Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề: Tình yêu trong chiến tranh
Tác giả: Tràm Cà Mâu
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Đèn nào cao bằng đèn Châu
Đốc,
Dốc nào cao bằng dốc Nam Vang,
Đói no em chịu theo
chàng,
Xuống sông ra biển lên ngàn cũng theo. (ca dao)
Năm
đó, mới chen được chân vào đại học, thì bất ngờ Thư nhận được
lệnh động
viên vào trường sĩ quan Thủ Đức. Cánh cửa tương lai
dường như khép lại. Nỗi buồn thấm thía đó có pha một chút mơ hồ
của buông xuôi, nhưng lại khỏe khoắn vì từ nay khỏi phải lo lắng
gì cho việc sách đèn nữa. Đời lính, sống nay chết mai, chưa biết
lúc nào. Hơn nữa, bố mẹ cũng làm ăn vất vả, phải hy sinh nhiều,
mới có thể hỗ trợ cho Thư theo đuổi chương trình đại học.
Tưởng hết học là khỏe ru, nhưng không
phải thế. Khi đút đầu vào quân trường mới hết hồn, tập luyện mệt
nhọc đến phờ người. Nhưng rồi mấy tháng huấn luyện gian khổ nhọc
nhằn cũng quen đi và qua mau.
Mãn khóa ra đơn vị, đóng quân ở tiền
đồn xa xôi, chỉ mong cho tạm được bình yên, địch quân đừng quấy
phá, tấn công, để khỏi phải giết nhau tranh sống. Thư nghĩ rằng,
đa số người lính miền Bắc cũng mang cùng tâm trạng với Thư, không
muốn bắn giết ai, nhưng bị lùa vào cuộc binh đao, thì phải chiến
đấu để sống còn. Không giết đối phương, thì cũng bị địch sát hại.
Chán ngán chiến tranh dài ngày. Buồn chán rồi cũng thành nhàm
quen.
Một lần
nằm võng trong hầm trú ẩn, một anh bạn cắc cớ hỏi Thư: “Sau này
thanh bình, được trở về đời sống dân sự, thì anh định làm gì để
sinh sống?”
Thư cười đáp: “Biết có còn sống đến ngày thấy đất nước thanh bình
hay không? Nghĩ chi xa xôi cho mệt. Cuộc chiến này như không bao
giờ chấm dứt được. Cứ chết hết đợt này, thì miền Bắc xua quân vào
đợt khác để thí mạng. Cứ thế mà dằng dai mãi.”
Anh bạn thở dài: “Biết đâu có một ngày
nào đó, chính quyền miền Bắc thấy chết chóc, phí phạm quá nhiều
nhân mạng và tài lực, mà không đạt được mục tiêu, thôi gởi quân
vào Nam, thì hết chiến tranh. Hoặc khối cộng sản thôi tiếp tế
súng đạn, bom mìn, lương thực cho miền Bắc, hoặc Mỹ thôi yểm trợ
cho miền Nam, thì thanh bình sẽ trở lại với chúng ta.”
Thư nghĩ lời của anh bạn cũng có lý
phần nào. Chiến tranh mãi, rồi cũng sẽ có ngày chấm dứt. Thư
hoang mang nghĩ đến tương lai mà hoảng sợ. Làm gì để sinh sống
sau này nhỉ? Không một nghề chuyên môn, chẳng vốn liếng, mà học
hành thì dang dở. Thì ra, chiến tranh đã là ngõ bí, mà hòa bình,
thì cũng chẳng có lối thoát cho tương lai. Rồi nhân một lần về
phép tại Sài Gòn, nghe các lứa đàn em xôn xao bàn tán, Thư nhờ họ
ghi danh giúp, theo học đại học Văn Khoa. Nhờ chúng mua bài in,
gởi ra nơi tiền đồn. Thư quăng bài vào hầm trú ẩn, khi nào buồn,
không có việc làm thì đem ra đọc, như để giải trí. Học mà chơi,
không cần thi đậu hay rớt. Bài học giáo khoa cũng gần gũi với
những điều hiểu biết trong sách vở mà Thư đã đọc thường ngày. Đâu
có gì khó khăn đến nỗi phải đến giảng đường nghe thầy giảng dạy.
Khi nhận được giấy báo danh dự thi, Thư
nhờ đó mà xin được mấy ngày phép về Sài Gòn. Cõng theo một ba-lô
đầy ắp bài vở, định về đến Sài Gòn thì đóng cửa nằm đọc lướt
nhanh qua, được chừng nào hay chừng đó. Biết đâu sẽ “trúng tủ”.
Nhưng mới về đến nhà, thì bạn bè ào đến đến rủ rê lên phố ngồi
quán cà phê, nhởn nhơ nhìn những tà áo dài phất phơ bay. Những
thứ này, thiếu vắng nơi tiền đồn heo hút giữa rừng rậm núi cao.
Tội gì mà bỏ qua không tận dụng thời gian quý báu này. Ngồi mãi
đến khi phố chiều đã thưa người. Trên đường về, thấy bảng quảng
cáo có chiếu phim hay, Thư không cưỡng lại được lòng, cùng các
bạn mua vé vào xem phim mãi đến gần khuya mới về đến nhà. Tắm rửa
xong thì trời đã khuya, Thư đem bài ra đọc, chỉ mới được hai
trang thì ông em bày bàn cờ tướng, hắn nói:
“Làm vài ván đi anh Thư. Học chi giờ
này nữa!”
“Thôi, để kiếm vài ba chữ, lỡ mai vào thi trúng tủ, có chút gì mà
viết”
“Chơi
một ván thôi, xem dạo này trình độ cờ tướng của anh có khá hơn
trước không! Ở nơi tiền đồn, chắc anh luyện cờ kỹ lắm.”
Thư quăng tập bài xuống bàn nói: “Ừ,
chơi thì chơi. Sợ chi. Mai vào thi đánh võ tự do. Đậu rớt đâu có
quan trọng.”
Thư và chú em, khui hai chai bia, bày thêm một đĩa tôm khô củ
kiệu, ngồi hai bên bàn cờ, chăm chú điều quân khiển tướng. Lên
xe, qua pháo, nhảy mã, say sưa chơi ván này qua ván khác, mãi cho
đến hơn ba giờ sáng, Thư giật mình gạt bàn cờ nói to:
“Bạy thật, đáng ra phải đi ngủ sớm để
ngày mai có sức, tỉnh táo mà làm bài. Thôi đi ngủ.”
Vào giường, cái đầu Thư cứ nóng bừng
bừng, hình ảnh mấy con cờ cứ hiện ra mãi, rồi trăn trở, không
chợp được mắt. Cho đến khi gần sáng, thì chìm vào giấc ngủ vùi
ngon lành, mê man không biết gì nữa, đến nỗi không nghe cả tiếng
chuông đồng hồ báo thức. Khi tỉnh giấc, thì nắng đã lên cao. Thư
giật mình, rửa mặt đánh răng qua loa, rồi xách xe chạy vù ra
đường. Thấy đã trễ giờ, khó đến kịp phòng thi, đường lại kẹt xe.
Thư định quay về, nhưng cứ tà tà lướt tới. Đi đâu bây giờ? Hay là
vào quán kiếm gì ăn sáng cho đỡ đói bụng. Cứ suy nghĩ mông lung,
cho đến khi đã dừng xe trước cổng trường Văn Khoa. Sân trường đầy
cả xe mà vắng bóng người qua lại. Thư khóa xe, lững thững đi vào
xem thử trường ốc ra sao, vì cũng chưa hề đến đây một lần. Khi
vừa đặt chân lên hành lang, Thư thấy một thiếu nữ duyên dáng
trong áo dài màu vàng nhạt, tóc xõa dài hai bên bờ vai, mắt nâu
sáng long lanh, chiếc mũi thon, làn da trắng mịn màng. Ngẩn ngơ
vì cái nhan sắc thanh thoát đó. Thư dừng lại, chìa tờ phiếu báo
danh ra cho thiều nữ để làm quen, và nói:
“Cô làm ơn chỉ giúp tôi phòng thi ở nơi
nào. Tôi đến trễ, chắc giám thị không cho vào lớp.”
Cô gái giật lấy tấm giấy báo danh, nhìn
thoáng qua, rồi nắm lấy tay Thư dắt chạy về hướng cầu thang, rồi
kéo chạy thẳng lên lầu. Tiếng guốc gõ lóc cóc trên sàn xi-măng
rộn rã. Thư mê mẩn người, tim đập dồn dập, bàn tay như lâng lâng
trong lòng tay mềm mại, và ngoan ngoãn chạy theo cô gái, tóc cô
bay dạt ra sau, thoang thoảng mùi hương. Khi đến đúng phòng thi,
cô dúi lại tấm giấy báo danh vào tay Thư, và đẩy vai chàng vào
lớp. Thư đứng lại nhìn cô và nói:
“Tôi không thể thi được nữa?”
“Sao thế?” Cô gái tròn mắt ngạc nhiên.
“Cô kéo tay tôi mạnh quá, sái tay rồi.
Không viết được nữa!”
Cô gái vụt nâng tay Thư lên và nói:
“Đâu, đưa xem, để tôi chữa cho” - Rồi chu miệng thổi phù một cái,
nói tiếp: “Lành rồi đó nhé! Vào thi đi. Ráng làm bài cho khá, thi
đậu về đòi mẹ thưởng quà!”
Không dám lần khần hơn, Thư ấp úng cám
ơn. Thầm nghĩ giá như phòng thi còn xa hơn nữa, hoặc được bàn tay
mềm mại đó, nắm chạy không bao giờ ngưng nghỉ, thì hạnh phúc biết
bao. Thư chẳng tha thiết chuyện thi cử nữa, mà muốn quay ra, đi
theo cô gái, hỏi tên xin làm quen, nhưng lại sợ cô hiểu lầm.
Giám thị phòng thi phát giấy và chỉ ghế
ngồi cho Thư. Tất cả thí sinh trong phòng đang im lặng chăm chú
làm bài. Thư như người mất hồn, ngẩn ngơ, ngồi nhìn lên trần, và
tiếc đã không bỏ phòng thi để đi theo người thiếu nữ duyên dáng
đó mà làm quen. Trễ mất rồi. Thư chép đề bài ghi bằng phấn trắng
trên bảng màu xanh lục: “Văn học Việt Nam từ năm 1929 trở lại.”
Thư thầm bảo, dễ ợt, chỉ là kiến thức phổ thông của người có đọc
sách báo. Không biết bài học của giáo sư viết gì về vấn đề này,
nhưng Thư chắc chắn làm bài được, có thể thiếu sót, nhưng không
lạc đề. Tay thì viết lia lịa, mà đầu óc cứ vẩn vơ nghĩ về thiếu
nữ, Thư ghi nhanh những ý tưởng thoáng qua đầu mà không viết
nháp. Ráng viết cho đầy bốn trang giấy, làm xong kết luận, rồi
đem nộp bài, để chạy vội ra, mong tìm được người đẹp đã nắm tay
và làm Thư mê mẩn. Khi đưa bài làm cho giám thị phòng, Thư nhìn
vào bài nộp của một thí sinh khác, và khám phá ra người này có đề
thi không giống như đề ghi trên bảng. Thư hỏi nhanh:
“Thế thì có hai đề thi mà tôi không
biết, tôi chỉ làm đề ghi trên bảng mà thôi”
Vị giám thị ngẩn ngơ và nói: “Ai bảo
anh làm bài theo cái đề ghi trên bảng? Đó là đề của khóa thi ngày
hôm qua mà!”
Cả phòng thi cười ầm lên khi nghe lời thầy giám thị. Thư thất
vọng và giận, nói gằn giọng:
“Không ai cho tôi biết đề thi, thì tôi
làm theo đề ghi trên bảng. Tại sao không xóa đề cũ đi, để cho
người khác hiểu lầm? Tôi xin hỏi thầy, tại sao không cho tôi biết
đề thi?”
Vị
giám thị điềm đạm trả lời: “Đề thi tôi đã kèm trong tờ giấy nháp
phát cho anh đó”.
“Ôi trời! Có bao giờ tôi viết nháp đâu!
Luận văn mà viết nháp thì lấy thì giờ đâu để làm bài? Thầy hại
tôi rồi!”
Vị
giám thị phòng nhìn đồng hồ, rồi đưa cho Thư một tờ giấy thi mới,
nói:
“Thời
gian còn gần một giờ rưỡi nữa. Thôi anh ráng viết một bài ngắn,
gọn, súc tích, chắc cũng kịp.”
Thư chán nản trở về ghế ngồi, và mở tờ
giấy nháp ra, đọc đề thi: “Lĩnh Nam Chích Quái là một tác phẩm
nhân dân và của nhân dân.” Đề thi này do giáo sư linh mục Thanh
Lãng soạn. Thư mơ hồ như đã đọc tác phẩm này từ thời còn học tiểu
học. Ngồi yên lặng, và ráng nhớ lại xem, đây là cuốn sách gì,
viết chuyện gì. Nghĩ mãi không ra, mà thời gian thì cấp bách. Thư
quay qua cô thí sinh ngồi bàn bên cạnh, lên tiếng xịt xịt làm dấu
rồi hỏi nho nhỏ:
“này cô, Lĩnh Nam Chích Quái là cái mốc
khô gì hở cô?”
Nghe hỏi, cô gái không nhịn được cười,
hai vai rung rinh bần bật, và cười thành tiếng khúc khích nho
nhỏ. Cô đáp:
“Đừng làm tôi tức cười, viết bài không được. Gần hết giờ rồi mà
hỏi ngớ ngẩn.”
Thư thì thầm: “Có phải là tập chuyện cổ
tích không?” Cô gật đầu. Thư hỏi nhỏ tiếp: “Có chuyện Tấm Cám
không?” Cô lắc đầu. “Có chuyện Hồng Bàng không?” Cô gật đầu. “Có
chuyện Phù Đổng không?” Cô gật đầu. “Có chuyện Bánh Chưng, Dưa
hấu, Rùa vàng không?” Cô gật đầu ba lần. Thư cám ơn, rồi cắm cúi
viết bài. Tưởng gì, chứ Lĩnh Nam Chích Quái gồm 24 truyện truyền
kỳ của dân gian, không chắc ai là tác giả. Thư cứ viết thao thao
bất tuyệt. Khi hết giờ, cả lớp đã ra khỏi phòng thi, chỉ còn mình
Thư, ráng viết cho xong đoạn kết luận, thầy giám thị phòng kiên
nhẫn đứng chờ.
Trên sân trường, xe đã thưa thớt, Thư
chưa về vội, nhẩn nha đi loanh quanh qua các hành lang, với hy
vọng mong manh sẽ gặp được nàng, người con gái tử tế yêu kiều đó.
Tại sao không lạc quan tin tưởng. Cứ tin tưởng, rồi sẽ thành,
biết đâu. Đi quanh vài ba vòng, khi trường ốc đã vắng người, Thư
chán nản uể oải ra về.
Hôm sau, Thư đến phòng thi thật sớm, đi
quanh sân trường, hành lang, mắt láo liên tìm kiếm, bây giờ mục
đích chính không còn là tiếp tục kỳ thi, mà đi săn tình cảm.
Không tìm ra tung tích người, Thư dò hỏi bạn bè, mô tả người con
gái áo lụa vàng, mảnh khảnh, da trắng, tóc thề dài. Trong cái
trường Văn Khoa này, có cả mấy trăm cô cùng nhân dạng đó. Mấy
ngày phép còn lại, sáng chiều nào Thư cũng đến khuôn viên đại học
Văn Khoa kiếm tìm. Sân trường mùa hè vắng vẻ làm Thư thêm buồn
nhớ.
Về lại
đơn vị, Thư lấy giấy phác họa dung nhan người thiếu nữ đó, treo
trong hầm trú ẩn. Mỗi lần vào ra, nhìn cho đỡ nhớ nhung. Bạn bè
cười đùa chế nhạo, Thư nói đùa: “Biết đâu người đẹp trong tranh,
sẽ rời tường và xuống nói chuyện tâm tình đêm đêm.”
Sau một lần đụng trận nặng, Thư bị
thương, về nằm bệnh viện Cộng Hòa gần hai tháng, rồi được bổ sung
về một đơn vị Địa phương quân tại Biên Hòa. Hàng tuần, Thư chạy
đi chạy về con đường Biên Hòa–Sài Gòn, khi nào cũng hớn hở ghé
ngang qua trường Văn Khoa. Thỉnh thoảng ngồi uống nước, nhìn đám
sinh viên trẻ cười đùa hạnh phúc, và vui lây với cái sung sướng
của họ. Có khi Thư vào các lớp đang học, đứng cửa sau nhìn lên,
tìm hình dáng nàng, nhưng rồi buồn bã ra về. Vài người bạn biết
chuyện, khuyên Thư đừng đi mò kim đáy biển, nên tìm một bạn gái
khác. Đời này thiếu chi người dễ thương, tốt lành, mà chắc chi cô
gái trong mộng của Thư đã không neo thuyền bến khác rồi.
Rồi một hôm, Huy là bạn thân, chèo kéo,
muốn dẫn Thư đến giới thiệu cho một người bà con. Huy nói: “Có
năm chị em, tuổi tác sàn sàn nhau, con nhà đàng hoàng gia giáo,
khá đẹp, tính tình ôn nhu hòa nhã, tha hồ mà lựa chọn. Vấn đề là
tùy theo tài ăn nói của cậu mà thôi.”
Thư lắc đầu, vì nhất quyết tin rằng, sẽ
gặp lại được người con gái hôm cũ, không muốn dây dưa tình cảm
lang bang, chẳng muốn quen biết với ai nữa cả. Sau một lần đi
uống cà phê, trên đường về nhà, Huy bảo Thư:
“Tôi có việc vào nhà quen một chốc, cậu
ráng chờ chừng hai mươi phút. Hay là đi theo tôi cho tiện, khỏi
đứng phất phơ bên đường.”
Thư lặng lẽ đi theo Huy. Vào trong,
thấy cả nhà ngồi quanh bàn, đang ăn cơm chiều, Thư giật thót
mình, suýt la lên một tiếng ngạc nhiên. Vì thấy cô gái mà mấy lâu
nay Thư tuyệt vọng kiếm tìm ngồi đó, mặt hướng ra phía cửa. Tim
Thư đập mạnh, hơi thở dồn dập. Bà mẹ trong gia đình nói:
“Tiếc quá, bữa cơm đã gần xong, nên
không dám mời hai anh cùng ăn cho vui. Mời hai anh ngồi” - Rồi
quay qua nói với cô con gái - “Con pha trà mời khách giúp mẹ.”
Huy nói lớn: “Thôi, nước nôi làm chi,
chúng tôi mới đi uống cà phê về. Đây là anh Thư, bạn học cũ, mà
cũng có thời cùng đơn vị. Chúng tôi đi qua đây, tiện đường ghé
thăm, và cũng định nhờ anh Năm một việc nhỏ.”
Hình như cô gái chưa nhận ra Thư, hoặc
hôm trước, vì gấp gáp bận chỉ đường, mà không nhìn kỹ người cô
giúp đỡ. Một thoáng buồn gợn qua trong Thư vì cái vô tình của cô.
Quanh bàn ăn, có bố mẹ và năm chị em suýt soát nhau, khó biết cô
nào chị, cô nào em. Các cô đều duyên dáng, mặn mà, mỗi người mỗi
vẻ. Huy giới thiệu năm cô theo thứ tự: “Hai Huệ, Ba Trúc, Tư Cúc,
Năm Hường, và Sáu Lài”. Thư nhìn cô Ba Trúc thật lâu, như nhắn
hỏi có còn nhớ gì không? Sợ các cô rút lui vào phòng sau, Thư
nhìn thẳng vào cô Ba Trúc, và nói:
“Nhân dịp gặp nhau lại nơi đây, tôi xin
cám ơn cô Ba Trúc một lần nữa, ngày đó đã sốt sắng chỉ cho tôi
phòng thi khi tôi đến trễ. Không có cô, chắc tôi đã bỏ kỳ thi mà
ra về rồi. Tôi cứ nhớ đến cô mãi, mong tìm gặp được thêm một lần,
để nói lời tạ ơn.”
Cô Trúc tròn mắt ra nhìn thẳng vào Thư,
cười rất tươi và nói:
“Ủa, thì ra người đó là anh?” Mặt cô
ửng hồng.
“Vâng, chính tôi. Cô sốt sắng làm tôi cảm động, cứ nhớ mãi. Sau
này trở lại trường Văn Khoa nhiều lần, mong tìm gặp mà không
thấy.”
Thư kể
tiếp cho cả nhà nghe, hôm đó làm lộn đề thi ngày trước. Mọi người
cười vui.
Từ
đó, thỉnh thoảng về phép, Thư ghé thăm Trúc, ban đầu ngồi nói
chuyện văn chương trong phòng khách, rồi hẹn hò đi xem chiếu
bóng, đi ăn tiệm, ghé quán ven đường chung uống trái dừa tươi,
cùng ra phố mua sách, ngồi quán cà phê nghe nhạc... Nhiều hôm Thư
đến giảng đường ngồi bên nhau trong giờ học, mà bút đàm liên
miên, mặc cho giáo sư khan cổ giảng bài. Tình yêu đâm chồi nảy
lộc xanh tươi.
Tình yêu càng sâu đậm, thì Thư càng
thấy buồn, trong lòng xót xa khi nghĩ đến mạng sống bấp bênh của
đời lính chiến, mà bom đạn thì càng ngày càng khốc liệt. Lẽ nào
để cho người yêu thành góa phụ bơ vơ. Thư đem ý nghĩ này nói với
Trúc, nàng khóc, những giọt nước mắt lăn dài trên má làm xót xa
lòng người chiến binh. Một lần Trúc nói:
“Nếu ai cũng nghĩ như anh, thì bọn con
gái chúng em đều không thể có chồng cả hay sao? Chiến tranh thì
cứ chiến tranh, chết chóc thì cứ chết chóc, con trai vẫn cưới vợ,
con gái vẫn lấy chồng. Không may thành góa phụ, cũng phải cam
chịu mà thôi. Thanh niên thời này, ít ai thoát được cái áo lính.”
Trầm ngâm, Thư nói trong đau xót: “Anh
không muốn là kẻ vô trách nhiệm, làm dang dở đời em, vì anh yêu
em, tình yêu dâng hiến không vị kỷ. Anh muốn em có được đời sống
vẹn toàn.”
Trúc cười buồn: “Nếu phải lập gia đình, thì em kiếm đâu ra một
người không là lính? Rồi nếu chẳng may, thì cũng thành góa phụ.
Tại sao chúng ta không kết hợp, và cứ chấp nhận cái may rủi của
tương lai. Em sẽ chấp nhận gánh chịu rủi ro.”
Thư thở dài: “Chiến tranh ác độc thật.
Làm tắt ngúm bao nhiêu mộng ước đơn sơ hiền hòa. Con mất cha, vợ
mất chồng, bao nhiêu là tan tác, khổ đau.”
Năm 1973 hiệp định Paris được ký kết,
thiên hạ vui mừng vì tưởng chiến tranh đã chấm dứt. Nhưng không,
miền Bắc vẫn chuyển quân ồ ạt vào Nam. Tiếng súng vẫn nổ đều đều
khắp nơi như khi chưa ký kết hòa ước. Miền Bắc kiên trì, và quyết
tâm thôn tính cho được miền Nam. Thư bị thương tích một lần nữa
trong lần Bắc quân tấn công định phá cây cầu do đại đội Điạ
phương quân canh phòng. Pháo địch như mưa lên hầm trú ẩn. Thư chỉ
huy đại đội, đẩy lui nhiều đợt tấn công ào ạt. Nhờ trọng pháo yểm
trợ, địch cay đắng rút lui khi trời gần sáng. Buổi sáng, xác địch
ngổn ngang bên ngoài, toàn là trẻ con mang áo quần bộ đội, nhiều
thân thể trần truồng, mà háng còn chưa mọc lông măng. Nhìn xác
địch mà lòng Thư tan nát, nước mắt chảy dài thương cảm đám trẻ em
vô tội, bị xua vào chiến trường thí mạng, cho cuồng vọng u mê.
Khi Thư và Trúc tính đến chuyện cưới
hỏi, thì miền Nam mất. Thư đi tù cải tạo. Tưởng đi “học tập” hai
tuần rồi về như thông cáo. Trúc hy vọng, từ nay hai người sẽ mãi
mãi bên nhau, xây đắp tương lai trong một đất nước thanh bình
sáng ánh tương lai. Nhưng rồi dân miền Nam biết bị đánh lừa, tù
tội khổ sai được mang mỹ từ là học tập cải tạo. Trong tù đói
khát, thất vọng, không biết ngày về, Thư mừng vì còn độc thân,
chưa có vợ con, chưa trách nhiệm. Những tù nhân khác, ngoài nỗi
cực nhọc, lo âu cho bản thân, còn có mối lo lớn khác gởi ra ngoài
trại tù, thành những tiếng thở dài đêm đêm, là vợ con làm sao mà
sinh sống, ai chăm sóc nuôi nấng trong xã hội mới đầy khó khăn
này? Thỉnh thoảng, Thư cũng nghĩ đến Trúc, đến những kỷ niệm đẹp
đẽ êm đềm của thời tuổi trẻ, tình yêu tô thắm ý nghĩa cho tháng
ngày dễ thương đó. Thư thấy quyết định đã giữ thế độc thân trong
thời chiến là sáng suốt, dù bây giờ, không ai thăm nuôi, tiếp tế
thực phẩm, thuốc men. Nhưng Thư lại thấy tinh thần khỏe và nhẹ
nhàng hơn bạn bè khác, họ biết vợ con trăm ngàn khổ cực, đói
khát, thiếu thốn bên ngoài, mà còn phải chia cơm xẻ áo cho kẻ nằm
trong tù. Bây giờ, có chết đi cũng thôi, khỏe, khỏi phải chịu
đựng đọa đày dài ngày. Không vợ, không con, không trách nhiệm,
chỉ tội cho người yêu ôm mộng tình dang dở.
Năm năm tù trôi qua nặng nề, thân tàn
ma dại, Thư được tha về. Tưởng như đã chết rồi lại được hồi sinh.
Chưa kịp mừng vì thân xác thôi bị quản thúc, thì công an khu vực
đến nhà, đuổi đi kinh tế mới theo chính sách của nhà nước.
Thư đến thăm gia đình Trúc. Hai người
ôm nhau cùng khóc trong nỗi niềm vui mừng gặp gỡ. Bố mẹ và năm
chị em Trúc xanh xao, mặt dài ra, trong ánh mắt không còn niềm
vui, tinh anh hạnh phúc như thuở nào. Cả năm chị em vẫn phòng
không chiếc bóng. Thư hỏi lý do, chị Hai Huệ thở dài chua chát:
“Thời buổi này, chẳng còn thanh niên
ngu dại nào dám xâm mình cưới vợ. Tương lai đen kịt trước mắt.
Khó khăn, đói khổ hành hạ, kiếm cho ra miếng bỏ vô dạ từng ngày
chưa xong. Đời sống lại bất an. Bị đe dọa thường trực. Lấy nhau
để đem nhau vào ngõ cụt sao! Quan trọng hơn hết là đàn ông cùng
trang lứa, đã chết nhiều trong cuộc chiến tranh dài, lớp còn lại
thì rủ nhau đi tù, chạy dạt ra ngoại quốc lánh nạn. Thanh niên
trong tuổi lập gia đình trở thành hiếm hoi, khó tìm. Bọn con gái
tụi này, không còn đàn ông để nghĩ đến, mà có nghĩ đến, cũng sợ
hãi tương lai. Lấy nhau để đem lại khổ đau cho nhau, và sinh con
ra, cho chúng đói rách lầm than, cũng là một cái tội lớn. Chắc
rồi bọn con gái tụi em sẽ chết già không chồng cả thôi anh ạ.”
Thư đùa: “Thế thì, còn mấy anh cán bộ
miền Bắc đó.”
Cô Hai Huệ cười lớn: “Cán bộ miền Bắc, cán bộ miền Nam, ô hô, bọn
họ cũng đã chết như rạ trên rừng Trường Sơn, chết gần mười lần
hơn quân đội miền Nam mình. Vả lại, anh nào may mắn còn sống sót,
thì cũng mặt bủng da chì vêu vao, và đã có vợ có con ở đâu đó
rồi. Ăn nói dóc láo hơn Cuội. Nói láo không biết ngượng miệng.
Lại xoi mói ti tiện nhỏ nhen. Bọn con gái tụi em, chỉ có đứa nào
mặt mày chai đá lắm, mới dám muối mặt giao du thân mật với bọn
họ. Anh có nghe câu ca dao thời đại:”
“Trai
miền Nam như chim oanh vũ.
Trai miền Bắc
như lũ khỉ rừng xanh.
Gái miền Nam như
cành liễu rũ,
Gái miền Bắc như củ khoai
sùng.
Chim oanh vũ đậu cành liễu rũ.
Lũ khỉ rừng xanh ngậm củ khoai sùng.”
Thà chết già không chồng, còn hơn là...
Thư cười cắt ngang: “Chim oanh vũ đã bị
vặt lông, bẻ cánh đem ướp muối nướng hết cả rồi cô Huệ ơi. Buồn
thay cho những cành liễu rũ. Thời đại bao tử trống rỗng này, củ
khoai sùng cũng còn có chút ích lợi.”
Trúc và mấy cô em đồng hỏi: “Thế thì
anh có dám ngậm củ khoai sùng không?”
Thư lắc đầu: “Thà chết còn hơn.”
Thư không có hộ khẩu thành phố, sống
bất hợp pháp bằng giấy tờ giả do công an bán ra. Lang thang tạm
trú nay đây mai đó. Đạp xe thồ, ngày có khách ngày không, cũng
đói rách đắp đổi qua thời gian. Những khi có dư chút tiền, đến
chở Trúc đi chơi, ngồi bên bờ sông chuyện trò, uống chung ly nước
ngọt, chia nhau miếng bánh, củ khoai. Tình yêu như sương như
khói. Cả hai, đều không dám nghĩ đến tương lai xa hơn ngày mai.
Trúc nói: “Tương lai của đất nước này
đã đen như mõm chó, nhưng sẽ còn đen tối hơn, còn gian khổ hơn
nữa. Đây chưa phải là tận đáy của địa ngục như người ta tưởng.
Phải đi ra miền Bắc một lần, thấy tận mắt, nghe tận tai, tâm sự
của những người thân ngoài đó, mới nhận thức đứng đắn hoàn cảnh
đất nước hơn. Họ cho rằng, chúng ta đã sung sướng thế này, mà còn
kêu ca, họ không hiểu nổi.”
Trúc nắm chặt tay Thư nói: “Giá như
chúng ta đi vượt biên được, thì mọi sự đều giải quyết dễ dàng.
Chúng ta sẽ xây dựng lại tương lai hạnh phúc,và nuôi nấng con cái
cho thành người hữu dụng.”
Thư thở dài thành tiếng lớn. Bữa đói,
bữa no, lo cho cái dạ mỗi ngày chưa xong, lấy đâu ra vàng để đi
vượt biên.
Một
lần Thư và Trúc ôm nhau trong căn phòng vắng. Hạnh phúc chan hòa.
Quên hết cả trời đất. Trúc thúc dục:
“Thương em đi anh! Giữ gìn để làm chi
nữa! Cả đất nước, cuộc sống, tương lai, đều mất sạch rồi. Còn gì
để tiếc?”
Siết
chặt Trúc trong vòng tay, Thư thì thầm: “Anh có bổn phận giữ gìn
cho em. Anh không thể làm tổn thương em được.”
Trúc gục mặt vào ngực Thư và khóc rấm
rứt.
Hai hôm
sau, Trúc đến tìm Thư và hớn hở báo tin mừng: Gia đình Trúc được
nước Pháp chấp nhận cho đi tỵ nạn, vì trước đây, có thời gian bố
Trúc đã làm việc cho một công ty người Pháp. Thư mừng, ôm Trúc và
hôn tới tấp. Thư thì thầm:
“Mừng em thoát khỏi địa ngục trần gian.
Trên đất nước này, con người còn thua con vật. Sống còn tệ hơn
chết. Mừng em sẽ được tái sinh, làm lại kiếp con người có nhân
cách xứng đáng.”
Trúc và Thư gặp nhau đều đặn hơn trong
thời gian chờ đợi đi Pháp. Trong lòng Thư vui sướng hân hoan, vì
Trúc sẽ thoát, nhưng đôi khi cũng buồn thấm thía vì sắp đến ngày
chia cách đôi đường.
Trúc hớn hở theo gia đình đi Pháp tỵ
nạn. Tự do quan trọng hơn tình yêu, hơn cả mạng sống. Thư ở lại
quê nhà, cũng quay quắt tìm đường vượt thoát, nhưng chẳng thành
công. Nguyên nhân chính là yếu kém tài chánh và thiếu may mắn.
Rồi chương trình nhân đạo HO của Mỹ
cũng đem Thư ra khỏi thiên đường xã hội chủ nghĩa. Ra đi bằng
đường hàng không, yên lành, an toàn, không bị truy lùng bắt bớ,
chẳng lo bão tố hoặc hải tặc Thái Lan. Xem như trời đãi, được đền
bù những khổ nạn đã trải qua trong bao năm dài.
Hai năm sau ngày đến Mỹ, Thư đã tạm ổn
định cuộc sống nơi miền đất mới, vô tình biết được tin tức của
Trúc. Nàng vẫn phòng không chiếc bóng. Trước đây, Trúc tưởng phụ
nữ cứ ra khỏi Việt Nam, muốn lập gia đình, là chọn được ngay
những ông chồng đàng hoàng, giàu có, tử tế. Nên Thư không dám
liên lạc, sợ khuấy động cuộc sống yên lành của gia đình Trúc.
Thư quyết định đi thăm Trúc. Xin phép
nghỉ hai tuần. Thuê khách sạn tại quận 13 Paris. Nghỉ ngơi một
hôm cho lại sức, rồi thăm thành phố Paris mà lòng cứ nôn nao nghĩ
đến Trúc. Không biết sau bao nhiêu năm, Trúc bây giờ ra sao.
Không biết gặp lại nhau, có ngỡ ngàng thất vọng, hay tình cảm
ngày xưa đã phai nhạt theo thời gian cách xa. Trong trái tim Thư,
tình cảm dành riêng cho Trúc vẫn đầy ắp.
Một ngày trời âm u gió lộng, Thư đi bộ
đến tận ga Universitaire, bắt chuyến tàu đi về hướng nam thành
phố. Mua vé xuống ga Massy Palaiseau. Con tàu vừa khởi hành thì
mưa như xối nước quật xuống ào ào. Thư nhìn ra cửa kính, thấy cây
cối vật vã, mưa xóa mờ cảnh vật. Con tàu lầm lũi chạy trong mưa
xối xả và gió thốc từng hồi. Trời đất đẹp và buồn, nhưng lòng Thư
thì hân hoan rộn rã.
Ra khỏi ga Massy Valeseau, mưa đã nhẹ
hạt, Thư che dù đi bộ thêm chừng mười lăm phút đến đường Gustave
Flaubert, có khu chung cư mà gia đình Trúc cư ngụ. Hồi hộp bấm
chuông. Cửa mở ra, Trúc đón Thư với nụ cười rạng rỡ, hai vòng tay
ôm choàng lấy nhau, nước mắt vui mừng rưng rưng. Tưởng như nằm
mộng, họ ôm nhau không rời.
Một hồi lâu, tiếng Hai Huệ nhắc nhở:
“Thôi, vào ăn đã chứ, thức ăn nguội rồi đó.”
Thư bắt chước Tây, ôm từng cô một, cọ
má, rồi chúm môi hôn gió, phát ra một tiếng “chụt”. Định hỏi thăm
sức khỏe bố mẹ các cô, nhưng Thư thoáng thấy hình ông bà trên bàn
thờ.
Trên bàn
đã bày đầy các món ăn. Trúc kéo ghế cho Thư và ngồi bên cạnh ríu
rít chuyện trò. Năm chị em gái, tóc đều muối tiêu, chưa ai lập
gia đình. Họ ở với nhau hòa thuận, an vui với cuộc sống đơn giản.
Trong bữa ăn, năm chị em tranh nhau nói
cười vui nhộn, trêu chọc nhau không ngớt. Bữa ăn kéo dài gần hai
giờ. Sau khi ăn xong, dọn bàn, mỗi người một việc. Thư thấy năm
chị em đứng sắp một hàng dài cùng rửa bát đĩa. Người đầu gạt bỏ
thức ăn thừa, chuyền qua cho ngưòi thứ hai sát xà-phòng, rồi giao
cho người thứ ba xối nước, người thứ tư tráng nước sạch, người
thứ năm lau khô và xếp vào tủ. Họ vừa làm việc, vừa kể chuyện ríu
rít. Thấy Thư nhìn với đôi mắt ngạc nhiên, một cô giải thích:
“Ban đầu tụi em chia nhau rửa bát, mỗi
người trách nhiệm một ngày. Nhưng rồi cũng thấy không công bằng,
vì có ngày nhiều, có ngày ít. Vả lại, làm một mình không vui bằng
rửa tập thể. Luân phiên đứng trong hàng, không ai phàn nàn ai
được cả.”
Thư
nói: “Thấy mấy chị em vui vẻ hạnh phúc quá. Chắc các cô không bao
giờ biết buồn. Sống chung với nhau, vui thế này, nên không ai
muốn lập gia đình cũng phải.”
Cô Lài cười: “Không phải chẳng muốn lập
gia đình đâu anh ạ. Ai cũng muốn có chồng, nhưng tìm không ra
người xứng đôi vừa lứa. Vả lại, chúng em cũng đã quá tuổi xuân
thì, mà lại làm cao, không chịu lấy những người thấp kém. Chỉ có
chị Trúc khóa cửa buồng tim chờ đợi người tình lý tưởng.”
Trúc mắng em; “Con khỉ! Mầy biết gì mà
nói?”
Cô Hai
Huệ đùa: “Năm chị em tôi lập thành một nội các thu hẹp. Tôi là bộ
trưởng Nội Vụ, lo tổng quát việc gia đình, giữ an ninh trật tự,
phân xử các bất đồng. Trúc là bộ trưởng Kinh Tế Tài Chánh, lo giữ
tiền bạc, ăn tiêu trong gia đình, làm sao cho tiền đừng thiếu, và
khi có thừa thì đầu tư. Cúc là bộ trưởng Giao Thông, lo việc
chuyên chở, lái xe cho cả nhà, trách nhiệm nặng nề và vất vả
nhất. Hường là bộ trưởng Kiến thiết, khi nhà có gì hư hỏng, cần
sửa chữa tu bổ, thì tìm người lo giúp, tưởng là nhẹ, nhưng công
việc cũng lu bu lắm. Còn Lài là bộ trưởng Thông Tin Văn Hóa, lo
mua các máy móc như truyền hình, máy vi tính, điện thoại cầm tay,
băng nhạc, đĩa, kinh, sách, truyện. Làm sao cho các sinh hoạt
giải trí được vui nhộn quanh năm, không nhàm chán.”
Trúc nhìn qua Thư và hỏi: “Nếu có anh
Thư gia nhập nội các này, thì nên bổ nhiệm cho anh bộ nào đây?”
Cô Huệ đáp liền: “Bộ trưởng không bộ
nào. Anh chấp nhận việc bổ nhiệm nhé!”
Đêm đó, cả sáu người ngồi bên bàn dài,
hàn huyên tậm sự. Uống hết hai chai rượu vang ngọt, mấy đĩa bánh
khô lạt cùng hộp phó-mát mặn mùi nồng nặc. Mấy bình trà thơm và
cà-phê cứ châm thêm mãi. Các cô thay phiên nhau kể chuyện về
những ngày vui xưa, thời tóc còn xanh màu, những gian khổ khó
khăn đói khát trong giai đoạn miền Bắc cai trị, và những vui buồn
thời mới đến quê hương mới tỵ nạn. Rồi thay phiên nhau ca hát.
Thư cũng tham gia, hát mấy bài tình ca. Khi Trúc yêu cầu đọc thơ,
Thư hứng khởi, ngâm nga:
“Một
lần anh chợt nhớ
Tiếng thì thầm của
sông,
Nước từ nguồn bỡ ngỡ,
Xô nhau về biển đông.
Dòng sông từ muôn
thuở
Gọi mời người ruổi giong.
Một lần trời bão tố,
Máu đổ quê hương
hồng.
Tưởng không ngày hội ngộ.
Năm châu bước phiêu bồng.
Gặp nhau như
phần số!
Trời dành nỗi chờ mong.
Không gian nào đau khổ?
Thời gian nào
viễn vông?
Xót xa hồn cổ mộ
Tay ôm kín hai vòng.
Nước mắt chưa lần
đổ,
Đã tràn đầy mênh mông
A ha! Đời bể khổ.
Mê mải vòng sắc không.”
Cuộc vui hàn huyên kéo dài cho đến gần
sáng. Trúc và Cúc nhường phòng cho Thư ngủ. Nằm thao thức chưa
chợp mắt được, Thư nghe tiếng cửa phòng mở nhẹ, Trúc dè dặt bước,
luồn tay vào tóc Thư, rồi nằm xuống bên cạnh. Hai vòng tay ôm
nhau khắng khít. Những nụ hôn êm ái, nhẹ nhàng. Trúc thì thầm bên
tai Thư: “Từ nay, chúng ta mãi mãi có nhau. Không còn gì ngăn trở
được nữa. Cám ơn Trời đất cho đem anh đến cùng em.”
Im lặng một lúc, Thư nói khẽ vào tai
Trúc: “Chậm rồi Trúc ạ, Anh bị ung thư đến thời kỳ cuối. Bác sĩ
bảo anh không còn sống hơn được sáu tháng nữa.”
Trúc bật khóc nức nở: “Trời ơi, sao
duyên phận em hẩm hiu đến thế này?” - Bỗng Trúc vùng dậy, nắm hai
vai Thư mà lắc và nói với giọng quả quyết - “Không, Còn nước thì
còn tát. Anh phải sống, để sống với em. Em không thể mất anh
được. Cứ tin tưởng rồi phép lạ sẽ đến. Không có quyền tuyệt
vọng.”
Trúc
theo Thư về Mỹ.
Trước đây, Thư không muốn chịu xạ trị
cũng như hóa trị để kéo dài đau đớn trước khi lìa đời. Bởi rồi
thế nào cũng phải chết. Được chết yên lành thì sung sướng hạnh
phúc hơn. Nhưng bây giờ, Thư thấy cần sống. Sống cho Trúc. Sống
cho tình yêu từ lâu dang dở.
Thư và Trúc đã đem lại cho nhau những
ngày tháng tuyệt vời, chan hòa thương yêu. Thư chuyên tâm chữa
trị. Cả thuốc Tây cùng lúc với thuốc lá cổ truyền. Bác sĩ ngạc
nhiên với những kết quả càng ngày càng khả quan. Những u bướu nhỏ
lại và tan dần.
Mọi người đều nghĩ rằng mầu nhiệm của
tình yêu quả có thật./.
Tràm Cà Mau
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by ddcb chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, February 16, 2017
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang