Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tạp Ghi
Chủ đề:
50 năm qh30t4đ – cuộc lui
binh tại cao nguyên
Tác giả:
Đinh Từ Thức
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Mục Lục
A. Lời giới thiệu
B. Bài 1: Thời gian hấp hối của VNCH
C. Bài 2: Con đường tử thần
D. Bài 3: Người Việt tàn sát người Việt
E. Bài 4: Mùa chịu nạn, mùa giải phóng
F. Bài 5: Phản bội thông minh
A. Lời giới thiệu
LTS:
Mọi người Việt lưu vong nhớ lại ngày miền Nam Việt Nam rơi vào
sự thống trị của miền Bắc cộng sản, đến bao giờ người dân trong
nước đứng dậy lật đổ bọn cầm quyền độc tài đảng trị?
Mời
quý độc giả đọc lại loạt bài của Sức Mấy Đinh Từ Thức đã đăng
trên Nhật Báo của Sài Gòn năm xưa: 50 năm sau Sổ tay viết lại
bài 1 đến 5 của Đinh Từ Thức, một bình luận gia nổi tiếng của
Sài Gòn năm xưa.
Cám ơn Nhà Báo Kiều Phong tức Thi sĩ
CAO TẦN, San Diego, Cali, USA, đã gởi cho TCDV loạt bài của Đinh
Từ Thức.
Germany, 18/4/2025
- Điều Hợp Viên DĐ
Ngôn.Ngữ-Việt,
- Chủ Nhiệm TCDV.
LÝ TRUNG TÍN
Lời giới thiệu |
Bài 1 |
Bài 2 |
Bài 3 |
Bài 4 |
Bài 5 |
Mục lục
B. Bài 1: Thời gian hấp hối của VNCH
Lời dẫn: Trước
tháng Tư 1975, người viết phụ trách mục Sổ tay, xuất hiện hàng
ngày trên nhật báo Chính Luận, Sài Gòn; lúc đầu ở trang 3, với
bút hiệu Sức Mấy. Về sau, mục này được chuyển lên trang 1, vẫn
gọi là Sổ tay, bút hiệu đổi thành Cự Môn. Sổ tay ghi lại đủ thứ
chuyện lớn nhỏ xảy ra hàng ngày, thuộc mọi lãnh vực, từ chuyện
đứng đắn tới tào lao, chuyện khóc, chuyện cười, cả những chuyện
cười ra nước mắt. Kèm theo các sự việc thường có lời bình của
người viết.
Nửa thế kỷ đã trôi qua. Một thời gian khá
dài, nhiều người trưởng thành sống vào thời đó nay đã ra đi, ai
còn lại quên nhiều hơn nhớ. Trong mùa kỷ niệm một biến cố lịch
sử làm thay đổi cục diện cuả cả một dân tộc, người viết muốn
viết lại mấy kỳ Sổ tay từ 50 năm trước. Không phải chép lại
những gì đã viết, mà ôn lại những gì đáng nhớ, đã xảy ra từ nửa
thế kỷ, vào giai đoạn cuối cùng của VNCH. Và đôi khi, cũng ghi
lại cả những gì đang xảy ra 50 năm sau ở Mỹ. Có những điều Sổ
tay hồi đó không ghi, mà bây giờ nên nhớ. Có những điều diễn ra
bây giờ, mà quen thuộc như chuyện năm xưa.
Xin cảm ơn rất
nhiều bạn Võ Phi Hùng, cựu học sinh Petrus Ký (1967–1974), người
đã bỏ công scan [quét/chụp] lại những tờ báo thời VNCH từ
microfilm của Đại Học Cornell, đem tặng Kho Sách Xưa Quán Ven
Đường của Chủ Quán Huỳnh Chiếu Đẳng. Nhờ những công lao bất vụ
lợi quý hiếm này mà người viết đã có chất liệu cần thiết cho Sổ
tay viết lại. Cũng đặc biệt cảm ơn hai nhân vật vô cùng quan
trọng, tuy không còn nữa, nhưng công lao của họ sẽ còn lại mãi
với lịch sử những ngày cuối cùng của VNCH. Đó là nhà báo dân sự
Nguyễn Tú, và nhà báo quân đội Phạm Huấn.
Nguyễn Tú đã
hoạt động chính trị với các lãnh tụ đảng Đại Việt trước khi làm
báo. Bác sĩ Đặng Văn Sung, chủ báo Chính Luận, cũng xuất thân từ
Đại Việt nên Nguyễn Tú có một vị thế đặc biệt, không giống các
nhà báo thường. Nguyễn Tú muốn đi đâu thì đi, muốn viết gì thì
viết, theo cái nhìn và lương tâm của mình; không theo phân công
của bộ biên tập, không bắt buộc bao lâu phải viết một bài. Ông
không thích ra trận với cấp chỉ huy, mà thích đi hành quân với
lính và trà trộn với dân để biết rõ sự tình.
Phạm Huấn là
sĩ quan cấp tá, xuất thân từ các trường võ bị Việt và Mỹ, luôn
cận kề với các Tướng lãnh cao cấp, nhưng không chiến đấu bằng vũ
khí, mà bằng ngòi bút. Cuối năm 1974, đang là thành phần của Ban
Liên Hợp Quân Sự 4 Bên và 2 Bên; một cơ cấu ra đời từ Hiệp Định
Hoà Bình (giả) Paris 1973, ông được Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh
Quân Đoàn II, chọn làm phụ tá báo chí. Phạm Huấn đã ghi lại được
mọi quyết định quan trọng của vị Tư Lệnh Chiến Trường Vùng II,
không những từng ngày, mà từng giờ, từng phút, cho đến khi ông
Tướng Quân Đoàn thành tướng không quân.
Đọc Nguyễn Tú
biết được niềm hy vọng, nỗi băn khoăn và sự cực khổ, tìm sống
trong cõi chết của lính, của dân. Đọc Phạm Huấn biết được ai ra
lệnh, ai thi hành, và vì đâu nên nỗi. Nếu đọc một nguời, chỉ
biết được nửa sự thật. Cần đọc cả hai để biết được toàn cảnh
thời gian hấp hối của VNCH nửa thế kỷ trước. Sổ tay viết lại làm
công việc nối kết những bài viết của Nguyễn Tú về Kontum–Pleiku
bi thảm ra đi trên Chính Luận cuối tháng 3, 1975, và những gì
Phạm Huấn ghi lại trong cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên xuất
bản năm 1987, và đã tái bản nhiều lần.
–ĐTT
***
Bắt đầu từ đâu? Đã định lấy vụ Cộng
quân đánh Ban Mê Thuột ngày 10 tháng 3, 1975, làm mốc thời gian
khởi sự những ngày cuối cùng của VNCH. Nhưng số phận của thành
phố này đã không rõ ràng trong một tuần. Chính Luận, số báo đề
ngày Thứ Ba, 11 tháng 3, 1975, chạy tin quan trọng nhất, 5 cột:
Ban Mê Thuột bị vây – Phi trường bị chiếm. Báo chí Sài Gòn hồi
đó phát hành vào buổi chiều, đề ngày hôm sau. Báo đề ngày 11,
phát hành từ chiều ngày 10. Phần mở đầu bản tin cho biết như
sau:
SAIGON, 10–3. – Thị xã Ban Mê Thuột, tỉnh lỵ tỉnh
Darlac đã bị Cộng quân bao vây bốn mặt từ đêm qua. Bản báo đặc
phái viên hiện có mặt tại Quân Khu II điện về cho biết tin trên
và nói thêm “Ban Mê Thuột bị bao vây 4 mặt, các tiền đồn phòng
thủ vòng ngoài bị địch tấn công và pháo kích ác liệt”. Bản báo
phái viên cũng báo tin “đã có xe tăng địch bị phát hiện tại vòng
đai thị xã”.
Đã có xe tăng địch bị phát hiện, là chi tiết
quan trọng. Bản tin quân sự sáng ngày 10 tháng 3 cho biết: “Kể
từ 03g00 sáng hôm nay, các lực lượng CSBV đã pháo kích 400 quả
đạn đủ loại vào khu vực tỉnh lỵ Ban Mê Thuột, đồng thời chúng
cũng đã tấn công phi trường dành cho phi cơ L19 tại tỉnh lỵ, Chi
Khu Ban Mê Thuột ở kế cận, kho đạn tại 5cs Tây Ban Mê Thuột và
ĐPQ ở gần đấy cùng phi trường Phụng Dực tại 7cs Đông tỉnh lỵ Ban
Mê Thuột. Hiện khu vực phía Nam thị xã đang bị Cộng quân bao
vây. Một số chiến xa của địch cũng đã được ghi nhận”.
Cùng ngày 10 tháng 3, ngoài tin xấu về Ban Mê Thuột, còn mấy tin
đáng quan tâm. Một là 37 Dân Biểu Mỹ gửi thư cho Tổng Thống Ford
chống quân viện bổ túc cho VNCH và Cao Miên. Hai là Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất lên tiếng khẩn thiết kêu gọi các
nước Nga, Tầu, và Mỹ chấm dứt quân viện cho các phe đối chiến
tại Nam VN.
Sáng 12 tháng 3, phát ngôn viên quân sự của
Chính Phủ VNCH bác bỏ nguồn tin BMT đã thất thủ. Hôm 13/3, Pháp
Tấn Xã (AFP) loan tin theo lời chứng của một linh mục thoát ra
từ BMT, nói rằng lực lượng tấn công là do tổ chức Fulro của
người Thượng và Cộng sản địa phương nổi dậy, không do Cộng sản
Bắc Việt chủ động. Hôm sau, 14/3, Sở Ngoại Kiều thuộc Bộ Tư Lệnh
Cảnh Sát Quốc Gia đã mời ký giả Paul Leandri của AFP tới hỏi về
nguồn tin này, đưa đến cãi cọ giữa đôi bên, và ông Leandri đã bị
bắn chết. Vụ này đã gây căng thẳng giữa Pháp và VNCH, gây ra dư
luận xấu từ khắp nơi đối với Sài Gòn, giữa lúc nơi đây đang cần
ủng hộ về cả vật chất lẫn tinh thần.
Phải đợi đến đêm Chủ
Nhật 16 tháng 3, khi Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II từ Pleiku đột ngột
rời về Nha Trang, dân chúng hoảng loạn liều chết tháo chạy, thực
sự mở đầu giai đoạn chót của VNCH.
Cuộc họp Cam Ranh: Bỏ
Pleiku–Kontum
Theo Phạm Huấn ghi nhận, do Tướng Phú cho
biết, quyết định rút Pleiku–Kontum là lệnh từ Tổng thống Thiệu
tại cuộc họp tối mật ở Cam Ranh vào trưa 14 tháng 3, 1975. Cuộc
họp này, phía Mỹ cũng không biết, chỉ có năm tướng Việt: Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu; Thủ tướng Trần Thiện Khiêm; Tổng Tham
Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, Đại tướng Cao Văn Viên; Phụ tá An Ninh
Quân Sự cùa tổng thống, Trung tướng Đặng Văn Quang; và Tư Lệnh
Quân Đoàn II, kiêm Tư Lệnh chiến trường Cao Nguyên, Thiếu tướng
Phạm Văn Phú.
Cuộc họp định mệnh bắt đầu lúc 11:32g, chấm
dứt lúc 13:29g. Sau khi nghe Tướng Phú báo cáo tình hình khó
khăn về mặt trận Ban Mê Thuột và Cao Nguyên nói chung, Tướng
Thiệu cho biết vào lúc 12:57g:
– Sau Hiệp Định Paris
1973, quân viện Mỹ cho Việt Nam giảm 50%; từ 2 tỷ xuống 1 tỷ MK
cho 1975. Trong khi đó, viện trợ Nga dành cho Bắc Việt tăng gấp
đôi.
– Cao Nguyên Vùng II có 4 sư đoàn Cộng sản Bắc Việt
hiện diện. Tại Quân Khu I, có tới 6 đến 7 sư đoàn Cộng quân.
– Cam kết của Nixon sử dụng B52 nếu Cộng sản vi phạm Hiệp
Định Paris không còn giá trị.
– Nguồn tin Mỹ có ngân
khoản lớn yểm trợ không quân cho chiến trường VN là sai.
Tổng thống Thiệu quyết định: Tái phối trí các lực lượng chính
quy VNCH để chống lại các lực lượng Cộng sản tại Quân khu 1 và
2.
Tướng Thiệu hỏi Tướng Phú sẽ làm gì để đối phó với
Cộng sản, và với hoàn cảnh hiện tại, sẽ cầm cự được bao nhiêu
ngày? Tướng Phú trả lời ông xin tử thủ ở Pleiku, và sẽ chiến đấu
được từ 40 đến 60 ngày. Ông nói chết ở Cao Nguyên bây giờ, cũng
như chết ở Sài Gòn năm tới.
Tướng Thiệu nói:
– Tôi
ra lệnh cho anh, mang chủ lực quân, chiến xa, đại bác, máy bay
về phòng thủ miền Duyên Hải, và tổ chức hành quân tái chiếm Ban
Mê Thuột.
– Lệnh này từ cấp Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu
trưởng trở xưống không được biết.
– Có nghĩa là các lực
lượng Địa Phương Quân vẫn ở lại chiến đấu. Các cơ sở hành chánh
ba tỉnh Pleiku, Kontum, Phú Bổn vẫn tiếp tục làm việc cùng với
Tỉnh trưởng, Quận trưởng như thường lệ.
Trong khi phòng
họp im lặng, không phản ứng, Tướng Phú hỏi:
– Thưa Tổng
thống, nếu Chủ lực quân, Thiết giáp, Pháo binh rút đi, làm sao
Địa phương quân chống đỡ nổi khi Cộng sản đánh? Hơn 100 ngàn dân
hai tỉnh Pleiku, Kontum, và gia đình anh em binh sĩ?
–
Thì cho “thằng” Cộng sản số dân đó! (nhấn mạnh của người viết)
Với tình hình nặng nề hiện tại, mình phải lo phòng thủ, giữ được
những vùng dân cư đông đúc, mầu mỡ, hơn là bị kẹt quá nhiều quân
trên vùng Cao Nguyên.
16/3/1975: Pleiku, quân dân di tản
trong hỗn loạn
Trong khi Tổng thống và Hội Đồng Tướng
lãnh đã quyết định “cho thằng Cộng sản” hàng trăm ngàn dân
chúng, từ Tỉnh trưởng trở xuống, gồm cả đại diện dân cử, công
chức, Địa Phương Quân, và gia đình binh sĩ, thì thành phần này
chưa được biết gì về số phận của mình. Tuy nhiên, nghe tin đồn,
họ đã tự bảo nhau sửa soạn ra đi, mặc dù chưa biết đi đâu, và
bao giờ khởi hành. Dưới đây là lời kể tại chỗ của Nguyễn Tú:
Chính Luận, số báo đề ngày Thứ Tư, 19 tháng 3, 1975 (phát
hành chiều Thứ Ba 18 tháng 3) đăng bài của đặc phái viên Nguyễn
Tú, nhà báo duy nhất trong làng báo quốc tế và quốc nội có mặt
trong cuộc di tản lịch sử này. Sau đây là nguyên văn bài tường
thuật:
Chưa bị tấn công nhưng tự liệu không thể chống giữ
08:00g ĐÊM CHỦ NHẬT, KONTUM–PLEIKU BI THẢM RA ĐI
BỎ LẠI PHÍA
SAU NHỮNG CỘT KHÓI, NHỮNG VÙNG LỬA
Bản tin này đã được
đọc xen lẫn những tiếng khóc nức nở của bản báo ĐPV Nguyễn Tú.
SAIGON, 18–3. – Sáng nay bản báo phái viên Nguyễn Tú, tại
một địa đểm dừng chân trên đường rút lui của Quân Dân hai tỉnh
Kontum–Pleiku báo tin qua điện thoại quang cảnh di tản bi thảm
của đồng bào. Dưới đây là nguyên văn ghi lại lời bạn Nguyễn Tú
đọc qua điện thoại.
Tất cả lên đường
Pleiku, 16–3.
– Tối nay, Pleiku đã thực sự hỗn loạn. Tất cả dân chúng Pleiku,
thêm vào đó dân chúng ven tỉnh, dân chúng thuộc vài quận gần thị
xã Pleiku, và cả dân chúng Kontum đã đổ xô nhau chạy về thị xã
Pleiku đều xuống đường và tổ chức một “đêm không ngủ”. Không
phải để biểu tình chống ai, mà để vội vàng trong hốt hoảng, để
tiếp tục chất các hàng hoá, bàn ghế, tủ giường, cùng những vật
dụng riêng lên đủ thứ xe: xe lam 3 bánh, xe vận tải hạng nặng,
xe Jeep, xe đốt rác, xe GMC nhà binh, xe Honda. Thậm chí xe be,
xe cần trục, xe máy kéo, trắc tơ, xe hốt rác, cả xe chữa lửa
cũng được dùng để chất đồ và chở người. Xe nào chất xong đồ, là
người leo lên ngồi sẵn. Xe nào đôi nhíp cũng gần như thăng bằng,
vì chất quá nặng. Từ trưa, các lực lượng an ninh trong thị xã
Pleiku như Quân Cảnh, Cảnh Sát đã bỏ tất cả nhiệm sở, không còn
thấy bóng một ai, mà hôm qua Thứ Bảy 15 tháng 3 còn canh phòng
rất gay gắt, các ngả ra vào thị xã Pleiku.
Mọi đường phố
không còn một nhân viên công lực nào giữ trật tự nữa. Tất cả mọi
người đều về nhà lo việc di tản cho mình và gia đình mình. Liên
lạc vô tuyến của hệ thống quân đội không còn được nhanh chóng,
điều hoà, và hữu hiệu như trước nữa, tuy vẫn chưa hẳn gián đoạn.
Lý do là các nhân viên truyền tin cũng thay phiên nhau về nhà để
lo việc di tản gia đình. Sự kiểm soát an ninh trật tự coi như đã
tuột khỏi tầm tay chính quyền địa phương Pleiku. Tại tư dinh Đại
tá Tỉnh trưởng Pleiku, các nghị viên, các Ty, Sở Trưởng hấp tấp
ra vào liên miên.
Chưa bao giờ các đại diện dân cử, kể cả
đối lập và chính quyền đã sát cánh với nhau như thế. Chưa bao
giờ lập pháp, hành pháp, tư pháp đều đồng một lòng, một dạ như
thế. Đồng một lòng một dạ trong một câu hỏi duy nhất: “bao giờ
thì di tản”, và hồi mấy giờ thì di tản? Trên thực tế thì Pleiku
đã sống giờ thứ 25 từ hôm qua, thứ Bảy 15/3.
Hôm nay Chủ
Nhật 16 tháng 3, lúc 19:00g đã có điện trở lại trong toàn thị
xã. Đèn ngoài đường và trong các tư gia cũng được thắp sáng. Có
lẽ là một hội hoa đăng cuối cùng. Khắp các đường phố, dân chúng
đi lại hết sức nhộn nhịp, tất tưởi. Ngay từ xế trưa hôm nay 16
tháng 3, các xe nào đã chất xong đồ vật đều chuyển bánh trên
Quốc lộ 14 đi về Phú Bổn thành một đoàn dài. Nhưng phải kể từ
20:00g ngày hôm nay Chủ Nhật 16 tháng 3, sự di chuyển toàn diện
của dân chúng mới thực sự bắt đầu, đoàn xe ước chừng đến hàng
ngàn chiếc, bật đèn pha nối đuôi nhau trên hàng chục cây số
trông như một cuộc “trở về nhà sau cuộc nghỉ cuối tuần.”
Nhưng đây đâu phải là “đoàn xe thanh bình”?
Sáng kiến vĩ
đại
Cuộc di tản đại quy mô của hai tỉnh gom lại là Kontum
và Pleiku do sáng kiến tư nhân có thể coi như là “vĩ đại” ở chốn
Tây Nguyên hẻo lánh nàỵ.
“Mục tiêu đầu tiên là Phú Bổn.
Sau đó sẽ tính.” Đó là lời một đồng bào di tản nói với Chính
Luận. Nhưng ra khỏi thị xã, được vài cây số thì đoàn xe bị kẹt
vì những chiếc xe nhỏ hơn như xe lam, xe ô tô nhỏ, xe Honda muốn
vượt trước. Phải một giờ sau vụ kẹt xe này mới được giải tỏa.
Dân chúng nghèo cũng ra đi bằng phương tiện thiên nhiên,
trời đã phú cho họ là đôi chân của chính họ. Họ đây là gồm cả
già, trẻ, lớn, bé, con nít còn bồng trên tay, đàn bà đang mang
bầu, tay xách, nách mang một vài manh chiếu, một vài bọc quần
áo, buồn tủi, lo âu, gia đình nọ nối tiếp gia đình kia đi hàng
một sát bên lề đường để tránh đoàn xe. Đèn pha của đoàn xe lần
lượt chiếu các bóng lưng còng xuống của người lớn, những bóng
nhỏ hơn của các trẻ em tay níu vạt áo hoặc ống quần của người bố
hay người mẹ. Họ lặng lẽ thất thểu bước nọ trước bước kia trong
đêm tối của tâm hồn.
Cuộc di tản này chắc chắn sẽ kéo dài
tới ngày hôm sau. Thế là Kontum và Pleiku đã bỏ ngỏ, chính thức
và không (được) chính thức. Không chính thức mà chính thức vào
hồi 20:00g đêm ngày Chủ Nhật 16 tháng 3/1975.
Pleiku
không còn gì để cho tôi săn tin thêm nữa.
Ba lô vẫn cõng
trên vai, hồi 22:30g tôi theo đoàn người di tản ra khỏi thị xã
Pleiku. Bầu trời hôm nay đẹp quá, hàng ngàn vì sao lấp lánh như
thiên thần nháy mắt với trần gian, hay đó là những ám hiệu dục
dã: “Lẹ lên!”
Nếu tôi có một người bạn đường đi bên tôi,
tôi sẽ bảo: “Bạn ơi, trên trời có bao nhiêu vì sao thì lòng tôi
đau xót còn hơn thế nữa.”
Đốt, phá, bỏ rơi!
Các
kho súng, kho đạn tại tỉnh Pleiku đã được lệnh thiêu hủy, tiếng
nổ lớn nối liền tiếng nổ nhỏ. Từng cột khói đen bốc lên trong
lửa đỏ từ các bồn nhiên liệu cũng được lệnh phá hủy. Tất cả đều
bùng cháy. Nhiều khu phố trong thị xã Pleiku đã bị toán người
đập phá nhà cửa của các chủ nhân đã di tản, và đã bị phóng hỏa,
ít nhất tôi cũng đếm được 14 đám cháy trong những khu phố khác
nhau.
Nhiều tiếng súng cũng đã nổ trong thị xã. Có tin
Đại tá Tỉnh trưởng Pleiku đã hạ lệnh cho đốt kho giấy bạc trong
Ty Ngân Khố, ước lượng khoảng 300 triệu và trong khi tưới xăng
để đốt, ông Trưởng Ty Ngân Khố đã bị phỏng vào mức trung bình.
Không còn một bác sĩ tư nào trong thành phố. Quân cũng như dân y
viện không còn hoạt động. Có tin là ông Trưởng Ty Ngân Khố đã
được di tản bằng đường bộ như các thường dân khác trên một chiếc
xe nhưng không được hưởng một sự chăm sóc cần thiết đầu tiên.
Một số bệnh nhân tại dân y viện cũng như một số thương binh tại
quân y viện Pleiku đã bị bỏ rơi lại vì không còn ai lo cho họ
nữa. Chính họ trong tình trạng bệnh hoạn chẳng tự mình làm được
gì cho chính mình. Ngoài sự chịu chết đói dần mòn ngay trên
giường bệnh.
Một nguồn tin đáng tin cậy cho hay là Chuẩn
tướng Tất, Tư Lệnh Mặt Trận Kontum – Pleiku đang chỉ huy cuộc
triệt thoái lực lượng chính quy đi về hướng Nam trên Quốc lộ 14.
Cuộc triệt thoái được diễn ra trong vòng trật tự và có kế hoạch.
Trên đường nóng bỏng
Pleiku 17–3. – Sáng nay, cuộc di
tản đang tiếp diễn dưới ánh mặt trời huy hoàng của một ngày đầu
tuần. Hàng ngàn chiếc xe dân sự và quân sự vẫn nối tiếp nhau
trên Quốc lộ 19 đi về hướng Phú Bổn. Nhiều xe vì chở quá nặng
không chạy nổi đã bỏ lại trên đường. Các quân nhân được lệnh
triệt thoái dưới quyền tư lệnh của Tướng Tất đã thi hành một
cách rất trật tự và kỷ luật. Các đơn vị Biệt Động Quân đã được
lệnh đi hai bên Quốc lộ 14 ở những chỗ xung yếu để bảo vệ đoàn
xe di tản dân sự và quân sự. Các đoàn người đi bộ thật là thảm
thương, đàn bà, con trẻ đi bên lộ dưới ánh nắng nóng bỏng không
giọt nước để uống. Dọc quốc lộ từ Pleiku đến Hậu Bổn là tỉnh lỵ
của Phú Bổn, đoàn xe cứ nối dài. Đoàn người đi bộ, bị bỏ lại
sau, nhưng họ vẫn cứ cố gắng lết đi trên đường nóng bỏng dưới
ánh nắng của Pleiku. Chưa biết đêm nay họ có thể tới được Phú
Bổn bằng đôi chân của chính họ hay không. Sẽ có nhiều người sẽ
bị chết đói, chết khát dọc đường. Dọc Quốc lộ 14 đi về phía Phú
Bổn các làng, các ấp, các buôn đều trống trơn không còn một ai.
Cảnh hoang tàn dọc Quốc lộ 14 tôi không làm sao mà còn có trí óc
để nghĩ ra những danh từ tường trình với độc giả.
Bi thảm
quá đồng bào ơi!
Hôm nay thay vì lá thư hàng tuần sự
tường trình của tôi có thể ngắn ngủi và không mạch lạc. Mong quý
vị độc giả phương xa ở tại cái Thủ Đô đầy ánh sáng hiểu cho. Cho
tới nay vẫn không thể hiểu được lệnh bỏ ngỏ Kontum – Pleiku là ở
đâu mà ra, và tại sao lại có sự ra đi hấp tấp trong dân chúng
trong khi các nhà cầm quyền quân sự đã trù liệu kế hoạch từ
trước. Không có giải thích nào cho dân chúng. Không có tổ chức
nào để di tản dân chúng trong trật tự và an ninh, không có một
sự trợ giúp nào cho các dân nghèo không có phương tiện đi xe. Từ
năm 1954 cho tới nay, chính tôi đã chứng kiến bao cuộc di tản.
Cuộc di tản Kontum – Pleiku để lại cho tôi một nỗi chán chường
mà những hy vọng mong manh từ 1954 đến năm 1975 tới nay tôi cảm
thấy không còn đủ sức, đủ ý chí để bấu víu lấy cái chút hy vọng
mong manh ấy nữa. Ngoảnh về phía Pleiku khói vẫn ngùn ngụt bốc
lên vì những đám cháy đêm qua.
Dọc lộ xe tăng, đại pháo
dạt ra hai bên đường để bảo vệ những chỗ xung yếu để cho đoàn xe
di tản dân sự và quân sự có thể đi trót lọt tới Hậu Bổn tức tỉnh
lỵ Phú Bổn. Nhưng trên đoạn Quốc lộ 14 từ Pleiku tới Hậu Bổn vẫn
xảy ra nhiều đoạn đường kẹt xe, có thể kể hàng 5 đến 10 cây số
chưa biết rằng đoàn xe có thể tới Hậu Bổn được không. Và từ Hậu
Bổn sẽ đi đâu chưa ai rõ. Riêng tôi không còn có trí óc nào để
nghĩ đến tương lai dù rằng tương lai chỉ là ở một giây, một phút
sau đó.
Chồng trước có quyền lớn nhất thế giới,
có thể ban lệnh giết hàng triệu người trong một cuộc chiến,
nhưng không giữ được mạng mình. Chồng sau vào hạng giầu nhất thế
giới, có tiền mua tiên cũng được, nhưng không mua được mạng
mình. Vậy, tại sao có nhiều người vẫn cứ chạy theo quyền và
tiền, như những con thiêu thân?
Cảm tưởng đầu tiên của
người viết khi đọc lại bài của mình từ 50 năm trước là một chút
ân hận, vì đề cập tới thân thế bà Jacqueline như một thí dụ xui
xẻo trong cuộc sống, có thể bị coi như chỉ trích một phụ nữ xấu
số. Khi viết, đâu biết trước rằng bà cũng sẽ qua đời ở tuổi 64,
rồi 5 năm sau, cả con trai và con dâu của bà đều tử nạn máy bay.
Cảm tưởng thứ nhì là không phải chỉ có ở Việt Nam, nơi người
viết sinh sống 50 năm trước, mới có nhiều người lăn xả vào quyền
và tiền như những con thiêu thân. Nửa thế kỷ sau, tại Mỹ, nơi
người viết đang sống, nơi vốn được tiếng là khá hơn VN về nhiều
phương diện, cũng có rất nhiều ông to bà lớn đang vật lộn với
quyền và tiền. Người có tiền muốn có tí quyền, người có quyền
muốn có thêm tiền, kẻ đã có một thứ, muốn có cả hai.
Người có nhiều tiền nhất thế giới, bỏ ra gần ba trăm triệu để
được ban cho chút quyền, biến một nơi vốn được coi là cái rốn
của vũ trụ, là chỗ để các nhà lãnh đạo quốc gia làm việc, tiếp
khách, và ra những quyết định có ảnh hưởng tới vận mạng thế
giời, thành nơi người lớn làm việc bên cạnh trẻ con chơi đùa,
giống cái Vườn Trẻ Bầu Dục (Oval Kindergarten).
Người có
quyền lớn nhất thế giới, tự định giá cho mình để kiếm thêm tiền.
Ai muốn ăn với mình một bữa, 5 triệu MK cho một chủ một khách,
hoặc mỗi khách 1 triệu khi tiếp khách hội đồng. Điều này khá mới
lạ. Xưa nay, ngay trong chốn giang hồ, có những chị em ta thuộc
loại cao giá ngất trời, cũng vẫn giữ một chút thể diện, không
bao giờ công khai trơ trẽn tự ra giá cho mình, đó là việc làm
của Tú Bà. Có lẽ, bây giờ theo chủ trương chính quyền hữu hiệu
(DOGE), bãi bỏ vai trò môi giới để tăng thu giảm chi.
Lời giới thiệu |
Bài 1 |
Bài 2 |
Bài 3 |
Bài 4 |
Bài 5 |
Mục lục
C. Bài 2: Con đường tử thần
Theo ghi
nhận của Phạm Huấn, tại cuộc họp lịch sử ở Cam Ranh ngày
14/3/1975, hồi 13:03g, lệnh triệt thoái Cao Nguyên được coi như
chính thức ban hành. Sau đó, Tướng Thiệu hỏi Tướng Viên liệu có
thể dùng Quốc lộ 19, hay 21 để rút quân?
Tướng Viên trả
lời không thể dùng đường 21 nối Ban Mê Thuột với Nha Trang vì
đường 14 từ Kontum–Pleiku tới Ban Mê Thuột đã bị địch cắt, và có
ba bốn Sư Đoàn Cộng sản Bắc Việt tại chiến trường Ban Mê Thuột,
không thể đi thoát qua ngả đó. Cũng khó thành công nếu dùng Quốc
lộ 19; nối Pleiku với Quy Nhơn; vì địch quân đóng chốt nhiều
nơi.
Tướng Thiệu hỏi ý kiến Tướng Phú, ông này đề nghị
đường số 7, nối liền Pleiku–Phú Bổn–Phú Yên (qua các tỉnh lỵ Hậu
Bổn/Phú Bổn, và Tuy Hoà/Phú Yên). Tướng Thiệu tỏ ý lo ngại vì
đường số 7 đã bỏ hoang từ lâu, có nhiều mìn chưa nổ đặt từ hồi
quân Đại Hàn, có nhiều cầu hư hỏng không lưu thông được, như cây
cầu dài trên Sông Ba, cách Phú Yên khoảng 20cs. Tướng Phú thuyết
phục Tướng Thiệu là Công Binh có thể sửa những cây cầu hư hỏng,
và Tướng Viên thêm vào, sử dụng đường số 7 có ưu điểm là yếu tố
bất ngờ.
Tướng Thiệu hài lòng, ra lệnh:
– Thiếu
tướng Phú, tôi cho anh toàn quyền tổ chức và quyết định về “cuộc
hành quân” để mang tất cả chủ lực quân, chiến xa, Pháo Binh, máy
bay của Quân Đoàn II về phòng thủ Duyên Hải, và tái chiếm Ban Mê
Thuột. Vì tính cách vô cùng quan trọng của “cuộc hành quân” này,
và để giữ được yếu tố bất ngờ với địch: Anh chỉ cho các Tướng
lãnh, cấp chỉ huy dưới quyền biết... từng phần của lệnh này, và
ra lệnh tuyệt đối giữ bí mật với dân chúng!!!
Tuy lệnh
ban ra là “tuyệt đối giữ bí mật với dân chúng”, nhưng theo
Nguyễn Tú, dân chúng nghe tin đồn, đã tự động chuẩn bị từ ngày
15/3, và bắt đầu lên đường từ tối 16/3, trước cả chủ lực quân,
tuy chưa biết rõ điểm tới cuối cùng là ở đâu. “Mục tiêu đầu
tiên là Phú Bổn, sau đó sẽ tính”.
17/3/1975:
Chính thức khởi hành
Ngày ra đi của đại quân là
17/3, Phạm Huấn viết:
Tin Quân Đoàn “di tản” đã không còn
là một tin “tối mật” như các giới chức Quân Sự mong muốn. Từ hai
ngày nay, mọi người dân Pleiku, mọi gia đình Quân Nhân, và chắc
chắn cả địch nữa đều biết.
Hỗn loạn, cướp bóc, bắn phá
xảy ra nhiều nơi, trong và ngoài thị xã.
08:40g,
Đoàn xe di chuyển. Khoảng 4,000 quân xa đủ loại, và các xe dân
sự.
Vẫn theo Phạm Huấn, chặng đầu của cuộc rút quân
Pleiku–Phú Bổn sáng ngày 17/3/1975, diễn ra tốt đẹp. 13:40g, từ
Sài Gòn gọi ra, Tổng thống, Nội Các, và các Tướng lãnh khen ngợi
về cuộc rút quân.
“Nhưng, đấy chỉ là chặng đầu tiên
trên Liên Tỉnh lộ 7. Con đường chôn vùi hàng nhiều ngàn xác đồng
bào và trẻ thơ vô tội. Chôn vùi tên tuổi tất cả các Tướng lãnh
đạo Đất Nước trong những năm sau cùng. Và cũng chính là con
đường đưa đến sự sụp đổ mau chóng của Quân Lực VNCH, để rồi, mất
nước sau đó!”
Buổi tối cùng ngày, có tin một nhóm
lính Thượng đã nổi loạn, đốt nhà, ăn cướp.... Ngoài ra, vào hồi
17g30, du kích Cộng sản bắn súng cối, làm cháy một quân xa, và
một xe dân sự.
18/3/1975: Hết bất ngờ, địch khởi
sự tấn công
09:00g, tin tình
báo từ Sài Gòn cho biết: Các đơn vị du kích Cộng quân đã tập
trung một số súng cối ở phía Nam Hậu Bổn (tỉnh lỵ Phú Bổn), để
pháo, cắt đứt đoàn xe thành nhiều đoạn, làm trì trệ cuộc rút
lui, đợi chủ lực quân Bắc Việt tới tấn công. Đêm qua, Sư Đoàn
320 của Bắc Việt đã bỏ mặt trận Bắc Ban Mê Thuột, kéo theo đại
bác 122ly, do Sư Đoàn 23 Bộ Binh của VNCH bỏ lại, tiến về Phú
Bổn. Tướng Phú vô cùng hốt hoảng khi biết tin này.
Đang
trong nỗ lực đối phó với địch, lại có rủi ro từ phía mình: Bom
của Không Quân ta, đã đánh trúng, làm bốc cháy hai chiến xa M–41
của quân mình. Cùng lúc đó, một số lính Thượng bỏ chạy, nổi lửa
đốt doanh trại. Tỉnh trưởng bất lực, các cấp chỉ huy bó tay. “Khắp
các ngả đường bên ngoài, và mọi nơi trong thị xã Phú Bổn, xe cộ
và người... chật cứng”.
15:05g, Thủ
tướng Khiêm và phái đoàn Chính Phủ tới thăm Bộ Tư Lệnh QĐ II
(mới chuyển từ Pleiku về Nha Trang). Tướng Khiêm khen ngợi và
nhận định: – Đây là cuộc rút quân vĩ đại nhất trong lịch sử
chiến tranh Việt Nam.
Đúng như tin tình báo buổi sáng cho
biết, trong khi Tướng Phú đón tiếp phái đoàn Thủ tướng Thì trung
đoàn tiền phong của Sư Đoàn 968 Cộng sản BV đã từ Ban Mê Thuột
tới Phú Bổn, Phú Yên, phối hợp với các Tiểu đoàn Việt cộng, và
đặc công Thượng tại địa phương, tăng cường lực lượng đánh phá
đoàn xe di tản. Võ khí hạng nặng của ta như Đại Bác 122ly do
SĐ23 bỏ lại, đã được Cộng quân sử dụng bắn vào quân dân ta. Theo
Phạm Huấn:
“Từ 13:00g trưa hôm qua, 17/3/1975, khi
những chiếc xe Thiết Giáp đầu tiên vào Phú Bổn, ‘phố Quận’ này
đã nhộn nhịp hẳn lên. Sau đó, đợt này qua đợt khác, xe và người
chen chúc dồn vào như... nêm cối. Cả trăm ngàn người co rút
trong cái thị xã nhỏ bé này. Vì bị làn sóng... người Kinh xâm
nhập chớp nhoáng, quyền lợi bị đụng chạm. Một số lớn lính
Thượng, dù không phải là Thượng cộng, cũng đã nổi lửa đốt nhà,
đốt doanh trại bỏ đi.
Pháo của Bắc quân nã vào. Những đơn
vị chiến xa, Pháo binh nặng... tập trung trong thị xã bây giờ
kẹt cứng. Không nhúc nhích, không sử dụng được. Các trưởng xa,
tài xế, pháo thủ cũng chịu chung số phận như những người khác.
Tất cả trở thành mục tiêu cố định của những trận mưa pháo.
Thật kinh hoàng, khủng khiếp. Biển người và biển máu. Đó
cũng là giờ phút khởi đầu của đoàn quân, đoàn xe, đoàn người đi
trên khúc quanh Tử Thần, của Tỉnh Lộ Máu số 7”.
19/3/1975: Mang M48 về bằng mọi giá
01:15g, Quận Phú Túc trên Tỉnh lộ 7, sau Hậu
Bổn, bị pháo rất nặng, rồi bị Cộng quân tràn ngập lúc 02:00g
sáng, cố chặn đầu đoàn xe. Biệt Động Quân tái chiếm sau một trận
đánh đẫm máu, tuy địch vẫn cố bám sát quanh Phú Túc.
08:45g, Tổng thống Thiệu gọi, ra lệnh, bằng mọi
giá, phải mang chiến xa M48, và đại pháo 175ly về phòng thủ mặt
trận Duyên Hải, và Sài Gòn. Trong khi đó, Việt cộng vẫn đóng
chốt dầy đặc tại quãng đường hơn chục cây số trước khi tới Phú
Yên. Và cũng chẳng ai biết rõ còn bao nhiêu chiến xa và đại pháo
có thể sử dụng được.
11:30g, theo tường
trình của Tướng Tất, chỉ huy tổng quát cuộc lui quân: Việc sửa
cây cầu lớn gần Phú Túc vẫn chưa xong. Đường còn quá xa. Lúng
túng, khó khăn, vì phải giữ chiến xa do lệnh thượng cấp. Lo sợ
Sư Đoàn 320 BV đuổi theo tấn công xả láng. Tinh thần lính và vợ
con đi theo bị sa sút nặng nề.
12:25g,
Từ Sài Gòn gọi ra, lệnh của Tổng thống Thiệu: sử dụng Pháo
Binh, Không Quân tối đa, “san bằng” Phú Túc để Đoàn quân di
chuyển. Cầu gặp khó khăn, dùng vỉ sắt PSP của sân bay Cung Sơn
thảy xuống làm đường cho chiến xa đi. Tướng Phú ra lệnh bắn vào
nhóm Thượng nổi loạn để đoàn xe tiến về Sơn Hoà.
15:00g, Đoàn xe chính còn lại, trên quãng Phú Túc –
Cung Sơn, ước lượng 3,000 xe. Lính Thượng vẫn nổi loạn giữa Hậu
Bổn–Phú Túc. Đốt những xe kẹt lại phía sau.
Tổng cộng
chiến xa bị thiệt hại trong hai ngày 18 và 19 tháng 3 là 30
chiến xa. Theo Phạm Huấn, đó là theo báo cáo, sự thật nhiều hơn
nữa!
17:50g, Ghi nhận Phú Bổn mất. Một
số lớn chiến xa M48 và M41 bị kẹt lại Phú Bổn. Tổng số chiến xa
đi được, vừa qua sông Phú Túc: 6 M48, 16 M41, 13 Thiết Vận xa
M113.
18:00g, Tướng Chức, Chỉ Huy Trưởng
Công Binh cho biết, Đoàn Xe Quân Đội qua sông Phú Túc khoảng
1,500 chiếc.
Trong khi ấy, Không Quân được lệnh đánh bom
các cơ sở Quân Sự quan trọng bị bỏ lại ở Pleiku, như kho đạn đại
bác mới 14,000 tấn, kho xăng...
20/3/1975: Chiến
Xa, Đại Bác và Những Xác Người
08:05g,
Tướng Tất tường trình tình hình chung của Đoàn quân. Những đơn
vị BĐQ vừa di chuyển, vừa tác chiến, để bảo vệ phía sau Đoàn xe.
Những đơn vị này, vừa chịu những trận mưa pháo của địch, vừa
chiến đấu với Bắc quân trong 3 ngày liền. Thiệt hại trung
bình... một phần ba quân số. Trong phần kiểm điểm tình hình,
trước khi đi tiếp, Phạm Huấn ghi nhận:
“Thành phố đất
đỏ nhỏ bé miền núi Phú Bổn, sau những trận mưa pháo của Bắc
quân, buổi trưa và đêm 18/3/1975, đã biến thành ‘một chợ trời...
xác chết’. Khắp nơi nơi, chỗ nào cũng có xác người chồng lên
nhau. Đau đớn nhất là những chiến hữu của họ trong cái chết oan
khiên, tức tưởi. Những pháo thủ súng lớn nằm dài sóng sượt dưới
chân Đại Bác, gối đầu lên nhau. Hai nòng súng cao ngất – loại
Đại Bác 175ly lớn nhất của QLVNCH – cũng... chụm đầu lại (?)
Những trưởng xa, tài xế các loại xe M48, M41 ‘ngồi yên, bất
động’ trong pháo tháp, trên đầu xe, với hình hài không còn
nguyên vẹn. Một góc sân Trường Tiểu học, họ đếm được 4 xe M41
đậu dồn lại. Khu đất trống trước Toà Hành Chánh, 8 chiếc M48,
M41 san sát bên nhau như để... triển lãm.
Vây bọc chung
quanh những khẩu Đại Bác 175ly, những chiến xa, là những ‘hàng
rào’ xác nguời, xe cháy, xe hư kéo dài ra tới ngoài thị xã...
70% lực lượng chiến xa và Pháo Binh nặng của Quân Đoàn II
được bố trí, dồn đống trong Phú Bổn. Một ‘phố quận’ mà mỗi chiều
chưa tới một cây số!
Tổng số chiến xa nặng và Đại Bác
175ly ‘bỏ lại’ Phú Bổn:
– 40 chiến xa M41 và M48.
– 8
khẩu đại bác 175ly.”
11:20g, Các
đơn vị Công Binh Liên Đoàn 6 (BĐQ) vẫn dồn mọi nỗ lực ủi đường,
sửa cầu, làm cầu trên Liên Tỉnh lộ 7 để đoàn xe qua. Cứ một cây
cầu vừa sắp sửa làm xong, dân chúng đã ồ ạt tràn tới. Hỗn loạn,
vô trật tự, không có cách nào giải quyết được.
11:30g, Cùng với tình hình nóng bỏng của Tỉnh lộ 7, tin
từ nơi khác đổ về: Chiến xa và Bắc quân tràn ngập Quảng Trị đêm
19/3, và Huế bỏ ngỏ. Hai tỉnh Lâm Đồng, Quảng Đức bị đánh nặng.
Tin Đà Lạt di tản. Dân chúng hoang mang, lo sợ, chạy đổ về Cam
Ranh.
***
Dưới đây là bài của Nguyễn Tú, ghi nhận
từ phía dân sự về cuộc di tản, cùng ngày 20/3/1975, đăng trên
Chính Luận số báo đề ngày 22/3/1975, trang 1:
Từ
Kontum–Pleiku và Phú Bổn kéo xuống
ĐOÀN DI TẢN ĐÃ VÔ GẦN PHÚ
YÊN
Nhưng chưa qua được vùng giao tranh
Nguyễn Tú
SƠN HOÀ, 20/3. — Đoàn di
tản Kontum–Pleiku–Phú Bổn đã về được tới địa phận của tỉnh Phú
Yên. Nhưng tất cả xe cộ binh sĩ và dân chúng còn kẹt lại quận lỵ
Sơn Hà? Chỉ mới có một nhóm khoảng 200 người được trực thăng đưa
thẳng về Tuy Hoà.
Tin của bản báo đặc phái viên
Nguyễn Tú, điện về toà soạn đêm Thứ Năm (20/3) cho hay các chi
tiết sau đây:
“Trận mở đường máu để thoát
khỏi cuộc tấn công bất ngờ của Cộng quân và người Thượng phản
loạn đã kéo dài từ chiều 18 qua sáng 19/3. Phần lớn đoạn đầu đã
vượt qua lưới lửa, tiến về Đông. Phần còn lại ở phía sau phải
băng rừng để vượt đi. Bản báo ĐPV Nguyễn Tú cùng chạy với đoạn
hậu này. Và đây là thêm chi tiết về trận chiến ở Phú Bổn:
Hoả lực của Địa Phương Quân Thượng phản loạn, gồm từ các
loại súng của ta cho tới B41, AK47 của ‘địch’, bắn xối xả vào
đoàn xe. Đạn đại pháo Cộng quân từ bốn phía cũng xối xả dội
xuống. Nhiều chiếc xe trúng đạn bốc lửa biến thành những giàn
hoả nổ tung. Tất cả những người ngồi nêm chặt trên xe không
xuống được, gồm cả binh sĩ lẫn dân sự, già trẻ lớn bé nam nữ
cũng văng lên 4 phương 8 hướng với các mảnh vụn của xe.
Đông đảo đồng bào không có xe để đi, ngồi dọc hai bên lộ hoặc
mới nhảy từ xe xuống, bị những tràng liên thanh địch quạt ngang,
gục ngã từng loạt. Máu đã xối xả tuôn chảy trên mặt lộ như những
dòng suối nhỏ. Tiếng rít của đại bác, tiếng nổ của đạn nhỏ,
tiếng la hét của những người chưa chết, tiếng khóc của trẻ con,
tạo thành một âm thanh... địa ngục. Cuộc chống trả của Biệt Động
Quân kéo dài từ chiều 18 đến sáng 19, đoạn chót đoàn di tản mới
thoát được vô rừng.”
Bạn Nguyễn Tú kể tiếp:
“Chạy
miết một hồi, nhóm người chót còn lại khoảng 200 người leo được
tới đỉnh đồi Chu Dal. Khoảng cách từ thị xã Hậu Bổn tới đèo Chu
dal chỉ lối 10cs nhưng phải băng qua toàn rừng rậm, suối sâu.
Lối 11:00g trong ngày, nhóm người sống sót bắt liên lạc vô tuyến
được với trực thăng thám sát. Khoảng 03:00g, một đoàn trực thăng
phái tới cứu cấp.
Nhưng đỉnh đồi cheo leo và hẹp, việc
cứu cấp rất khó, số người ở dưới lại đông. Cuối cùng chỉ có một
số được bốc đi vì trời cũng đã tối. Công cuộc cấp cứu lại được
tiếp tục vào sáng hôm sau. Hiện số 200 đồng bào và binh sĩ ở Chu
Dal đã được đưa thẳng về Tuy Hoà”.
Ngoài tin của
Nguyễn Tú điện về. tin từ Tuy Hoà cho biết tất cả đoàn di tản
Kontum–Pleiku–Phú Bổn đã vào được địa phận an toàn của Phú Yên.
Tuy nhiên, tất cả xe cộ phải ngưng lại dọc sông Ba, vì Liên tỉnh
lộ số 7 vốn đã không được sử dụng từ nhiều năm nay vì lý do an
ninh. Tin này cũng cho biết: Đoàn xe và người đen như kiến hiện
bu quanh quận lỵ Sơn Hải chưa thể biết chắc bao giờ mới về được
Tuy Hoà, vì đoạn đường chót 40 cây số đang là vùng giao tranh ác
liệt giữa BĐQ, Bộ binh, và quân chính quy Bắc Việt. Theo nguồn
tin chính thức cho biết số dân Kontun, Pleiku di tản sẽ được tạm
trú tại Nha Trang.
***
Cùng trong số báo với bài
của Nguyễn Tú trên đây, Chính Luận đăng nguyên văn lời hiệu
triệu của Tổng thống Thiệu cùng đồng bào, với tựa đề 2 cột trang
1: Tổng thống Thiệu LÊN TIẾNG “Chỉ bỏ Kontum Pleiku
đồng bào cứ bình tĩnh”. Trong đó, có nói về Cao
Nguyên, như sau:
“Riêng về Cao Nguyên, nơi mà chúng
ta phải chiến đấu trong thế 1 chống lại 4, Quân Lực Việt Nam
Cộng Hoà buộc phải tái phối trí để bảo toàn lực lượng và tạo
điều kiện chiến đấu tự vệ hữu hiệu hơn trong giai đoạn này. Vì
vậy Quân Lực ta đã không cố thủ hai thị xã Kontum và Pleiku.
Tại các mặt trận khác, từ Trị Thiên qua vùng Duyên Hải QK2,
đến QK3, và QK4, chúng ta nhất quyết bảo vệ lãnh thổ đến cùng.
Những tin đồn bỏ Thừa Thiên, hay Đà Lạt, hoặc một vài nơi
khác chỉ là những tin đồn nhằm tạo hoang mang trong quần chúng
và hoàn toàn vô căn cứ.
Cho nên, tôi kêu gọi đồng bào hãy
bình tĩnh và vững tin với một ý chí chống Cộng dứt khoát, với
tình Quân Dân đoàn kết hy sinh trong chiến đấu, với sự sát cánh
hậu phương tiền tuyến, chúng ta sẽ không bao giờ để cho Cộng sản
xâm lược thôn tính miền Nam Tự Do thân yêu này.”
Tổng thống Thiệu đã nói quá đủ. Người viết xin miễn có lời bàn.
Lời giới thiệu |
Bài 1 |
Bài 2 |
Bài 3 |
Bài 4 |
Bài 5 |
Mục lục
D. Bài 3: Người Việt tàn sát người Việt
21/3/1975: Thiệt hại về người và
võ khí
Theo ghi nhận của Phạm Huấn vào ngày thứ 5 của
cuộc di tản trên Liên Tỉnh Lộ số 7:
80% lực lượng chiến
xa nặng M–48, M–41, và những khẩu đại bác khổng lồ 175ly của
Quân Đoàn II bị tiêu hủy. Hàng trăm ngàn tấn chiến cụ trở thành
tro bụi. Đoàn quân tinh nhuệ mũ nâu Biệt Động Quân, với 7 Liên
Đoàn, quân số khoảng 10 ngàn, bị thiệt hại gần một nửa. Đa số,
nếu không muốn nói là hầu hết, không được chiến đấu trực diện
với quân thù trong trận cuối cùng. Họ chết tức tưởi, oan nghiệt
bởi những trận mưa pháo của Bắc quân!
17:30g: 4 trái bom
của Không Quân (VNCH) thả trúng vị trí phòng thủ của 2 Tiểu Đoàn
BĐQ có chiến xa bảo vệ — 4 chiến xa M–48 bị cháy. BĐQ thiệt hại
rất nặng.
22/3/1975: Mặt trận Khánh Dương bùng nổ
Khánh Dương là một quận ở phía Đông Ban Mê Thuột, phía Nam Phú
Yên, và Tây–Bắc Nha Trang, thuộc tỉnh Khánh Hòa. Kế hoạch của
Tổng thống Thiệu là rút từ Cao Nguyên Kontum–Pleiku ở phía Bắc
xuống Duyên Hải, đánh chiếm lại Ban Mê Thuột, rồi cố giữ từ Tuy
Hòa xuống phía Nam. Lãnh thổ VNCH sẽ còn khoảng từ Vĩ Tuyến 12
tới Cà Mau. Nhưng Bắc quân đã dốc toàn lực, mở mặt trận Khánh
Dương, tiến thẳng xuống Nha Trang.
Theo Phạm Huấn:
22/3/1975, ba Sư Đoàn chính quy cộng sản Bắc Việt kéo về
Khánh Dương, với ý đồ tiến thẳng xuống miền Duyên Hải, và đánh
chiếm Nha Trang. Nha Trang mất, đương nhiên Bình Định Phú Yên
mất theo.
Đúng 7:30g sáng, một “trận địa chấn” kinh hồn.
Hàng ngàn trái đại bác của địch nã vào trên tuyến phòng thủ. Sau
đó là chiến xa, và biển người.
9:05g, Cộng quân bắn đại
bác 122ly vào Chi Khu Khánh Dương. Có báo cáo 12 chiến xa Bắc
Việt xuất hiện gần Khánh Dương. Địch không ngụy trang, tiếp tục
tiến về Khánh Dương.
10:00g: Lực lượng Chi Khu Khánh
Dương bỏ chạy.
11:45g: Nhảy Dù yêu cầu Không Quân đánh
một đoàn chiến xa BV, khoảng 20 chiếc, đang tiến về phía đèo
M’Drak.
14:00g: Một phản lực cơ rớt tại mặt trận Khánh
Dương.
14:15g: Thêm 7 chiến xa BV xuất hiện tại Bắc Khánh
Dương.
16:00g: Tại mặt trận Khánh Dương, có rất nhiều
chiến xa đủ loại của BV xuất hiện. Phía ta, chỉ có Thiết Vận Xa
M–113 chở quân; không có chiến xa nào thuộc loại M–48, M–41.
Ghi nhận vào cuối ngày:
– Đoàn quân di chuyển về Phú
Yên vẫn ngưng tại chỗ.
– Địa Phương Quân Ninh Thuận và
Khánh Hòa bị thiệt hại nặng.
– Mặt trận Khánh Dương nặng
nề. Chiến xa và những đoàn xe chở Cộng quân tiến tới từ khắp
hướng: Bắc, Đông, và Tây. Nhờ các phi công phản lực A–37 đã chặn
được sức tiến quân vũ bão của địch.
***
Cùng ngày
22 tháng 3/1975, Nguyễn Tú ghi lại tình cảnh của hàng ngàn người
dân khốn khổ, đi theo đoàn quân di tản từ Cao Nguyên xuống Duyên
Hải. Qua bài báo 3 cột trang nhất, tựa đề “Cả trăm ngàn người
kẹt lại Củng Sơn đang đỏ mắt nhìn về phía biển”, trên Chính
Luận, số báo đề ngày 25/3/1975, nguyên văn như sau:
CỦNG
SƠN, 22–3. – Đoàn quân xa và dân xa di tản từ Kontum, Pleiku,
Phú Bổn từ Chủ Nhật 16–3 đã tới địa phận Sơn Hòa thuộc tỉnh Phú
Yên. Quận lỵ quận Sơn Hòa mang tên Củng Sơn, cách tây tỉnh lỵ
Tuy Hòa khoảng 60 cây số. Hiện còn ba đoàn gồm hàng ngàn quân và
dân xa đậu tại ba đoạn khác nhau trên Tỉnh Lộ 7, giữa khoảng
Củng Sơn và Tuy Hòa.
Đổ dốc và chặt chốt
Các đoàn
xe đã phải đổ hai cái dốc trước khi tới bờ sông Ba để qua sông
sang quận Hiếu Xương, cũng thuộc tỉnh Phú Yên. Hai cái dốc đó,
một cái dốc tới 60˚, một cái tới 45˚, đã gây cho một vài chiếc
quân xa và dân xa khi đổ dốc mất thăng bằng lâm nạn, do đó cảnh
kẹt xe thêm trầm trọng. Nhưng rồi những chiếc xe lâm nạn đã tự
gây thêm chết chóc đó cũng được kéo qua bên để các đoàn xe sau
từ từ đổ hai dốc.
Hiện Công Binh của ta đang trải những
vỉ sắt trên khúc sông Ba nơi nước tương đối cạn. May là mùa khô
nước cạn, nếu gặp mùa mưa thì đoàn xe khó có lối thoát. Một số
gia đình binh sĩ và các thương binh khoảng 500 người đã được
trực thăng cấp cứu di tản về Tuy Hòa.
Cả trăm ngàn người,
hàng ngàn quân xa và dân xa vẫn còn bị kẹt bên bờ sông Ba, trong
khi quân tỉnh đội cộng sản tại Phú Yên phục kích một quãng đường
dài 10 cây số cách tây Tuy Hòa khoảng 15 cây số. Thành phần cộng
sản phục kích tại đoạn đường này gồm hai Tiểu đoàn địa phương
K13 và 96 thuộc lực lượng tỉnh đội cộng sản. Địa Phương Quân của
ta tại Phú Yên được phi pháo yểm trợ đang gắng sức đánh bật các
chốt phục kích này để mở đường cho đoàn quân và dân xa chạy được
về Tuy Hòa. Cho tới hôm nay, các chốt của địch quân vẫn chưa
thanh toán được hết. Trong khi đó, Chuẩn tướng Phạm Duy Tất đã
tổ chức phòng tuyến ở đoạn hậu gồm có các chiến sĩ BĐQ và Thiết
Kỵ để bảo vệ cho đoàn xe an toàn trong lức chờ khúc dưới được
giải tỏa chốt của Cộng quân.
Đoạn hậu
Trục giao
thông từ Củng Sơn tới bờ sông Ba sang quận Hiếu Xương đã được
các chiến sĩ BĐQ và Thiết Kỵ giữ an ninh cho các đoàn xe và đồng
bào vượt lên trước. Đoạn hậu của lực lượng BĐQ thuộc Liên Đoàn
22 đi bộ từ Kontum qua Pleiku, Phú Bổn, sau bảy ngày đi bộ băng
rừng, thành phần tiền phong đã bắt tay được với một đơn vị BĐQ
tại Sơn Hòa. Sư [Liên] Đoàn 22 BĐQ đã băng rừng hơn 300 cây số
dẫn dắt một số đồng bào đông đảo chưa thể ước lượng được là bao
nhiêu. Trong khi đó, nhiều thành phần của SĐ 320 chính quy BV
đang cố gắng từ Ban Mê Thuột thốc lên bôn tập đoạn hậu, quân của
Tướng Tất có nhiệm vụ trì hoãn chiến với địch khi chúng xuất
hiện. Đó là Liên Đoàn 22 BĐQ của ta như đã nói trên. Tính tới
hôm nay, vào khoảng 50 chiến sĩ của LĐ này đã hy sinh khi chạm
súng với địch quân trong cuộc băng rừng dài hơn 300 cây số và
thi hài họ đã được chôn cất trong rừng. Khoảng 50 chiến sĩ khác
bị thương. Liên lạc vô tuyến cho biết, tất cả 50 chiến sĩ bị
thương này được các chiến hữu dìu, cõng, cáng, không bỏ lại một
ai. Do đó cuộc Đông tiến của LĐ 22 BĐQ đi hậu tập để trì hoãn
chiến với địch quân đang gặp khó khăn. Cuộc giải tỏa 10 cây số
chót của Cộng quân gần thị xã Tuy Hoà phải gấp rút thanh toán
trong một hai ngày, nếu không, ta e ngại có thể bị Cộng quân
pháo kích vào các đoàn xe. Dù chỉ với cối nhẹ 60 hay 82ly, cuộc
pháo kích này, tới nay chưa xảy ra, có thể gây hỗn loạn và chết
thảm của đám đồng bào đã cố lết về được ranh giới miền “Tự do
Dân chủ” là thị xã Tuy Hòa. Những người không có xe, đi bộ bằng
phương tiện thiên nhiên là đôi chân của họ, vợ chồng bồng bế dắt
díu con thơ cùng các ông già bô lão đã lội qua những chỗ khúc
sông cạn nước tiếp tục thất thểu, ngác ngơ hy vọng lết được đến
Tuy Hòa.
***
23/3/1975: Chặn Cộng quân bằng bom
CBU
10:30g: Tướng Phú bay đến Phú Yên. “Đại tá Tỉnh
Trưởng vẫn quần áo đẹp, giầy ‘láng coóng’ tường trình các ‘chốt’
gần Tuy Hoà... Cực kỳ nan giải. Tiểu Đoàn Địa Phương Quân Phú
Yên bị thiệt hại khá nặng. Tinh thần xuống dốc. Bi thảm!”
12:45g, Tướng Phú bay trên vùng Củng Sơn quan sát đoàn xe di
tản. Trở ngại quan trọng cho cuộc rút quân, cây cầu dài 300
thước trên sông Ba, hy vọng xong đêm nay.
14:00g, xe kéo
pháo và chiến xa địch kéo về Tây–Bắc Khánh Dương.
14:30g,
Sư Đoàn 23 và Bộ Chỉ Huy các Tiểu Đoàn Địa Phương Quân rút khỏi
mặt trận Khánh Dương, làm Tướng Phú nổi giận.
16:05g: 8
quả bom CBU (Cluster Bomb Unit – Đơn vị Bom Chùm) vừa được thả
xuống các “chốt” quan trọng của Cộng quân, cách 5 phút một quả.
Đây là loại bom mới, cực mạnh, đắt tiền, và “vô cùng... hữu
hiệu”, giúp các lực lượng đánh chốt lên tinh thần.
24/3/1975: Qua cầu và phá Chốt 42
9:30g: Cây cầu dài nhất
trên Liên Tỉnh Lộ 7 đã làm xong. Hy vọng đoàn xe về tới Phú Yên
hôm nay.
9:45g: Thời tiết xấu. Phi tuần đánh bom CBU
trước 10:00g không thực hiện được. Chốt gai góc nhất còn lại, là
“chốt 42”, Đồn Đại Hàn cũ, có giao thông hào và kiên cố “Đặc
công Việt cộng tới sát đoàn xe, ném lựu đạn và bắn súng nhỏ vào
đồng bào. Thương vong gần 100 người.”
13:30g: Đích thân
Tướng Phú gọi cho Đại tá Thảo, Chỉ huy trưởng Căn Cứ Không Quân
Phan Rang, khẩn thiết yêu cầu cho 10 phi tuần A–37 đánh Chốt 42,
để đoàn xe có thể đi qua, trước khi Cộng quân kéo tới đánh phá.
15:45g: Tin vui, phi tuần CBU 55 chuẩn bị cất cánh tại Phan
Rang. Sau đó là những phi tuần bom lửa (Napalm), dẹp chốt 42 để
đoàn xe qua.
16:03g: Tin sét đánh! Đang đợi A–37, Tướng
Cầm, Phụ tá Tướng Phú thất thanh báo cáo: “Chiến xa cộng sản
BV... bôn tập phía sau đoàn xe”!
Điều lo sợ mà Nguyễn Tú
viết ngày 22–3 là nó chưa xảy ra, bây giờ, nó bắt đầu xảy ra vào
chiều 24–3.
Lời Phạm Huấn: Bắc quân từ khắp ngả kéo tới,
sau những trận pháo như mưa vào đoàn người, đoàn xe. Lực lượng
địch hôm nay thật hùng hậu. Có ít nhất là hai Trung Đoàn của SĐ
320 cộng sản BV, và những đơn vị pháo, đã bám sát đoàn xe, từ
ngày thứ ba của cuộc rút quân. Sự hiện diện của SĐ 320 tại Khánh
Dương, chỉ là một phần của SĐ này; cùng với các SĐ F10 và 316
cộng sản BV.
15 phút đầu của trận tấn công ban ngày này,
Bắc quân cắt đoàn xe thành ba khúc. Bốn chiến xa M–41 còn lại bị
bắn cháy, làm tắc nghẽn đường rút quân. Phía sau, và Bộ Chỉ Huy
Hành Quân BĐQ bị đánh nặng nhất. Chỉ huy cuộc rút quân, Tướng
Phạm Duy Tất, bây giờ là... Tiểu đoàn trưởng. Ông và Đại tá Cao
Văn Ủy (Phụ tá Tướng Tất), cùng chỉ huy một Tiểu Đoàn BĐQ và Bộ
Tham Mưu vừa đánh, vừa chạy. Kinh hoàng và hỗn loạn. Tiếng kêu
khóc, rên xiết, thảm thương... vang động một góc trời, tạo thành
một thứ âm thanh ai oán, chết chóc.
17:01g: Tiếng phản
lực cơ gầm thét. Hai cánh đại bàng xuất hiện. Cứu tinh tới!
Những người dân khốn khổ, những quân nhân tài xế quân xa, và
những người lính đi với gia đình, quên cả nguy hiểm, ngẩng đầu
lên nhìn đoàn chim cánh thép. Lẫn trong tiếng than khóc kinh
hoàng, còn có cả những tiếng hò hét, hô hoán, vang lừng...
Mục tiêu chính là chốt 42, và phi tuần đầu là đánh CBU,
nhưng qua máy truyền tin, hai phi công biết quân dân bạn đang
gặp nạn phía dưới, đã áp dụng kỹ thuật “dương Đông kích Tây”,
nhào lên lộn xuống nhiều lần, làm Bắc quân hoang mang. Lợi dụng
tình thế, BĐQ chỉnh đốn lại hàng ngũ. Trước khi 8 trái CBU đánh
thẳng vào mục tiêu chốt 42. Tiếp theo là những phi tuần bom
thường và bom lửa, giúp các chiến sĩ BĐQ chặn được cuộc tàn sát
tập hậu của Cộng quân. Nhưng một trái bom đã rơi trúng vị trí
một Đại Đội quân bạn. Thương vong, đau đớn!
Khi đoàn chim
sắt đã bay đi, anh em BĐQ vẫn giao chiến với Bắc quân ở một làng
phía Nam Củng Sơn.
19:00g: Đoàn xe mới sang sông khoảng
1,000 cái. Chưa biết rõ kết quả đánh chốt 42. Trời tối. Chuẩn bị
chiến đấu tại chỗ.
20:00g: Tướng Phú than “Đau đớn, thất
bại”. Đồng bào tràn đi... vô tổ chức, không giữ được trật tự, kỷ
luật.
24:00g: Tướng Tất cho biết, hy vọng cả đêm sẽ sang
sông được 2,000 xe.
25/3/1975: Tả tơi tới đích Tuy Hòa!
Sáng 25–3, ngày thứ chín của cuộc di tản, vẫn chưa biết rõ
kết quả vụ đánh bom chốt 42 hôm trước.
10:00g: Đại tá
Cao Văn Ủy, Phụ tá Tướng Tất tường trình: Hầu hết xe quân đội
đã sang sông, khoảng 2,000 cái. Tướng Tất ra lệnh: “Mở đường
máu” để tiến vào Phú Yên.
11:00g: Tất cả xe quân đội đã
qua sông, chỉ còn xe dân sự.
13:00g: Lực lượng chiến xa
dẫn đầu đoàn xe, đoàn quân về tới Tuy Hòa! Hò hét, reo mừng. Hân
hoan lộ trên nét mặt mọi người.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là
lực lượng chiến xa dẫn đầu đoàn xe về tới Tuy Hòa. Đoàn xe vẫn
còn kẹt chốt ở Phú Thứ. Những chiếc đầu tiên chỉ về tới Tuy Hòa
vào lúc 17:30g. Rồi xe, quân, và dân, tiếp tục tiến về suốt đêm,
cho đến sáng hôm sau.
– “Đại Lộ Kinh Hoàng” ngoài Huế: 2
ngày, 15 cây số.
– “Liên Tỉnh Lộ Máu 7” Pleiku–Phú Yên: 9
ngày, 9 đêm, 300 cây số!
Kiểm điểm thiệt hại về chiến xa,
theo Phạm Huấn:
Khi rút khỏi Pleiku sáng 17/3/1975, Lữ
Đoàn II Thiết Kỵ QĐ II có hơn 100 chiến xa đủ loại, với những
chiến xa nặng tối tân, như M–48 và M–41. Trưa 25–3, về tới Phú
Yên, chỉ còn 13 Thiết Vận Xa M–113.
Về người, hàng trăm
ngàn dân, tuy đã bị Chính Quyền Trung Ương định “cho ‘thằng’
cộng sản”, không biết chắc có bao nhiêu ngàn đã tự ý ra đi với
đoàn quân, và bao nhiêu người đã thiệt mạng trong chín ngày đêm
trên Tỉnh Lộ Máu và núi rừng lân cận.
1/4/1975: Quân Đoàn
II... không còn nữa!
Tuy đoàn di tản, sau bao cực khổ và
chết chóc, cuối cùng đã về tới đích Tuy Hòa. Nhưng nơi đây không
còn là đích an toàn như dự kiến. Khắp nơi, từ Quảng Trị, Huế, Đà
Nẵng, đến Đà Lạt, Nha Trang, nơi nào cũng đã, hoặc đang bỏ chạy.
Thành ra, di tản cũng như không!
Suốt một tuần sau khi
đoàn di tản về tới Tuy Hòa, theo Phạm Huấn, “Tướng Phú như một
người bị... rối loạn!!!” Ông không biết làm gì, cư xử ra sao,
cho đến chiều ngày 1 tháng 4, 1975.
17:50g: Tướng Phú tới
Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Không Quân, gần phi trường Nha Trang. Tuy
có báo trước, nhưng không thấy ai chờ đợi hay đón tiếp như
thường lệ. Vào văn phòng, Tướng Phú hất hàm hỏi:
– Có
chuyện gì xảy ra?
Tướng Nguyễn Văn Oánh, Chỉ huy trưởng
Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, đáp:
– Tôi
muốn thưa với Thiếu tướng, tôi được chỉ định làm Tư Lệnh Mặt
Trận Nha Trang, vì Quân Đoàn II... không còn nữa!
Vẫn
theo Phạm Huấn: Phần còn lại của Quân Đoàn II được sáp nhập vào
Quân Đoàn III trong một lễ bàn giao tại Phan Thiết, giữa Tướng
Phú và Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III, vào sau
2:00g trưa, ngày 2/4/1975, kết thúc đời binh nghiệp của Tướng
Phạm Văn Phú.
Tướng Phú đã tự tử chết tại Sài Gòn, trưa
30/4/1975, sau khi nghe Trung tướng Dương Văn Minh đầu hàng
cộng sản.
***
Trong bài gửi đi từ quận Hiếu Xương
ngày 25–3, đăng trên Chính Luận, với tựa lớn ba cột trang nhất
100 NGÀN NGƯỜI ĐÃ VỀ TUY HÒA, và đoạn cuối bài, với tựa nhỏ:
Địch “thắng” lớn
Nguyễn Tú viết:
Trong khi
chốt cuối cùng của địch bị tiêu diệt vào ngày 25 tháng 3, dù đã
được khuyên “không nên mạo hiểm, phải chờ giải tỏa”, một số đồng
bào khoảng 100 người, gồm già trẻ lớn bé, đi bộ hoặc đi xe 2
bánh, sau khi qua được cầu nổi để tới hữu ngạn sông Ba, đã theo
lộ 436 đi luôn. Tới núi Hương, tức cách ngã ba Quốc Lộ 1 và lộ
436 vài cây số, đoàn người đã bị đại liên địch của chốt chót này
quạt liên hồi. Dường như tất cả đã bị tàn sát. Có lẽ không ai
chạy thoát.
***
Phạm Huấn và Nguyễn Tú
Vào
lúc 20:00g ngày 21 tháng 3, 1975, là ngày thứ năm của cuộc di
tản, Phạm Huấn viết về Nguyễn Tú:
Những bài báo ký giả
Nguyễn Tú viết về Đoàn Quân triệt thoái đăng trên báo Chính
Luận, được Đài Phát Thanh Hà Nội và Đài Phát Thanh Giải Phóng
đọc nguyên văn. Tướng Phú gọi tôi khiển trách: “Tôi bị phiền
nhiều quá vì báo chí... Các Anh!”
Tôi yên lặng chịu trận,
Ký giả lão thành Nguyễn Tú là người tôi rất kính trọng – Mùa
Xuân vừa rồi, ông đã ăn Tết với anh em Biệt Động Quân cả... tuần
lễ tại Mặt Trận Bắc Kontum – Khi đoàn quân tăng viện xuống Phước
An, Ông yêu cầu được nhảy theo đơn vị đầu tiên.
Hôm rời
Pleiku, tôi “gởi” ông... bay theo Tướng Tất. Nhưng sau đó, ông
đã xin đi theo đường bộ với Đoàn Xe, và những đơn vị Biệt Động
Quân.
Những bài báo ông viết rất có giá trị. Đó cũng chỉ
là một phần của đau thương, kinh hoàng... đã xảy ra trong cuộc
rút quân, trên con đường của Tử Thần: Liên Tỉnh Lộ 7!!!
***
Tại sao Đài Hà Nội và Đài Giải Phóng cho đọc nguyên
văn những bài của Nguyễn Tú?
– Vì họ nghĩ rằng nội dung
những bài đó có lợi cho họ.
Lợi ở chỗ nào?
– Nêu
cao được chiến công của họ trong sứ mạng giải phóng Miền Nam.
Chiến công gì?
– Giết được nhiều quân dân địch. Đúng
với chủ trương đường lối của Đảng:
Giết, giết nữa, bàn
tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao Chủ tịch,
thờ Sít–ta–lin bất diệt.
–Tố Hữu
***
Không phải
Quân Nguyên, Quân Thanh đánh Quân Nam.
Sau Hiệp Định Genève
1954, không còn Quân Pháp đánh Việt Minh.
Sau Hiệp Định Paris
1973, không còn Quân Mỹ đánh Việt cộng.
Năm 1975, chỉ có
người Việt giết người Việt.
Chính xác hơn: cộng sản Việt giết
dân Việt, từ cả hai phía, Bắc và Nam.
Dân Bắc bị đẩy ra
trận, giết dân Nam.
Đảng là “Bên Thắng Cuộc”.
Dân là bên
thua cuộc, là “thế lực thù địch”.
“Công An Nhân Dân chỉ biết
còn Đảng còn mình”.
1975: Bên thua cuộc, ai chưa chết, đi
tù.
2025: Tác giả “Bên Thắng Cuộc”, cũng ở tù!
Hầu
hết Tướng Bắc, Tướng Nam không còn nữa.
Chỉ còn Đảng!
50
năm, mỗi 30 tháng Tư,
Kỷ niệm tưng bừng!
Tôi bước đi
Không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu
cờ đỏ. –Trần Dần (“Nhất Định Thắng”)
Màu máu!
Lời giới thiệu |
Bài 1 |
Bài 2 |
Bài 3 |
Bài 4 |
Bài 5 |
Mục lục
E. Bài 4: Mùa chịu nạn, mùa giải phóng
I.
Chuyện xưa
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là
luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán,
nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi
khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp.
Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng
(Nguyễn Ngọc Dũng: 1931–2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên
các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết
tại toà soạn, hỏi: Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?
Sắp đến Lễ Phục Sinh, lại gặp lúc tình
hình đất nước quá bi đát, nhất là sau những trận mưa pháo tàn
sát dân quân di tản từ Pleiku–Kontum mới xảy ra trên đường số
7, được mô tả tỉ mỷ qua những bài Nguyễn Tú gửi về, tôi trả lời:
Ông theo đạo Phật, nhưng chắc cũng biết Tượng Chịu Nạn của Công
Giáo, Chúa bị đóng đinh trên Thập Giá như thế nào. Ông có thể vẽ
cảnh này, nhưng trên Thập Giá, thay vì Chúa, là Việt Nam bị đóng
đinh.
Tôi còn
góp một số chi tiết: Phía Bắc VN, giáp giới với Tầu, giống hình
nón, có thể vẽ thành cái nón cho người dân Việt khốn khổ đội.
Thân hình người bị đóng đinh oằn đi vì đau đớn, là bản đồ VN.
Phía dưới, “vòng số 3” gồm cái rún là Sài Gòn, và đồng bằng Sông
Cửu Long. Thêm tay chân chỉ còn da bọc xương, là có một cảnh
“Việt Chịu Nạn” hoàn hảo.
Qua hình ảnh quen thuộc về cuộc khổ nạn
của Chúa, Giáo Dân còn thấy mấy tên lính, một tên cầm giáo, đứng
dưới chân Thập Giá, ngửa mặt nhìn lên. Theo dõi khi nào nạn nhân
thực sự qua đời. Nhóm này thường được gọi chung là “quân dữ”.
Tôi đề nghị với Ngọc Dũng, đám “quân
dữ” này, ông chỉ cần vẽ ba tên: Một tên, mặc quần áo cao bồi,
đeo súng ngắn; ông biết là ai rồi. Hai tên kia, mập, y phục và
dáng vẻ lãnh tụ; ông cũng biết họ là ai rồi. Thế là đủ.
Đã có đề tài, Ngọc Dũng vui vẻ chào,
vội ra về, để vẽ.
Đêm hôm đó, ba người
của Chính Luận bị bắt, trong đó có tôi.
Trên báo Chính Luận, số đề ngày
28/3/1975, phát hành chiều 27–3, mẩu tin một cột bên cạnh tên
báo, viết:
Đêm
qua nhà chức trách Bắt giữ 3 ký giả NHẬT BÁO CHÍNH LUẬN
SAIGON. 27–3, – Đêm
qua, nhà chức trách đã bắt giữ ba ký giả hiện đang cộng tác với
nhật báo Chính Luận. Ba ký giả đó là các ông Đậu phi Lục, Nguyễn
hữu Dương, và Đinh từ Thức.
Gia đình ba ký giả trên đã cho biết
việc bắt giữ xảy ra vào khoảng 1 giờ đêm sau khi xét nhà lâu
khoảng 1 tiếng đồng hồ. Cũng theo tin trên, biên bản xét nhà ghi
nhận không thấy có tang chứng gì về tình trạng bất hợp pháp của
các người bị bắt.
Chúng tôi đã không bị bắt vì hí hoạ của
TUÝT, mà là nạn nhân của “chiến dịch Trường Giang”, một cuộc tảo
thanh loại trừ “âm mưu đảo chính”. Một “âm mưu” tưởng tượng của
vị Tổng thống cực kỳ lo sợ đảo chính, sau khi chính ông đã tham
dự và chứng kiến hậu quả cuộc đảo chính đẫm máu 1963 (Tôi đã
viết về điều này trong loạt bài “Từ trại giam đến trại Guam” vào
tháng 2, 2015).
Cũng trên trang 3 cùng số báo này, có
đăng biếm hoạ “Việt Chịu Nạn” của TUÝT.
Tất nhiên, tôi đã không được nhìn thấy
bức biếm hoạ trên đây cho đến mấy chục năm sau, khi tìm lại được
Chính Luận trong kho sách của Quán Ven Đường, khi cả Ngọc Dũng
và những người bị bắt với tôi đều không còn nữa. Nửa thế kỷ sau,
nhìn hình vẽ cũ, không phải chỉ nhớ đến những người bạn ở Chính
Luận đã ra đi, mà nhớ đến cả một “Mùa Chịu Nạn” của hàng trăm
ngàn người Việt đã tức tưởi ra đi. Ra đi trên núi rừng Trường
Sơn; với niềm tin bị nhồi sọ là “giải phóng Miền Nam”, ra đi
trên “Đường Máu số 7”; để khỏi bị “giải phóng”, và ra đi trên
Biển Đông; liều chết để tìm lẽ sống. Buồn khôn tả!
Chúa chịu nạn, sau ba ngày, sống lại.
Việt chịu nạn, sau 50 năm, bao giờ thoát nạn?
***
II. Chuyện nay
Phần trên là chuyện cũ ở VN.
Phần này là chuyện hiện tại.
Trước hết, mời quý bạn đọc coi một biếm
hoạ, do Trí tuệ Nhân tạo (Artificial Intelligence=AI) vẽ, theo
lời yêu cầu của người viết, mô tả hoàn cảnh nước Mỹ vào thời
gian trước cuộc bầu cử năm ngoái.
Cuối loạt bài về cuộc bầu cử Tổng thống
Mỹ vào tháng 11 năm 2024, người viết đã đề cập tới hình ảnh nước
Mỹ như một người khổng lồ nặng 250 kí lô, bị vấp ngã. Vấp ngã là
chuyện thường xảy ra trong cuộc sống mọi người. Với bọn trẻ,
mỗi khi ngã, có thể bật dậy ngay, phủi bụi trên quần áo, rồi
tiếp tục cuộc chơi. Nhưng với người già, hoặc thân thể quá đồ
sộ, chẳng may bị ngã, thường không tự mình dậy được, cần phải có
nhiều người hợp sức vực dậy. Nếu không được cứu cấp kịp thời, có
thể nguy tới tính mạng.
Những nền dân chủ non trẻ, như Đại Hàn,
có sức phục hồi vô cùng mau lẹ. Mỗi khi bị vấp ngã, có thể bật
dậy ngay. Thí dụ gần nhất, mới tháng 12 vừa qua, Tổng thống Đại
Hàn Yoon Suk Yeol, cảm thấy bị bó tay, khó làm việc, vì đảng cầm
quyền của ông thuộc phe thiểu số tại Quốc Hội. Chả hiểu nghe ai
xúi dại, vào hồi 10 giờ đêm tối Thứ Ba, mùng 3 tháng 12, 2024,
giống một cuộc đảo chánh qua làn sóng điện, Tổng thống Yoon đã
truyền đi một thông điệp làm sửng sốt mọi người. Mở đầu, ông tấn
công đảng đối lập về đủ thứ tội, như tham những, bất tài, và
quan trọng nhất, là đã ngăn cản, làm trì trệ những kế hoạch an
dân giúp nước của ông. Cho nên, ông phải công bố tình trạng
Thiết Quân Luật, để khai thông những bế tắc, hầu có thể đem lại
hạnh phúc và thịnh vượng cho dân, cho nước. Tiếp theo, để thực
hiện Lệnh Thiết Quân Luật, là lệnh đặt sinh hoạt truyền thông
dưới sự kiểm soát của quận đội. Cấm tụ họp, cấm biểu tình... Cả
Quốc Hội cũng bị bao vây.
Bất chấp giữa đêm Đông giá lạnh, dân
chúng đã truyền tin dữ cho nhau, ùn ùn kéo tới Quốc Hội. Nhiều
dân biểu vượt vòng vây, trèo tường vào phòng họp. Sau nửa đêm,
đã có đủ túc số, mở phiên họp bất thường, và đến 1 giờ 02 sáng
mùng 4, Quốc Hội đã biểu quyết chặn Lệnh Thiết Quân Luật của
Tổng thống. Đến 4 giờ sáng, Tổng thống phải tuyên bố rút lại
Lệnh này. Cuộc xáo trộn chỉ tồn tại trong 6 giờ.
Nhưng không phải thế là xong; kẻ làm ẩu
phải chịu hậu quả. Năm ngày sau, 7/12/2024, Tổng thống Yoon Suk
Yeol đã bị Quốc Hội đàn hạch (impeached), với hàng chục Dân Biểu
thuộc đảng của tổng thống đã bỏ phiếu cùng phe đối lập. Một tuần
sau, ngày 14/12/2024, Tổng thống Yoon bị Quốc Hội bỏ phiếu truất
phế. Ông đã bị bắt, rồi được tại ngoại. Vào ngày Thứ Sáu,
4/4/2025, toàn thể Viện Bảo Hiến (Constitutional Court), tương
đương Tối Cao Pháp Viện, đã ra phán quyết chót: Chấp thuận quyết
định truất phế tổng thống của Quốc Hội. Sẽ bầu tổng thống mới
trong 60 ngày. Cậu bé Dân Chủ Đại Hàn đã giải quyết một chuyện
quan trong như vậy, chỉ trong đúng bốn tháng. Đây là lần thứ nhì
Đại Hàn truất phế tổng thống đương nhiệm theo thủ tục pháp luật.
Lần trước xảy ra vào năm 2017, với Tổng thống Park Geun–hye, vì
tội tham những.
Trong khi một nền dân chủ già nua và
nặng nề như Hoa Kỳ, cũng đã bị vấp ngã, và mất bốn năm, vẫn
không ngồi dậy được.
Qua bầu cử tổng thống tháng 11 năm
2020, Joe Biden đã thắng cử rõ ràng, bằng cả phiếu cử tri đoàn:
306 trên 232, và phiếu đại chúng: 81 triệu 283 ngàn 501 phiếu,
so với 74,223,975 phiếu của người về nhì. Cuộc bầu cử đã diễn ra
khi ông Trump là tổng thống, có nghĩa là khó có mưu mô gian lận
nào có thể qua mặt được hệ thống kiểm soát của chính quyền đương
nhiệm. Nhưng người thất cử đã nhất định không chịu thua, lớn
tiếng tố cáo rằng phần thắng đáng lẽ thuộc về mình, đã bị đối
phương ăn cắp, mặc dù không nêu được bằng chứng gian lận nào.
Cuối cùng, ông đã hô hào một cuộc biểu tình lớn, mang danh “chặn
ăn cắp – stop the steal”, đưa đến bạo động tại Quốc Hội vào ngày
6 tháng 1, 2021, nhằm mục đích ngăn chặn thủ tục chính thức chấp
nhận kết quả bầu cử. Có xung đột với nhân viên công lực, có
người chết, và hư hại tài sản. So với vụ ban hành Lệnh Thiết
Quân Luật tại Đại Hàn ngày 3/12/2024, vụ 6/1/2021 trầm trọng hơn
nhiều. Nhưng trong bốn năm, chính quyền Biden kế nhiệm vẫn không
giải quyết dứt khoát được vụ này. Hệ quả là, trớ trêu thay, kẻ
phá luật lệ đã có thể tiếp tục cuộc chơi, trở lại nắm guồng
máy... thi hành luật! Đó là hình ảnh người khổng lồ ngã, mà
không dậy được.
Sau bầu cử, vào cuối tháng 1/2025, Chú
Sam giống người bị đột qụy, chỉ có nửa người còn cử động được,
nửa kia bất động. Đặc biệt, Chú trong tình trạng khoả thân, phơi
bày trước mắt mọi người đầy đủ các chi tiết vốn được che đậy
trên thân thể mình.
Trước kia, Bạch Ốc, nhất là Phòng Bầu
Dục, nơi làm việc của tổng thống, được coi là chốn thâm cung bí
sử. Hiếm người biết rõ mọi sự diễn ra ở đó, ngoài những tấm hình
đã được chọn lựa kỹ, hay bản thông cáo báo chí được chính thức
công bố. Tổng thống Franklin D. Roosevelt từng bị tê liệt, mà
trong hàng chục năm, chẳng mấy người dân biết ông phải ngồi xe
lăn. Ngay cả Đệ Nhất Phu Nhân Hillary, cũng không biết Tổng
thống Clinton đã tiếp ai ở đó. Vậy mà bây giờ, chẳng còn gì che
đậy nữa. Qua màn hình, người dân có thể nhìn rõ mọi sinh hoạt
diễn ra ở Phòng Bầu Dục. Có lúc giống như cảnh một vườn trẻ,
người lớn nói năng, khua chân múa tay trong một cuộc họp báo,
bên cạnh trẻ con chơi đùa. Có lúc giống cảnh tranh cãi hơn thua
tại một sòng bài, giữa hai vị nguyên thủ quốc gia, qua cuộc đối
thoại gay gắt:
– Anh có con bài nào đáng giá không?
– Tôi không chơi bài!
– Không chơi bài thì nhà anh vác mặt
đến đây làm gì?
Đại loại là như thế!
Qua cảnh trên đây, dân coi TV chợt nhớ
ra, đương kim tổng thống vốn là một chủ sòng bài vĩ đại. Bảy
chục năm trước, tại VN, Vua Bảo Đại đã toan trao vận mệnh Quốc
Gia cho ông chủ sòng bài Bảy Viễn, đi đến chấm dứt Nguyễn Triều.
Đặc điểm của những tay tổ cờ bạc, một khi được những người ngây
thơ hùn vốn để mong “làm giầu tắt”, thường chơi những nước bài
rất bạo. Vì đó là tiền bá tánh, không phải tiền túi cùa mình.
Thắng, mình hưởng trước. Thua, mình sướng tay và thiên hạ trắng
tay.
Năm 1955,
Nhà Nguyễn diệt vong, do Vua Bảo Đại tỏ ý muốn trao lá bài chủ
cho chủ sòng. Có “King” trong tay, Chú Bảy ra tối hậu thư, buộc
đối phương nhượng bộ trong 48 giờ. Nhưng Nam VN đã thoát hiểm
trong gang tấc, và sống thêm được 20 năm. Theo báo chí Mỹ hồi
đó, là nhờ Phép Lạ.
Bây giờ, Mỹ là một nước dân chủ; không
ai có lá bài King; chủ quyền thuộc về toàn dân. Qua cuộc bầu cử
năm ngoái, 77 triệu, 302 ngàn, 580 cử tri đã trao vận mệnh quốc
gia, cùng vận mệnh mình, và con cháu mình, vào tay một chủ sòng
bài vĩ đại, với hy vọng để làm cho nước mỹ vĩ đại trở lại. Bây
giờ, để thoát hiểm, Mỹ cũng cần một phép lạ. Xin Chúa ban Phước
Lành cho Hoa Kỳ!
Nhớ lại biếm hoạ “Việt chịu nạn” 50 năm
trước, người viết cũng muốn có một biếm hoạ nước Mỹ hôm nay,
nhưng TUÝT đã đi rồi, mà mình không biết vẽ. Đành lại phải nhờ
tới phát minh mới của thời đại là AI vẽ hộ.
Hì hục một lúc, AI trả lời không thể vẽ
theo lời yêu cầu.
Hỏi: Tại sao?
Đáp: Không vẽ quần áo, thì phải vẽ cả
bộ phận sinh dục, là phạm tội khiêu dâm.
Hỏi: Tránh vẽ bộ phận sinh dục, được
không?
Đáp:
Không thể!
Hỏi:
Tại sao?
Đáp:
Tổng thống đã ký pháp lệnh, quy định tất cả dân Mỹ chỉ có hai
giới, nam hoặc nữ. Mỗi người phải có bộ phận sinh dục định hình
rõ ràng, để khẳng định giới tính bẩm sinh. Ai không có, hoặc
chỉnh sửa nhập nhằng, là trái luật. Có thể bị trục xuất.
Tóm lại, rồi đây, ngoài yêu cầu trình
thẻ căn cước, người dân của nước Mỹ đã vĩ đại trở lại, còn có
thể bị yêu cầu khoả thân, để khám xem đích thực là nam hay nữ.
Đó là lý do, dù đã yêu cầu sự giúp đỡ
của AI, người viết vẫn không thể có hình Chú Sam bị đột qụy
trong tình trạng khoả thân.
III. Việt–Mỹ cùng giải phóng!
Khi tìm hiểu về chuyện cũ và mới, giữa
Việt Nam và Mỹ, người viết bỗng chú ý tới mấy sự việc khá đặc
biệt:
Việt Nam
xa Mỹ nửa vòng địa cầu, và vốn có thành kiến cho rằng Việt Nam
thua Mỹ về nhiều phương diện. Nhưng qua những gì đã được đề cập
tới, có những sự việc cho thấy Việt Nam đã đi trước Mỹ khá xa.
Chẳng hạn:
–
Bảy chục năm trước, Vua Việt Nam đã tin tưởng, chuẩn bị trao phó
sứ mệnh cứu nước cho một chủ sòng bài nổi tiếng. Bảy chục năm
sau, dân Mỹ mới bắt chước điều này.
– Nửa thế kỷ trước, nhà cầm quyền cộng
sản VN mừng chiến thắng “Giải Phóng Miền Nam” vào ngày 30 tháng
4, 1975. Nhờ biến cố này, hàng triệu người dân VN đã được giải
phóng khỏi cuộc sống an cư lạc nghiệp, giải phóng khỏi sự nghiệp
gò bó, giải phóng khỏi xí nghiệp, khỏi học đường để đi tù, hay
tự do đi vùng kinh tế mới. Thậm chí, nhiều người đã được giải
phóng khỏi mạng sống của mình! Tại “trại cải tạo”, hay ngoài
biển cả.
50 năm
sau, bốn tuần trước “Ngày Giải Phóng” 30 tháng 4 của VN, tại
Vườn Hồng Bạch Ốc, Tổng thống Mỹ cũng chọn “Ngày Giải Phóng” của
Mỹ, là ngày mùng 2 tháng 4: “Thưa các công dân Hoa Kỳ, đây là
Ngày Giải Phóng – đã chờ đợi từ lâu. Ngày 2 tháng 4, 2025 sẽ
được nhớ mãi như là ngày tái sinh của nền kỹ nghệ Hoa Kỳ, ngày
định mệnh Hoa kỳ được tái thu hồi, và là ngày mà chúng ta bắt
đầu làm cho nước Mỹ giầu có trở lại”. [*]
Ngày Giải Phóng của Mỹ ra đời sau Ngày
Giải Phóng của VN 50 năm. Ngày nào cũng có phần tốt, phần xấu.
Phần tốt là những lời hứa chưa thấy, và có thể không bao giờ
thấy. Phần xấu đã thể hiện tức thì. Ví dụ, chỉ vài ngày sau lời
hứa “chúng ta bắt đầu làm cho nước Mỹ giầu có trở lại”, thị
trường chứng khoán Mỹ đã bị xuống dốc, nghèo hơn vài ba ngàn tỉ!
Trong khi đó, hàng chục ngàn công chức chính ngạch đã được “giải
phóng” khỏi công việc vốn được bảo đảm là không thể bị sa thải
vô cớ. Đồng thời, hàng trăm sinh viên đại học nước ngoài, đã cố
tìm tới học hỏi những cái hay, cái đẹp, nhất là tinh thần Tự Do,
Dân Chủ tuyệt vời của Mỹ; đã được thể hiện qua các vĩ nhân, như
Washington, Lincoln...; đã bị thu hồi chiếu khán, được “giải
phóng” khỏi các khuôn viên Đại Học, được tức thì cho về nước
bằng máy bay miễn phí.
Ngay cả Nữ Thần Tự Do, vốn ra đời tại
Pháp, do cảm kích về tinh thần cao đẹp của Mỹ, đã tới đứng tại
Đảo Tự Do (Liberty Island) ở Cảng New York, từ hơn trăm năm qua,
ngày đêm giơ cao đuốc Tự Do, soi đường cho những ai trên thế
giới muốn tìm tới Tự Do. Để tránh bị nạn giải phóng trên đất Mỹ,
dân Pháp đã nghĩ tới việc vận động đón Tượng trở lại Châu Âu.
Dù sao, những ai đã hoàn toàn tin tưởng
vào khả năng lãnh đạo của Chính Quyền Mỹ hiện nay, vẫn có thể hy
vọng rằng, chỉ một thời gian ngắn nữa, Mỹ sẽ đuổi kịp Việt Nam
trên con đường giải phóng đất nước.
––––––––
(Cập nhật: Ngày 9 tháng 4,
2025, hồi 5:58g chiều, miền Đông)
[*]
Nguyên văn lời tuyên bố của Tổng thống Mỹ tại Vườn Hồng Bạch Ốc, ngày
2 tháng 4, 2025: “My fellow Americans, this is Liberation Day – waiting for a long time. April 2, 2025 will forever be
remembered as the day American industry was reborn, the day America’s destiny was reclaimed, and the day that we began to
make America wealthy again.”
Lời giới thiệu |
Bài 1 |
Bài 2 |
Bài 3 |
Bài 4 |
Bài 5 |
Mục lục
F. Bài 5: Phản bội thông minh
Nửa
thế kỷ trước, nước Mỹ đã không tôn trọng lời cam kết giúp VNCH
chiến đấu tới cùng trước làn sóng xâm lăng của cộng sản Thế
Giới. Nhiều người, cả Việt lẫn Mỹ, cũng như dư luận thế giới, đã
gọi đây là một sự phản bội đáng xấu hổ. Nhưng có học giả Mỹ đã
khẳng định: “sự phản bội của nước Mỹ đối với Nam Việt Nam là một
trong những điều thông minh nhất mà nước tôi đã từng làm”.
Trên đây là hình chụp lại bài báo ba cột, trang nhất báo The
Washington Post, số phát hành đề ngày Thứ Sáu, 17/, 1996, với
tựa chính: “Một Gia Đình Thành Công qua Bằng Cấp”, và tựa phụ:
“Tất cả Sáu Con của Người Việt Nhập Cư Tốt Nghiệp Từ U–Va”.
Xin được trình bày đầu đuôi câu chuyện. Vì chuyện có liên
hệ trực tiếp tới gia đình người viết, khi viết lại, cảm thấy một
chút ngại ngùng; giống chụp hình “tự sướng” để khoe bạn bè.
Nhưng, vì chuyện cũng liên hệ tới nhiều người, xưa và nay, nếu
bỏ qua trong “mùa kỷ niệm”, cũng cảm thấy thiếu sót, nên đành kể
lại. Nếu có điều chi sơ sót, mong được bạn đọc cho biết.
Chúng tôi có sáu con, khi tới Mỹ vào mùa Hè 1975, con lớn nhất
13 tuổi, con nhỏ nhất mới được 6 tháng. Được một xứ đạo ở
Alexandria, Virginia, ngoại ô Thủ Đô Washington, bảo trợ. Trong
gần hai năm đầu, chúng tôi đã làm đủ thứ công việc để gây dựng
lại cuộc sống. Nhà tôi; vốn là giáo sư trung học ở trường Trưng
Vương Sài Gòn; ngoài việc săn sóc đàn con mình, nhận coi thêm
một vài đứa trẻ tại nhà. Tôi làm cho Colonial Parking, một hãng
có nhiều nhà, và bãi đậu xe tại Washington, D.C.; lúc đầu làm
những việc vặt, như nhặt rác, cắt cỏ chung quanh bãi đậu xe, nửa
năm sau “lên chức” car attendant, lái xe của khách đậu vào chỗ,
rồi lấy xe trả khi khách trở lại; lương tối thiểu $2.50 một giờ.
Sau một thời gian học việc, nhà tôi làm kỹ thuật viên điện tử
(electronic technician), cho một hãng sản xuất đồ điện tử. Từ
đầu năm 1977, tôi kiếm được việc khá hơn, tại hãng Xerox.
Trong khi ấy, các con thấy bố mẹ cực nhọc, cố chăm chỉ học
hành. Lúc đầu, hơi vất vả, sau một vài niên khoá, cũng bắt kịp
bạn bè cùng lớp. Chúng tôi chia nhau, nhà tôi làm ca ngày, tôi
làm ca chiều; từ 4 giờ chiều tới nửa đêm. Lúc nào cũng có một
trong hai người ở nhà với bọn trẻ. Các con giúp đỡ lẫn nhau,
cùng lớn lên; cùng vào một trường trung học, cùng được nhận vào
hội “Học Sinh Danh Dự” (Honor Society), và cuối cùng, tất cả sáu
anh chị em cùng được nhận vào Đại Học Virginia (University of
Virginia: UVA). Đại Học này đã được tổng thống thứ ba của Hoa
Kỳ, Thomas Jefferson, thành lập tại Charlottesville, tiểu bang
Virginia, năm 1819. Đây là một đại học công lập khá nổi tiếng,
và sáu anh chị em cùng được thâu nhận vào học, là thành tích thứ
nhì một gia đình đã đạt được trong lịch sử gần 200 năm của
trường. Điều được nhiều người chú ý hơn, đây là một gia đình tị
nạn nhập cư với hai bàn tay trắng, đến từ Việt Nam; nơi từng bị
chiến tranh tàn phá trong nhiều năm, nơi từng có quân đội Hoa Kỳ
chiến đấu, và trên 58 ngàn chiến sĩ đã hy sinh tính mạng tại đó.
Con lớn nhất của chúng tôi vào UVA năm 1980, con nhỏ nhất ra
trường năm 1996. Con gái đầu ra trường năm 1984, rồi được nhận
vào cao học trường luật và tốt nghiệp năm 1987. Thành ra trong
suốt 16 năm, lúc nào cũng có từ một đến ba con ở trường; chúng
tôi đi về như con thoi giữa nhà và trường, cách nhau hai giờ lái
xe. Trong bài diễn văn dịp lễ tốt nghiệp của con trai út chúng
tôi, Anthony Thụy Đinh, tháng 5, 1996, Viện Trưởng John T.
Casteen III đã đề cập tới câu truyện những đứa con một gia đình
Việt tị nạn, đã đến đây, và mọi người đã cố gắng vươn lên như
thế nào. Hơn mười ngàn người hiện diện trên sân cỏ đã đứng lên,
cho một tràng pháo tay, vô cùng cảm động. Nhật báo Washington
Post, cũng như hãng truyền hình NBC, đã có tường thuật về chuyện
này.
Ít ngày sau, cháu Thụy nhận được lá thư từ một
người không quen biết, là Tiến Sĩ Robert T. Turner, Phụ tá Giám
Đốc Trung Tâm Luật An Ninh Quốc Gia, thuộc Trường Luật UVA.
Người viết tạm dịch phần chính của lá thư đề ngày 31–5, 1996,
như sau:
Hai mươi lăm năm trước, tôi là một đại úy Bộ
binh, phục vụ hạn kỳ thứ nhì tại Nam Việt Nam; và vào cuối tháng
Tư 1975, tôi rời Việt Nam lần cuối trong vụ di tản lần chót. Tất
cả, tôi đã tới Việt Nam năm lần giữa 1968 và 1975, và trong thời
gian ấy tôi đã có nhiều ngưỡng mộ và cảm tình với những người
tôi đã gặp ở đó.
Tôi chỉ muốn ông biết rằng tôi đã là một
trong những người đầu tiên đứng dậy hoan hô khi Viện Trưởng
Casteen thuật lại câu chuyện của gia đình ông. Nó thực sự đã
khiến tôi chảy nước mắt. Tôi biết rằng cha mẹ ông đã vô cùng
hãnh diện về những gì ông và các anh chị em của ông đã làm được
– và đúng thế, đó là một thành tựu đáng kể — nhưng tôi chỉ muốn
nói với ông rằng những cố gắng của ông cũng đem lại nụ cười trên
khuôn mặt những “người lạ”, những người quan sát từ bên lề.
Chúng tôi hoan hô ông tại lễ tốt nghiệp không phải chỉ vì chúng
tôi hãnh diện về những gì ông đã làm, nhưng còn bởi vì ông đã
làm cho chúng tôi có cảm tưởng tốt về nước Mỹ. Tôi cám ơn ông về
điều này.
Có một cảnh vào cuối cuốn phim The Green Berets
trong đó John Wayne nói với một đứa nhỏ “chính mày là lý do của
mọi hy sinh cho cuộc chiến này” (“You’re what this is all
about”). Đúng vậy, khi tôi tình nguyện phục vụ tại Việt Nam,
không phải để giúp ông Nguyễn Văn Thiệu nắm giữ quyền hành, mà
vì tôi đã nghĩ rằng tương lai của Nam Việt Nam sẽ khá hơn dưới
một xã hội dân chủ thay vì trong một chế độ độc tài. (Vào năm
1975 tôi đã viết một cuốn sách 500 trang, Vietnamese Communism:
Its Origins and Development – Chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam: Nguồn
gốc và Phát triển, khi tôi là một học giả của Viện Hoover tại
Stanford – nên đã nghĩ rằng tôi cũng có một chút hiểu biết về đề
tài được đề nghị.)
Khi Hoa Kỳ bỏ rơi Nam Việt Nam sau
1973, nhiều người trong chúng tôi đã cảm thấy rất tức giận – và
không ít ân hận – về những gì đất nước chúng tôi đã gây ra cho
một tập thể nhân hậu. Tôi vẫn còn cảm thấy tức giận (và không ít
ân hận) về Việt Nam; nhưng tôi chỉ muốn ông hiểu rằng ông và gia
đình ông đã làm rất nhiều để khiến tôi cảm thấy lạc quan hơn.
Tôi khen ngợi ông về những hy sinh và thành tựu đã đạt được, và
tôi chúc ông rất thành công trên bước đường thăng tiến của đời
mình.
Thụy đã viết mấy lời cảm ơn Tiến sĩ Turner, và lại
nhận được lá thư thứ nhì của ông, cũng viết trên giấy có tiêu đề
với địa chỉ của người gửi và người nhận như trước, đề ngày 28
tháng 6, 1996, nhưng với ngôn ngữ thân mật hơn. Dưới đây là bản
dịch phần chính lá thư thứ nhì:
Tôi đã nổi giận vào năm
1975. Tôi đã mong đợi nước tôi cư xử một cách danh dự và giữ
những cam kết của mình để bảo vệ tự do, và tôi đã xấu hổ về
những gì chúng tôi đã làm trong việc bỏ rơi những nước không
cộng sản tại Đông Dương. Một mặt, tôi rất vui khi nhìn thấy
những câu truyện thành công của người Việt tị nạn như bạn và gia
đình bạn. Nhưng, từ một cách nhìn khác, tôi nhận ra sự thành
công của bạn ở đây sẽ giúp cho nước Mỹ rất nhiều, hơn bất cứ
những gì chúng tôi đã làm để giúp bạn. (Gửi ra một chiếc thuyền
cấp cứu để vớt những người sống sót từ một chiếc tầu đã bị ta
sai lầm phóng thuỷ lôi đánh chìm, khó có thể coi là việc ban
ơn). Tôi nghĩ lịch sử sẽ chứng minh, từ quan điểm hẹp hòi và vị
kỷ của dân tộc Mỹ, rằng sự phản bội của nước Mỹ đối với Nam Việt
Nam là một trong những điều thông minh nhất mà nước tôi đã làm –
vì làn sóng những người Việt nhập cư sẽ chứng tỏ họ nằm trong số
những hàng “nhập cảng” giá trị nhất của chúng ta (nhấn mạnh của
người dịch).
Dĩ nhiên, bây giờ chẳng còn điều gì chúng
tôi có thể làm để sửa lại những sai lầm trong mấy thập niên
trước. Tuy nhiên, chúng ta có thể làm việc để bảo đảm rằng Chính
quyền của chúng ta sẽ hành xử một cách có danh dự trong những
năm sắp tới. Như Thomas Paine đã nhận định: “Một cách duy nhất
để ma quỷ chiến thắng là khi những nhân tài không làm gì cả”. Là
những người Mỹ với nền giáo dục xuất sắc, tôi hy vọng rằng bạn
và các anh chị em của bạn sẽ giữ vai trò chủ động trong mọi mặt
của đời sống Mỹ — và sẽ đóng góp để Chính quyền của chúng ta giữ
danh dự khi giao tiếp với thế giới trong những năm tới.
Hai lá thư của Tiến Sĩ Turner gửi cho con út của chúng tôi, tuy
đã viết từ 29 năm trước, nhưng có mấy điều vẫn đậm nét thường
trực trong đầu óc người viết:
– Sự phản bội của nước Mỹ
đối với Nam Việt Nam là một trong những điều thông minh nhất mà
nước tôi đã từng làm.
– Người Việt nhập cư sẽ chứng tỏ họ
trong số những hàng “nhập cảng” giá trị nhất của chúng ta.
– Chúng ta có thể làm việc để bảo đảm rằng Chính quyền của
chúng ta sẽ hành xử một cách có danh dự trong những năm sắp tới.
– Và sẽ đóng góp để Chính quyền của chúng ta giữ danh dự
trong khi giao tiếp với thế giới trong những năm tới.
Bây
giờ, 50 năm sau khi Nam Việt Nam bị phản bội, chính là “những
năm tới” của 1996. Rất nhiều người Việt nhập cư đã chứng tỏ, họ
là “những thứ nhập cảng” giá trị của Mỹ. Nhưng không phải chỉ có
người Việt nhập cư mới làm lợi cho Mỹ. Tất cả mọi người nhập cư
đều góp phần vào phúc lợi chung, là làm cho nước Mỹ thêm giầu,
mạnh, hạnh phúc, và luôn xứng đáng là người bạn tốt của mọi
người trên thế giới. Đó là lý do chính mà mọi người từ khắp nơi
đã tìm tới Mỹ, không phải tới đây để ăn hại hay làm loạn.
Nói về thành quả của những người nhập cư Mỹ thì quá nhiều,
không thể kể hết. Nổi bật hơn cả trong 50 năm qua, là Steve
Jobs; đã qua đời; cha đẻ của Apple, có người bố gốc Syria. Người
giầu nhất thế giới hiện nay là Elon Musk, cha mẹ gốc Nam Phi và
Canada. Những gì mà các con, nói chung, cả gia đình chúng tôi đã
có được chẳng đáng kể gì, so với nhiều người khác. Ngay trong số
những người bạn rất thân với chúng tôi, cũng không hiếm những
con cháu thành công vượt bực; mà tôi không dám nêu rõ tên, sợ
phạm tới đức khiêm nhường của các bạn quý.
Nhưng, trong
thành phần người Việt tị nạn tại Mỹ, có những người quá nổi
tiếng, dù khiêm nhường, vẫn không tránh khỏi “bị” nêu danh, như
Việt Đinh (không có liên hệ họ hàng với người viết), và thế hệ
kế tiếp, là Amanda Nguyễn. Việt Đinh được coi là luật gia số một
của Mỹ, và Amanda Nguyễn là nhà vận động nhân quyền, tác giả một
đạo luật bảo vệ nữ quyền, là khoa học gia, phi hành gia đã bay
vào không gian...
Từ mùa bầu cử 2024, Cộng đồng MAGA đã
nặn ra một mẫu người nhập cư là hiện thân của tất cả mọi sự xấu,
rồi biến hình mẫu này thành con ngáo ộp, để doạ nhũng cử tri dễ
tin và dễ sợ. Kết quả bầu cử ra sao, mọi người đã biết. Và những
người nhập cư đã là một thứ dê tế thần, để “Bên Thắng Cử” chứng
tỏ lời hứa tranh cử được thực hiện nghiêm chỉnh. Nhưng người mẫu
nhập cư do MAGA nặn ra, có thực sự phản ảnh người nhập cư trong
đời thật?
– Trước hết, bà mẹ của Việt Đinh đã không tới
Mỹ để làm “Welfare Queen”, như nhân vật sống như bà hoàng, nhờ
gian lận trợ cấp an sinh xã hội, mà ứng cử viên Ronald Reagan đã
mô tả trong mùa bầu cử 1976. Là thuyền nhân, bà đã liều chết
mang con tới Mỹ để tìm sự sống. Đã làm những công việc cực nhọc,
lương thấp, như hái trái cây tại các nông trại, may vá... để cố
nuôi con nên người.
– Người mẫu nhập cư của MAGA là những
kẻ có tiền án, giết người, hiếp dâm, buôn ma tuý, thành viên các
băng đảng khủng bố, hoặc nhẹ nhất là giết chó mèo của hàng xóm
để ăn thịt. Nói chung, là những kẻ trực tiếp đe doạ an ninh
thịnh vượng của xã hội Mỹ. Trong đời thực, Việt Đinh theo mẹ tới
Mỹ năm 1978, cùng với năm anh chị em khi mới 10 tuổi, cha là tù
nhân chính trị vẫn còn lẩn trốn ở VN. Tuy phải giúp mẹ làm việc
vặt, Việt Đinh vẫn xuất sắc trong việc học, đứng đầu lớp ở trung
học, được học bổng vào Harvard, rồi trở thành Phụ tá Bộ Trưởng
Tư Pháp ở tuổi ngoài 30. Chẳng những không thuộc thành phần phá
hoại, khủng bố, Việt Đinh đã là kiến trúc sư chính của USA
Patriot Act 2001 (Đạo Luật chống khủng bố, sau biến cố
11/9/2001).
– Cũng trái với người mẫu nhập cư do MAGA mô
tả, Việt Đinh không phải là một gánh nặng cho xã hội Mỹ, mà đã
tự mình tạo dựng một sản nghiệp lớn, bằng đầu óc của mình. Theo
mô tả của David Lat trên Original Jurisdiction, Việt Đinh là
luật gia số một tại Mỹ, và tiền lương năm 2019 là 24 triệu Mỹ
Kim. Khi chấm dứt nhiệm vụ Chief Legal Officer tại Fox
Corporation vào cuối năm 2023, Việt Đinh đã được trả 23 triệu MK
tiền mặt. Theo bản tin địa ốc The Real Deal, ngày 10 tháng 5,
2019, Việt Đinh đã mua một ngôi nhà tại Brentwood, CA, với giá
19.05 triệu MK.
– Thế hệ kế tiếp của thuyền nhân gốc Việt
cũng lẫy lừng không kém. Sinh ra tại California vào ngày Song
Thập (10/10) 1991, Amanda Nguyễn cũng xuất sắc trong việc học,
được nhận vào Harvard. Rồi không phải là kẻ gây ra tội ác như
mẫu người nhập cư của MAGA, mà là nạn nhân của một vụ hiếp dâm.
Sự việc đau buồn này đã biến Amanda thành một lãnh tụ vận động
nhân quyền, đưa đến sự ra đời của Sexual Assault Survivor’s
Right Act (Đạo luật về Quyền của Nạn Nhân bị Tấn Công Tình Dục),
được toàn thể lưỡng viện Quốc Hội thông qua, và Tổng thống Obama
ban hành vào tháng 10, 2016.
Theo Chanel Miller viết trên
báo TIME 2/3/2022: Vào năm 2016, Amanda Nguyễn đã ăn mừng một
thắng lợi quan trọng khi Tổng thống Obama ký Sexual Assault
Survivors’ Rights Act trở thành luật. Giúp thảo ra đạo luật này
để sửa lại cách lưu trữ bộ sưu tập chứng cớ tấn công tình dục ở
cấp liên bang, là cách phản ứng của cô sau khi được biết vào năm
2013, là bộ sưu tập về vụ hiếp dâm của chính cô sắp bị loại bỏ.
Người đứng đầu tổ chức bất vụ lợi Rise về quyền dân sự không
dừng lại ở đó. Cho đến nay, Cô Nguyễn, 30 tuổi, đã tiếp tục giúp
làm những luật tương tự tại 40 tiểu bang, và đã đưa hoạt động
của mình tới Liên Hiệp Quốc, nơi cô đang hướng dẫn một cố gắng
để tiến tới việc thông qua một quyết nghị bảo vệ các nạn nhân
trên toàn thế giới.
Những thành quả của hai người nhập cư
gốc Việt tiêu biểu, thuộc hai thế hệ, là Việt Đinh và Amanda
Nguyễn còn rất nhiều, quá nhiều để kể hết ra đây; ai muốn biết,
có thể dễ dàng tìm thấy trên Internet.
***
Nêu ra
những thành quả tốt đẹp của người từ khắp nơi vào Mỹ, không có
nghĩa khẳng định rằng trong số những người nhập cư không có
người xấu, không có kẻ phạm pháp. Ở đâu cũng có kẻ xấu, người
tốt. Thống kê đáng tin cậy ghi nhận rằng, tỷ lệ phạm pháp của
người nhập cư thấp hơn so với tập thể những người không thuộc
thành phần nhập cư. Sự thật như vậy mà gán cho thành phần nhập
cư những tội lỗi xấu xa là việc làm độc ác, vô nhân đạo. Hãy
nhìn thẳng vào cuộc đời của những nhân vật danh tiếng, không
thuộc thành phần nhập cư trong thế hệ hiện tại, sẽ thấy rõ đâu
là sự thật.
Trước hết, đương kim tổng thống, có bao giờ
bị truy tố, bị buộc tội về dân sự và hình sự không? Ai cũng đã
biết câu trả lời.
Đương kim phó tổng thống, từng lên
tiếng chỉ trích người nhập cư về những việc làm xấu xa. Xin hỏi,
trong thân tộc, họ hàng ông có bao nhiêu người nghiện rượu,
nghiện ma tuý? Bao nhiêu người sống bằng trợ cấp xã hội? Sách và
những bài báo của ông đã nói đủ, khỏi cần kể ra đây.
Gia
đình tổng thống mới mãn nhiệm được ba tháng: Có bao nhiêu người
nghiện và trao đổi ma tuý? Bao nhiêu người bị kết án và buộc tội
đại hình? Mọi người cũng đã có câu trả lời.
Tóm lại, khi
những người không thuộc thành phần nhập cư thấy mình chẳng có gì
tốt đẹp hơn người nhập cư, thì đừng nên chỉ trách người mà không
trách mình. Đó không phải là cách hành xử của những người có
danh dự.
***
Điểm chót trong những ưu tư của Bob
Turner là những người nhập cư sẽ đóng góp vào việc “giúp Chính
quyền của chúng ta giữ danh dự trong khi giao tiếp với thế
giới”.
Theo dõi những gì diễn ra qua cuộc tiếp Tổng thống
Ukraine Volodymyr Zelensky tại Phòng Bầu Dục vào ngày 28 tháng
2, 2025, không ai nhìn thấy cái gọi là “danh dự khi giao tiếp
với thế giới”. Nhất là, tin Reuters ngày 6/3/2025 cho biết,
chính quyền hiện tại còn nghĩ tới chuyện rút lại quy chế tạm
dung của 240,000 người Ukraine đã tới Mỹ hợp pháp, và họ có thể
sẽ bị trục xuất trở lại Ukraine. Vậy thì, chúng ta chỉ có thể
đóng góp một lời cầu xin:
– Nếu 50 năm trước, Mỹ đã phản
bội Nam Việt Nam một cách thông minh, thì bây giờ, xin đừng phản
bội Ukraine một cách ngu ngốc.
Đinh Từ Thức
Lời giới thiệu
| Bài 1 |
Bài 2 |
Bài 3 |
Bài 4 |
Bài 5 |
Mục lục
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by nhu thanh nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ
Bảy, April 12, 2025
tkd (thư ký dù). Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH