Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề: Xem mắt
Tác giả: Huy Văn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Câu chuyện bắt đầu từ hôm
anh từ Cai Lậy về Mỹ Tho dự tang lễ của một đồng đội
chung quân trường, cùng đơn vị và cũng là bạn học thời
niên thiếu. Người chiến sĩ Mũ Nâu vắn số rất được gia
đình của vị hôn thê thương mến nên khi biết anh là bạn
thân, thì từ sau ngày đau buồn đó, tình cảm của cả nhà
dành cho anh nồng nàn không kém những gì đã dành cho
người quá cố. Một thời gian sau thì mỗi lần có dịp về
phép, anh đều ghé qua chào hỏi và thăm viếng họ như
người bạn tử sĩ của anh vẫn hay làm trước đó. Thêm một
thời gian nữa thì tình thân trở nên đậm đà như thể anh
là con trong gia đình và là anh của người thiếu nữ chưa
kịp kết hôn đã trở thành góa bụa. Từ dạo đó, cứ mỗi
lần biết tin anh về thăm nhà thì song thân người con gái
ấy luôn nhắn tin mời anh qua ăn cơm với gia đình hoặc gởi
chút quà - thường là bánh mứt và các loại thực phẩm
khô - để anh mang ra đơn vị lúc hành quân. Thân tình cứ
thế tăng dần theo thời gian. Cho đến một hôm, khi anh vừa
về đến nhà thì ba má cô gái cho người mời qua gặp ông
bà để có chuyện quan trọng cần bàn thảo.
Anh đến gặp họ - những người mà
từ lâu anh đã xem như cha mẹ nuôi của mình - bằng một tâm
trạng vừa lo lắng vừa hồi hộp vì không khí trong nhà
có vẻ trịnh trọng rất khác thường.
- Hai bác thấy lâu nay con thường
hay xa nhà, mà ba má con cũng cần có người giúp đỡ
trong ngoài cho nên...
Bà mẹ buông lửng câu nói và anh
thì bồn chồn chờ nghe câu kế tiếp vì anh đoan chắc thế
nào bà mẹ cũng ngỏ ý gả cô con gái rượu của ông bà
cho anh. Nhưng anh chỉ đoán đúng có một nửa...
- Hai bác có quen một gia đình ở
Chợ Gạo. Họ không giàu nhưng rất gia giáo. Nếu con không
chê chỗ nhà quê thì theo hai bác về xã Đăng Hưng Phước
để... coi mắt cô con gái của họ.
Anh lúng túng một hồi lâu và cảm
thấy quá bất ngờ rồi mới gật đầu vì chỉ mới hôm
trước, ba má anh cũng gợi ý tìm cho anh một bạn đời để
gia đình có thêm người cho đỡ hiu quạnh. Ít lâu sau thì
anh làm đám cưới với cô gái mà ba má nuôi giới thiệu
và ba má ruột của anh cũng rất bằng lòng. Riêng anh thì
tuy không phải là “Tình bén lửa ngay lần đầu gặp gỡ”
nhưng rồi sau đó thì “Nợ ba sinh một nét rất đậm màu”
và tuy là trong lá số Tử Vi của anh không thấy có an
bài vị trí của “Thân cư Thê”, nhưng quả thật từ sau khi
lấy vợ và khi sanh đứa con đầu lòng thì quan lộ của anh
đã như diều gặp gió. Năm 1966, từ chức vụ trưởng ban 3
của một đơn vị Mũ Nâu thiện chiến tại vùng đồng bằng
sông Cửu Long, anh được thuyên chuyển về một nơi an lành
ngay tại hậu phương lớn là thủ đô Sài Gòn. Cứ như là
trong cung Thê của lá số Tử Vi đã có các sao Long Trì,
Phượng Các và cung Mệnh đã an bài Tả Phù, Hữu Bật.
Chả thế mà sau 6 năm “sáng xách cặp đi, chiều xách cặp
về” và sau khi tốt nghiệp một khóa quân chánh, anh được
đề bạt đi làm quận trưởng tại một tỉnh thuộc miền tây
nam phần. Tất nhiên là anh chọn quận Chợ Gạo thuộc tỉnh
Định Tường, là quê bên vợ, rất gần với tỉnh lỵ Mỹ Tho
vốn là nơi anh sinh sống với gia đình từ lúc mới lên 6
tuổi.
Cuộc
sống vừa mới yên bình và con đường tiến thân tưởng
chừng như rất thênh thang, thì không ngờ chỉ một thời
gian ngắn là tai họa từ đâu ập tới. Một ngày đầu xuân
đất bằng dậy sóng nên anh trở thành nạn nhân của một
vụ xì-căng-đan lớn nhất của nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Mặc
dù vô can, anh vẫn lãnh trọn gói 20 năm khổ sai và bị
đày ra Côn Đảo cùng với khá đông những nạn nhân khác
cũng trở thành dê tế thần như anh. Là một quân nhân
chuyên nghiệp được huấn luyện và hun đúc trong tinh thần
của kẻ sĩ, anh bằng lòng với số phận - hay nói cho
đúng hơn là sự an bài - mà chính quyền quốc gia đương
nhiệm dành cho mình. Anh không biết những người khác
nghĩ gì về cơn bỉ vận này, nhưng riêng phần anh thì
chấp nhận trả ơn cho Quân Đội và chánh thể Việt Nam
Cộng Hòa bởi tầm vóc quan trọng của vấn đề đã vượt
quá lãnh vực quốc gia. Không chỉ có phía cộng sản Hà
Nội, đám đối lập, bọn phản chiến, những kẻ thân cộng
đội lốt thành phần thứ ba, mà còn cả báo chí và
truyền thông thiên tả trong và ngoài nước đều đã tận
tình khai thác sự việc để hạ nhục thể chế và các cấp
lãnh đạo dân chính cũng như quân đội của Việt Nam Cộng
Hòa. Anh vô tội và tin là Trời cao có mắt nên đã chấp
nhận trọng hình trong niềm tin vào chân lý tất yếu của
đời sống, đó là: rồi chuyện gì cũng sẽ trôi qua. Anh
chưa “gỡ lịch” được bao lâu thì tình hình chiến sự ngày
càng trở nên tồi tệ. Địch tiến như chẻ tre, chiếm đâu
giữ đó. Việt Nam Cộng Hòa lần hồi tổn quân, mất đất,
mất dân nên khi phòng tuyến gom về gần Sài Gòn thì có
tin anh sẽ được ân xá để trở về phục vụ trong một sư
đoàn tân lập mà nòng cốt là những liên đoàn thiện
chiến của Biệt Động Quân. Đơn vị tinh nhuệ cuối cùng
được cấp tốc thành lập là hai sư đoàn lấy từ binh
chủng Mũ Nâu, nhưng chưa kịp ra quân thì cả nước rơi vào
tay cộng sản. Tất nhiên là từ Côn Đảo anh được đưa về
đất liền để tiếp tục... trả nợ! Nếu món nợ đầu tiên
được đặt trên nền tảng Tổ Quốc - Danh Dự và Trách
Nhiệm thì ngục tù bao la sau khi mất nước là “món nợ
đời phải trả cho đám quỷ ma”. Hiểu theo nghĩa “kẻ thắng
trận tha hồ làm tình làm tội người thua cuộc” thì đó
là đúng là một món nợ “trần ai” mà 17 triệu dân miền
nam cùng gánh nhận sau khi phần đất tự do bị hoàn toàn
nhuộm đỏ.
Thế là chút của cải, vật chất dành dụm từ đồng tiền
Lính lần hồi ra đi để đổi lấy từng ngày lây lất sống.
Gánh nặng gia đình từ ngày anh vướng vào vòng lao lý
đã ngày càng thêm nặng trên đôi vai của người vợ Lính
trước giờ chỉ lo nội trợ. Thương vợ một mình phải tảo
tần nuôi chồng, lo cho con và cho cả tứ thân phụ mẫu, từ
trong rừng sâu của vùng U Minh Thượng - nơi anh và các
chiến hữu bị kẻ thắng cuộc giam cầm trong cái gọi là
“trại cải tạo” - anh nhắn tin về cho vợ và bảo chị
đừng lo cho anh mà hãy lo cho tương lai của chính mình
còn các con thì cứ gởi cho bên nội hoặc bên ngoại nuôi
nấng cũng được. Giải pháp mà anh chọn cho chị tuy nao
lòng và tiêu cực nhưng rất thực tế. Đó là vì chị hãy
còn trẻ nên cần phải làm lại cuộc đời với một người
khác, một người có thể bảo bọc cho chị qua những ngặt
nghèo của cuộc đổi đời. Đối với một người tù khổ sai
chung thân như anh thì giải pháp đó là hành động duy nhất
để vợ nhà bớt đi một gánh nặng trần thân, một khổ
hình về cả tinh thần lẫn thể chất. Trong hoàn cảnh tù
đày, anh thấy mình bất lực và không có cách nào thiết
thực hơn là thà một mình chịu khổ còn hơn là níu kéo
theo người vợ trẻ. Nhưng suy nghĩ bi quan, yếm thế đó
không phải chỉ là hình ảnh bi lụy của những người đang
bị trả thù gián tiếp như anh và hàng trăm ngàn
quân-cán-chính khác, mà đó cũng là ý đồ bất nhân của
những kẻ đang cầm quyền từ trung ương đến địa phương sau
khi cưỡng chiếm được toàn miền Nam. Điều mà chế độ
cộng sản mong muốn nhìn thấy là sự đổ vỡ trong các gia
đình có người thân đang ở trong những trại tù khổ sai
đó. Chúng muốn bôi lọ và đánh đổ phẩm giá của những
người vợ lính và tất nhiên, trong hoàn cảnh hết sức
nghiệt ngã của cuộc đổi đời, đã có không ít những
trường hợp đau buồn khi người vợ ôm cầm sang thuyền
khác, bỏ mặc chồng trong lao lý và giao đàn con nheo
nhóc cho hai bên nội, ngoại cưu mang.
Nhưng chị thì khác! Người vợ
lính ngày nào chỉ biết nội trợ và thu vén mọi việc
trong bốn bức tường của tổ ấm gia đình, đã quyết chí
không bỏ rơi chồng, không xao lãng bổn phận với con. Chị
không nản lòng thoái chí khi cửa nhà sa sút, không than
thân trách phận khi cuộc sống cứ từng bước đi xuống đến
tận cùng bằng số của khó nghèo. Ngược lại, chị mau
chóng thích ứng với hoàn cảnh bằng cách mở một gánh
hàng ăn lưu động với những món khoái khẩu để bán cho
những bạn hàng nơi chợ quận và cả khách quen tận Mỹ
Tho. Do đã quen với cuộc sống thanh bần, chị thức khuya
để nấu nướng, dậy sớm để chất mọi thứ cần dùng lên
chiếc xe đạp, rồi tần tảo mỗi ngày hai bận đi về trên
đoạn đường 30 cây số để bán từng tô bún, từng chén
chè, hay từng dĩa cơm, từng chiếc gỏi cuốn... Hạnh phúc
của chị thật đơn sơ và niềm vui cũng đầy tràn khi hằng
ngày mọi thức ăn chị bày bán đều được khách quen chiếu
cố rất tận tình. Rồi thì cứ thế mà tiếng lành đồn
xa. Lần hồi, chị thầu luôn những tiệc tùng cho giỗ quảy
hay cưới hỏi của những người quen biết trong vùng. Công
khó của chị được đền bù bằng những đồng tiền góp
nhặt để vừa lo cho đàn con, vừa gói ghém những thứ cần
thiết - từ thực phẩm đến thuốc men - để tiếp tế cho anh
một cách đều đặn. Chị là hình ảnh của người vợ Lính
qua mọi thời đại, là hình ảnh thiết thực và sống động
của tình nghĩa phu thê qua bao thời kỳ và là biểu tượng
tình yêu tuyệt đối luôn thăng hoa trong mọi hoàn cảnh.
Anh thầm mang ơn chị và vô cùng
cảm động mỗi lần anh nhìn thấy chị khệ nệ tay xách,
nách mang những thứ vô cùng quý giá cho một người tù...
“cải tạo”. Con đường từ Chợ Gạo đến U Minh Thượng phải
mất hai ngày trời. Một ngày ngồi xe liên tỉnh để xuống
tới Vị Thanh - thủ phủ của tỉnh Chương Thiện ngày xưa -
cũng đủ làm cho cả người ê ẩm huống chi phải thêm một
ngày bắt tắc-ráng để vượt sông Cái Lớn, qua Kinh 5, Võ
Lãi trước khi vào tới U Minh Thượng là nơi anh và những
Quân-Cán-Chính của miền tây đang chịu đọa đày của phe
thắng cuộc. Anh cũng thầm cảm ơn Trời Phật đã giữ anh
lại mặc dù đã có tên trong danh sách chuyển trại để ra
tận... miền bắc! U Minh là một vùng rừng thiêng nước
độc với rừng mắm bạt ngàn, muỗi mòng, đỉa trâu và...
sốt rét nhưng anh thấy hạnh phúc vô vàn khi có lệnh của
ban quản trại giữ anh lại - ngay lúc những đồng cảnh
trong trại đang phải gom mớ hành lý lèo tèo của mình
lên ghe - để xác minh một “tội ác” mà đám dân địa phương
đã tố giác anh với chính quyền mới tại Mỹ Tho. May cho
anh! Đó chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên về tên họ
với một quân nhân khác mà họ gọi là có “nợ máu” với
nhân dân. Xong cuộc điều tra thì đã qua đợt chuyển người
hết mấy ngày và chánh quyền địa phương thì lại không
có khả năng và phương tiện để đưa một người tù đi cả
ngàn cây số ngược ra miền bắc. Vì thế, anh là người duy
nhất mang cấp tá mà còn được ở lại U Minh Thượng để...
lao động tốt!
Đại hạn của anh chấm dứt năm
1986, nhưng hạnh phúc sum vầy chưa kéo dài được bao lâu
thì tiểu hạn của anh bắt đầu bằng bản án “cướp tàu
quốc doanh để vượt biên” sau khi anh dính líu vào một vụ
“làm ăn” rất thời thượng lúc bấy giờ. Lần này thì anh
gỡ 5 cuốn lịch. Một cái giá “rất phải chăng” và có
thời hạn đàng hoàng! Thời gian 17 năm sống trong tột
cùng của nhục nhằn và khốn khó đã hun đúc trong anh
một sự chịu đựng bền bỉ về cả tinh thần lẫn thể chất.
Nhưng điều mà anh cảm nhận sâu xa nhất chính là tình
nghĩa vợ chồng đã không vì sự khắc nghiệt của môi
trường hay thiếu thốn về vật chất mà suy giảm. Ngược
lại, gia đình anh càng khắng khít hơn, càng yêu thương
nhau hơn. Yêu chị qua hình ảnh của một người vợ trẻ rất
mực thủy chung, thương chị đã quá vất vả trong suốt
thời gian anh vướng vòng lao lý, nên khi qua đến bến bờ
tự do, anh để chị ở nhà lo lắng việc nội trợ như xưa
còn anh thì bươn chải mưu sinh bằng cách tìm đủ mọi công
việc nào thích hợp với khả năng của mình. Ở lứa tuổi
đã tri thiên mệnh và nhất là với một quá khứ khá...
vàng son, anh đã gặp phải nhiều ánh mắt nghi ngại khi
lần đầu đi xin việc.
- Anh đã hơi lớn tuổi rồi! Liệu
có đủ sức vác nặng hay không?
-
Thì cứ thử tôi trước cũng được!
-
Anh đã từng giữ chức vụ khá quan trọng trong quân đội
nên...
- Đó là chuyện của 20 năm
về trước. Bây giờ thì tôi cũng như mọi người mà thôi...
Đại khái những câu hỏi và câu
trả lời trong những lần đi xin việc là như thế! Sau cùng
thì có một người chủ chợ bằng lòng cho anh làm thử...
hai tháng. Sau hai tháng thì người thương gia đó không còn
chút nghi ngại gì với anh nữa. Trời thương ban cho anh
sức khỏe khá dẻo dai nên anh cứ thế mà miệt mài với
những công việc cần tới bắp thịt. Trời cũng thương cho
dân Việt lưu vong khi bỗng dưng mọi người đều trở nên
khéo léo trong việc làm đẹp cho dân bản địa bằng nghề
sơn, dũa móng tay. Nghề “neo” quả là món quà Thượng Đế
dành riêng cho dân Việt nên các con của anh cũng từ đó
mà ăn nên làm ra và tự lập thân một cách mau chóng. Đôi
lúc anh cảm thấy buồn vì hoàn cảnh của đất nước và
của riêng mình. Những lúc khác thì anh cũng thấy thông
cảm cho những bạn đồng cảnh nào “dịch” hai chữ HO thành
hai tiếng HỠI ÔI! Anh cũng chung hoàn cảnh như họ nên rất
hiểu tâm trạng của họ. Nhưng hai tiếng “hỡi ôi” của anh
còn bao hàm sự tưởng tiếc trong nỗi quặn lòng vì sự
tàn vong của đất nước. Giờ đây, cho dù đã cơm no, áo ấm
nơi xứ người anh vẫn không ngớt trải lòng với những
đồng đội, chiến hữu và bạn bè xưa, nhất là những người
còn sống trong cảnh ngục tù bao la nơi quê nhà bằng
những lần thư tín, bằng sự ủi an hay bằng những quà
tặng nho nhỏ có tính cách tượng trưng cho một tấm lòng
thành. Hai tiếng “hỡi ôi” chính là sự chia xẻ âm thầm
của anh đối với họ: những người kém may mắn hơn anh về
mọi mặt. Đó cũng là đồng vọng của tiếng thở dài trong
lòng anh khi tự biết mình “lực bất tòng tâm” vì đã
không làm được gì hơn cho những mảnh đời bất hạnh đó.
Anh chỉ có một trái tim để tận
hiến cho quê hương, một tấm lòng để bày tỏ sự thủy
chung với vợ và một tình yêu để chia xẻ đồng đều cho
các con. Nợ tổ quốc chỉ trả được nửa vời nên ngày nay
cho dù đôi tay đã bắt đầu rung vì cơn bệnh của người
già, anh vẫn dành hết mọi sức lực còn lại để trọn
nghĩa tình với chị. Từ khi bệnh tình của chị trở nên
trầm trọng phải nhập viện cho tới lúc tai qua nạn khỏi,
anh đều ở sát bên giường bệnh. Từ lúc chị phải vào khu
điều dưỡng để được săn sóc một cách thích nghi hơn, thì
anh cũng tự nguyện xin vào ở cùng với chị. May mắn cho
anh chị là Garden Grove Convalescent Hospital có một khu
vực dành cho người cao niên nhưng còn đủ khả năng tự săn
sóc cho mình (Board & Care) nên anh đã nộp đơn xin và được
chấp nhận vào ở trong đó. Cứ như là được ở trong một
“Khách Sạn Hào Hoa” mặc dù anh đã phải hy sinh hết mọi
tiện nghi hằng ngày như khi còn sống dưới mái ấm gia
đình. Mặc dù chị được săn sóc kỹ lưỡng bởi những y tá
và nhân viên điều dưỡng rất tận tâm và chuyên nghiệp,
nhưng mỗi ngày ba bận, anh đều ở bên cạnh chị để chăm
chút từng miếng ăn, giấc ngủ. Có lúc thương anh quá nên
chị giả vờ như đã no bụng để bắt anh ăn những món ngon
miệng mà anh cứ nhường cho chị, hoặc làm bộ ngủ để anh
thôi bóp tay, xoa chân sau mỗi bữa cơm chiều. Nhưng hình
ảnh của đôi chân miệt mài sáng chiều đạp xe để bươn
chải mưu sinh bây giờ đã gần như bất khiển dụng khiến
anh thêm thương yêu chị hơn bao giờ hết. Cho dù không ai
nói ra nhưng trong lòng chị và đối với mọi người trong
trung tâm điều dưỡng kiêm viện dưỡng lão Garden Grove, anh
là biểu tượng của một người chồng chung thủy, là hình
ảnh của một lão niên luôn tình nguyện phụ giúp bất cứ
việc gì anh thấy mình có thể làm cho trung tâm, còn
trong lòng của đồng đội và chiến hữu xưa, anh là một
quyển tự điển sống, hiểu theo nghĩa của Quân Sử và
trong quá trình phục vụ cho Quê Hương và Dân Tộc thì anh
là một quân nhân gương mẫu, là chàng trai Võ Bị bất
phùng thời tên ĐẶNG KIM THU.
Huy Văn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by MĐ Đoàn Hữu Định chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, August 26, 2016
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang