị anh hùng,
liệt nữ dân tộc đã xả thân cứu nước cứu dân’. Ai ai mỗi chúng ta
đều biết lên án và tránh xa những kẻ buôn dân bán nước, dứt tình
ruột thịt, quên nghĩa đồng bào. Nhưng mỗi người vẫn có thể nhận
định khác nhau về một sự kiện lịch sử nước nhà, dù rằng bản chất
nguyên thủy của sự kiện vẫn đồng nhứt không thay đổi.”
Và
tác gỉả kết luận rằng “chính cái nhìn và đánh giá không giống
nhau đó đã xác định vị trí của họ trong lịch sử”.
Nói như
vậy, quan niệm cho rằng đã là một người viết sử, phải có một cái
nhìn khách quan là một quan
niệm sai. Người viết sử, tác giả, nói rõ, và nói rất rõ
ràng là người viết (tức là tác giả) có ý định “truyền bá sự suy
nghĩ của mình” (sic) đến người đọc.
Chúng tôi
nghĩ rằng sau khi đọc cuốn sách của tác giả Huỳnh Thanh Nhơn,
chúng ta chia sẻ được một phần lớn tâm trạng lo âu của tác giả
là phải nhận rõ ràng là người láng giềng phương Bắc của chúng
ta, lúc nào trong suốt quá trình lịch sử của chúng ta là một tên
Đại Xâm Lược.
1. Trung Hoa luôn luôn là một Đại Xâm Lược
Chúng
tôi xin viết hoa để không bao giờ quên, và lịch sử Việt Nam là
một xâu chuổi dài họp bởi những mắc xích: hết thời kỳ đất nước
bị phương Bắc xâm lăng, rồi đến thời kỳ chống xâm lăng.
Dĩ nhiên, lịch sử quốc gia nào cũng gồm có những giai đoạn chống
xâm lăng để giữ nước, cũng có những giai đoạn bành trướng sang
những quốc gia, những dân tộc yếu hơn để mở mang bờ cõi. Mạnh
được yếu thua là chuyện thường tình. Cá lớn nuốt cá bé là luật
trời đất. Một dân tộc muốn sanh tồn phải vận dụng mưu trí, thông
minh chánh trị, khả năng quân sự để chống cự, be bờ, để không bị
lấn áp, đàn áp, bành trướng để mở mang bờ cõi, không gian sanh
tồn. Lịch sử Việt Nam cũng vậy. Vì họa phương Bắc, nên gần như
bắt buộc, dân tộc ta phải bành trướng về phía Nam. Mũi Cà Mau là
tận cùng phía Nam của vùng đất, hết đường bành trướng xuôi Nam.
Dải Trường Sơn hiểm trở, làm hàng rào, chận đường tiến về phía
Tây. Chỉ còn đường lên Miên, thế nhưng, chính thế lực Pháp đã
cứu đất nước Cao Mên khỏi sức chinh phục của dân tộc Việt. Nhưng
nhìn chung, mặc dù nếu chỉ thuần túy quân sự, dân tộc Việt đánh
nhau thật sự với quân Tàu chỉ có trên dưới chưa đầy mươi lần.
Nhưng với một ngàn năm đô hộ, với một chương trình Hán hóa có hệ
thống, từ văn hóa, xóa bỏ chữ viết, xóa bỏ tập tục, phong tục,
lễ nghi… mà dân tộc Việt ta vẫn giữ được Việt tánh, dân tộc
tánh, là một sự kiện hiếm có trên lịch sử thế giới, đáng ca
ngợi!
Thật vậy, trước những đòn tấn công của những chiến
dịch hán hóa ta từ tập tục, lễ nghĩa đến nền văn hóa Tàu, điển
hình với những Tích Quang –Xi Guang, Thái thú Giao Chỉ từ năm 1
SDL đến 25 chẳng hạn, đã có đường lối chánh trị là hán
hóa dân Lạc Việt ta bằng cách khuyến khích đem dân từ bên Tàu
qua: cho dân Tàu di dân bằng động viên dân tàu đi kiếm
đất canh tác, đi buôn bán, chấp nhận cả dân phản loạn
qua đất Việt trốn luật pháp tra lùng; chấp nhận cả dân
Tàu bị đi đày, chấp nhận cả những tỵ nạn chánh
trị hoặc kinh tế để dần dần hán hóa đất Lạc Việt. Riêng
phần đối với các quan chức Lạc Việt, thuần hóa, sử dụng, mua
chuộc. Chỉ có một tướng Lạc là Tây Vũ dám nổi dậy, nên đã bị
giết chết. Tích Quang, vì không nhìn nhận Vương Mãng - Wang Mang
đã cướp ngôi nhà Hán, để trở thành vị Hoàng Đế đầu tiên dùng
Khổng Giáo đề cai trị (9-23 SDL) nên Tích Quang đã mở cửa Giao
Châu tiếp đón các quan chức và các văn hào, nhơn sĩ nhà Hán
không phục Wang Mang tỵ nạn, mang văn hóa Tàu sang đất Việt.
Tích Quang và sau đó Nhâm Diên –Ren Yan (29-33) cùng nhau Hán
hóa đất Giao Châu, từ phong tục, lễ lạc buộc dân Việt làm lễ
cưới theo phong tục Tàu) cho đến canh tác cấy cày
[*]
([*]
Theo H. Maspero et E. Malas Histoires et institutions dev la
Chine ancienne Paris P.U.F 1967 page 68 ; H. Maspero
“L’expédition de Ma Yuan” BEFEO XVIII n°3 page 11 ; Revue
“Annam” VII 1a, Sainson p316, Cương Mục tiên biên II, 9a).
Dĩ nhiên, giữa những cuộc chiến chống xâm lăng vẫn có những
giai đoạn xây dựng và gìn giữ đất nước, vẫn có những giai đoạn
“nghỉ ngơi giữa hai cuộc xâm lăng” của láng giềng phương Bắc.
Nhưng trong những thời gian nghỉ ngơi xây dựng ấy, các Triều
đình Đại Việt vẫn luôn luôn cảnh giác, tuy chung sống hòa bình,
nhưng vẫn “giữ kẽ” với phương Bắc, tuy thắng trận, nhưng vẫn
thực tế biết mình yếu. Các
triều đại tổ tiên ta, không điên rồ như triều đại cộng sản Việt
Nam, nướng dân, tàn phá đất đai, quê hương để thực hiện cho được
mộng nhuộm đỏ Việt Nam theo chỉ thị của Vương triều cộng sản
quốc tế Kremlin, nói láo là chống Mỹ cứu Nước nướng trên 1 triệu
đồng bào, phần lớn là tuổi trẻ, thanh xuân trai tráng, sẵn sàng
dìm đất nước miền Bắc trong tăm tối lạc hậu, trong suốt 20 năm
từ 1954 đến 1975, bắt dân ăn cơm độn khoai, dùng phân người làm
phân bón, dùng sức người thế máy cày và trâu bò (sức người sỏi
đá cũng thành cơm)!
2. Não trạng cùng Văn hóa thần phục Tàu:
Các Vua Đại Việt, tổ tiên ta, lúc nào cũng cho mình là khéo
léo, cũng cho mình là biết ngoại giao, nhịn nhục, đi hàng dưới,
triều cống, thần phục Bắc triều. Nhưng khốn nỗi, vì lúc nào cũng
triều cống, vì lúc nào cũng “nói” thần phục, vì “nhịn voi chẳng
xấu mặt nào”, nên Bắc phương không nể mặt, hễ có dịp, là Bắc
phương tìm cách ăn hiếp. Triều đình Tàu nào, thời đại nào, cũng
có một anh Vua Tàu kiếm chuyện đánh Việt Nam, đòi chinh phục
Việt Nam. Nhưng, phần lớn
cũng do cái não trạng chung chung của Việt Nam, não trạng “rất
đồ Nho” lúc nào cũng
Khổng,
cũng Mạnh,
mở miệng ra, là nói toàn chuyện điển tích bên Tàu. Những đại văn
hào Việt Nam, những án văn bất hũ của Việt Nam nổi tiếng từ Kim
Vân Kiều, qua đến Chinh Phụ Ngâm, hay Cung Oán Ngâm Khúc, Nhị Độ
Mai, hoặc Phan Trần đều được dịch hay lấy từ truyện Tàu.
Các Cụ Nguyễn Du, Đặng Trần Côn đều
không có sáng kiến tự nghĩ ra một câu chuyện đặc biệt Đại Việt
với những điển tích, những địa danh địa lý thuần túy đất Việt ta.
Làm sao người Tàu không nghĩ rằng người Việt Nam ta là một người
anh em gốc Tàu đi lạc được? Và nay phải đem về lại quê cha đất
tổ?
Chỉ trừ một thời gian rất ngắn, thời gian vừa lấy lại
nền Độc lập sau 1000 năm tăm tối nô lệ, từ Nhà Đinh, Nhà Lý, đến
nhà Trần là lấy Phật Giáo làm nền tảng quản trị dân.
Tất cả những thời đại sau, vẫn vướng víu đến Nho Giáo. Kể cả nhà
Lê, quân Minh đô hộ ta trên 10 năm, tàn ác như thế, diệt dân ta
như thế, và khốn nạn hơn, diệt văn hóa ta bằng đốt sách Việt Nam
ta, lấy kho tàng văn hóa sách vở Việt ta để đem về Tàu, thế mà
khi Vua Lê thành công lên cầm quyền, vẫn dùng Nho giáo
và Hán Văn để quản trị đất nước! Đau đớn quá! Những sai
lầm ấy chúng ta đang trả ngày nay. Một đất nước mà nhà cầm
quyền, triều đình, quan chức viết chữ, nói người dân không hiểu.
Tuy là âm Việt đấy nhưng người dân vẫn không hiểu. Nước Việt Nam
ta phát triển sanh hoạt với hai ngôn ngữ khác nhau: tiếng Việt
quan chức, tiếng Việt học hành, trí thức –Hán Việt và tiếng Việt
dân gian. Do đó,
Thiển
ý chúng tôi cho đấy là cái phần hèn kém nhứt của nền Văn hóa
Việt Nam. Các Cụ tổ tiên chúng ta có thể mượn ý Tàu nhưng ít ra
cũng phải biết biến qua những tiếng nói, chữ viết Đại Việt. Đáng
khen thay những cố gắng độc lập qua chữ Nôm, nhưng chữ Nôm cũng
do các ông đồ Nho nghĩ ra và vẫn không thoát khỏi các mô hình
độc tài của Nho Giáo (chữ Thánh Hiền? Mà Thánh Hiền là ai, toàn
là người Tàu cả!) Thử so sánh quá trình phát triển văn hóa Việt
qua chữ Nôm của Việt ngữ ta với Nhựt ngữ, và Hàn ngữ. Văn Hóa
Nhựt, Văn Hóa Hàn cũng bị Khổng Mạnh ảnh hưởng, nhưng tại sao
văn hóa người Nhựt tìm được sự Độc lập đối với chữ Hán, tại sao
tinh thần người Nhựt đầy sự cương quyết, quật khởi, hùng cường,
đầy sức sống đầy dân tộc tính? Người Đại Hàn cũng vậy!
Chữ Nôm chỉ được hai triều đại - Nhà Hồ và Vua Quang Trung
có quyết chí sử dụng nhưng vẫn bị các đồ Nho vẫn phá bỉnh.
Lịch sử Văn Hóa Việt Nam cũng như lịch sử Việt Nam là
một chuỗi dài của cuộc xâm lược phương Bắc Tàu.
Thiển ý chúng tôi không sợ Họa Xâm
lược Tàu bằng chiến tranh hay kinh tế. Chúng tôi sợ xâm lược Tàu
bằng Văn Hóa. Ngày nay, nếu thật sự mà nói, nền văn hóa Việt Nam
còn được bao nhiêu chất dân tộc Việt?
3. Cám ơn những phong trào văn hóa thời tiền thế
chiến thứ 2:
Tiện dây xin vinh danh các nhóm Tự
Lực Văn Đoàn, các nhà báo miền Nam và tất cả những Phong trào
Văn hóa thời tiền chiến. May quá, các Văn Nghệ Sĩ thời tiền
chiến đã để những dấu ấn đáng ghi nhớ từ Văn, với nhóm Tự Lực
Văn Đoàn, với các cụ Pétrus Ký, Paulus Của, Nguyễn Văn Vĩnh,
Phạm Quỳnh, các nhà báo miền Nam qua đến Hôi Họa của nhóm xuất
thân từ Trường Mỹ thuật Hà Nội với các họa sĩ Cát Tường–Lemur,
Gia Trí, Lê Phổ… hay Nhạc với những nhạc sĩ sáng tác và phổ biến
với những solfège mới những nhạc cụ mới như violon, piano,
accordéon… với những điệu nhạc tây học như boléro, tango, valse…
mà những bài hát ngày nay vẫn còn vương vấn trong ký ức chúng
ta. Ngay cả trong cổ nhạc, thời tiền chiến đã cho chúng ta những
bài ca rất thuần túy Việt Nam với bài Vọng Cổ Hoài Lang.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử
dân tộc Việt có một ngọn gió Văn hóa hoàn toàn Việt Nam, không
bị lai căng, ảnh hưởng Tàu.
3. Hán Ngụy:
Thái độ, não trạng lụy
Tàu, sẵn sàng làm Hán Ngụy, cũng phải kể đến những thái độ hèn
kém của những người Việt chúng ta khi thua cuộc, trong những
tranh chấp nội chiến, đi cầu cạnh Vua Tàu, sẵn sàng “dắt voi về
dày xéo mả tổ” sẵn sàng làm Hán ngụy, đời nào cũng có. Con cháu
nhà Trần dưới đời nhà Hồ, đến Mạc đến Lê, nhiều khi không cầu
cạnh Vua Tàu, vì Bắc Kinh quá xa, mà chỉ cầu cạnh tên Tổng đốc
Lưỡng Quảng.
Ngay đến
cả thời cận đại, những nhà đấu tranh chống Pháp, từ không cộng
sản đến cộng sản đều chạy qua Tàu. Hết nhờ Tưởng, rồi nhờ Mao.
Ngày nay, nếu các tay cầm quyền trong nước hèn và sợ Tàu như
vậy, âu đó phải chăng cũng là do cái truyền thống ấy?
May mà một phần đoạn cuối của lịch sử chúng ta “bị” Tây thực
dân, “bị” Mỹ đế quốc, nên mới có dịp tỵ nạn ở Tây ở Mỹ. Nếu
không ngày nay tụi mình ở Tàu hết, may lắm thì Hong Kong, Ma
Cao, không thì Bắc Kinh Trùng Khánh, Shanghai…
Tội nghiệp
thay cho Việt Nam! Lược sử của anh Huỳnh Thanh Nhơn cũng cho
chúng ta thấy cái bề trái của dân tộc ta. Anh hùng nhưng
vẫn ham sống.
4. Dân tộc sanh tồn:
Dân tộc sanh tồn của Việt Nam? Trước là “né Tàu”.
Né không được mới đánh,
thường đánh những trận ngắn, đánh thắng xong, giảng hòa, triều
cống… Và tiếp tục Nam tiến để tìm đất sống. Đất Lưỡng Quảng, Hợp
Phố, Phiên Ngung, mặc dù của tổ tiên đấy nhưng vẫn lơ không dám
đòi. Đảo Hải Nam cũng là đất của dân Việt, cũng không dám đòi.
Trong các Triều đại Việt Nam
chỉ có Vua Quang Trung là có ý định
đòi lại Lưỡng Quảng thôi.
Trong các trận đánh chống xâm lược, đều đánh nhau trên đất Đại
Việt để tự vệ. Chỉ có dưới
đời Nhà Lý, kiện tướng anh hùng Lý thường Kiệt dám xuất quân
vượt biên giới Việt–Hoa phạt Tống (cuối năm 1075), hạ được thành
Ung Châu, chém Đô Giám Quảng Tây.
Nhưng rất tiếc sau đó, các Triều đình về sau chỉ biết
giữ nước, be bờ với Tàu thôi!
Lịch sử Trung Hoa
cũng lắm lần thay ngựa giữa dòng, thay vua đổi chủ, nhưng bất cứ
những tay lãnh đạo nào, bất cứ một ông Vua Tàu nào, khi lên
ngôi, trong chương trình, cũng không sớm muộn gì, cũng
đòi xâm chiếm Việt Nam ta. Đến cả những lãnh chúa các dân tộc
ngoại xâm gốc cực Bắc nước Tàu, không phải gốc Hán tộc như Mông
cổ, hay Mãn Thanh khi chinh phục được ngai vàng Bắc kinh cũng
lâm le xâm chiếm Việt Nam!
Đến cả ngày
nay, Trung Cộng/Việt Cộng thề thốt với nhau, “môi hở răng lạnh,
núi liền núi, sông liền sông” thế mà, hễ có dịp là cũng xâm
chiếm Việt Nam.
5. Hán hóa là một dĩ nhiên:
Mà cũng phải, Việt Nam
lúc nào cũng cho mình là Văn Hóa Khổng Mạnh. Lăng miếu, Chùa
chiền, đều chữ Tàu cả, dân Việt đi viếng không đọc được. dân Tàu
thường dân đi du lịch đọc được, vì vậy họ tưởng nhầm là Đất Việt
là đất Tàu. May các Cha Cố Đạo đến Việt Nam, la-tinh hóa tiếng
nói Việt Nam để thành chữ Quốc ngữ, quốc hồn quốc túy Việt Nam.
Ngày nay, Tàu nó ăn hiếp như vậy mà trong nước, Cộng quyền
vẫn nín im re, im thin thít. Né, tránh, nhịn… thôi cũng được
nhưng tại sao không để dân biểu tình, dân phản đối Tàu. Dân chủ
mà! Chớ có quên những nỗi nhục ngàn xưa:
Nếu chúng ta
chấp nhận bị hành xác, lên núi xẻ gỗ, xuống biển mò trai, triều
cống Tàu, chúng ta
PHẢI nhứt định không chấp nhận, viết văn tự hoàn toàn
bằng chữ Hán, chúng ta không chấp nhận tái lại cảnh
“Cột
đồng chết, Giao chỉ diệt”,
chúng ta không chấp nhận bím tóc.
Vua Quang Trung đã nói chúng ta phải
đánh “để có quyền nhuộm răng đen!”,
chúng ta không chấp nhận lễ lạc theo Tàu...
Mong các nhà viết sử, nghiên cứu để phân loại ra những tập
tục nào thật sự Việt, những tập tục nào do Tàu… Còn đâu hình ảnh
con Nghiêu trên những sân đình, những nóc đình? Còn đâu những
tượng Phật khổ hạnh, gầy ốm của Phật giáo Việt Nam, ngày nay chỉ
thấy toàn những ông Phật Di Lạc mập mạp của Tàu?
6. Phải tìm lại Văn hóa và Con đường Độc Lập và Tự Do của Đại
Việt:
Mong toàn dân trong nước như ngoài nước
cùng nhau đi tìm lại nguồn gốc Văn Hóa Việt: Đạo Việt của Đại
Việt với Thờ Cúng Cha mẹ, với Thờ cúng Trời đất, Tổ tiên, Đất
Nước, Đồng Bào… với Bà Thờ Ông Thiên, với Ơn Trời Đất, với Nghĩa
Đồng Bào.
Hãy về Miền Tây đất Nam Kỳ chúng ta (tôi
nói Nam Kỳ, chứ không nói Nam Bộ - vì Nam Kỳ do Nam Triều tức là
Nhà Nguyễn ta gọi chứ không phải của Tây thuộc địa đặt tên đâu!
Tây thuộc địa nó gọi là Cochinchine. Tây không có chia đất nước
ra làm ba miền như thiên hạ tưởng. Chính Nam Triều đã chia ra ba
miền. Nam Kỳ Lục tỉnh đã có sẵn trong hành chánh Triều Nguyễn
rồi. Bằng chứng, Cụ Phan Thanh Giản, bị Nhà Nguyễn đổ thừa là
làm mất ba tỉnh cuối cùng của Nam Kỳ!)
Hãy về miền Tây Nam kỳ của chúng ta, hãy tiếp xúc với các
tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo để nhìn thấy người Hòa Hảo cúng kiến
thờ phượng. Họ nhớ Ơn Tam Bảo Nhà Phật đã đành, nhưng họ cũng
nhớ Ơn Tổ Tiên, ơn Cha mẹ, ơn Đồng bào, ơn Đất Nước gọi là Tứ
Ơn. Kinh giảng sấm giảng bằng tiếng Việt dễ dàng cho mọi người
dân Việt hiểu. Chữ Thánh Hiền Việt Nam phải là chữ Việt chứ
không [là] chữ Hán. Văn Hóa
Đại Việt lễ nghi Đại Việt có đầy đủ Thánh Hiền không cứ chi mà
phải mượn Khổng Tử, Mạnh Tử của Tàu.
Chừng nào chúng ta còn ca tụng Văn Hóa Khổng Mạnh, chừng nào
chúng ta còn truyền tụng, kinh điển, đọc những Tam Quốc Chí,
những Thủy Hử, chừng nào chúng ta còn diễn, còn giải, còn lấy
những tích Tàu làm bài học thì dù có bao nhiêu lần đánh đuổi bọn
xâm lược Tàu, chúng ta không dứt điểm được suy nghĩ, ý chí và
giấc mộng của người Tàu là luôn luôn xâm chiếm nước ta, vì nước
ta là đất Tàu đó thôi!
Để Kết luận:
Chúng ta phải có
ý chí dứt bỏ thằng Tàu trong con người Việt của chúng ta, thì
thằng Tàu mới không đòi chiếm đất Việt.
Lần nữa cám ơn anh Huỳnh Thanh Nhơn đã cho những giây phút
tự hào qua những chiến thắng chống Tàu và chống bọn Hán ngụy
“cõng rắn chống gà nhà, rước Tàu vào nhà xâm chiếm quê hương”.
Trân trọng,
Viết năm xưa, hiệu đính năm nay.
Phan Văn Song
Bấm vào đây để in ra giấy (PDF)
Trung tâm lưu trữ các Ngày lễ mừng Bổn mạng BCND/QLVNCH...
|
Hình nền: Bản đồ VIỆT NAM hoàn toàn. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by Paul Van chuyển
Đăng ngày Thứ Hai,
January 1, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang