Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Tình
Quân–Dân
Tác giả:
khuyết danh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
TÌNH
YÊU LÀ GÌ? Ai cũng hiểu, ai cũng biết. Thế nhưng không có một
định nghĩa nào được cho là đúng khi giải thích về tình yêu cả. Lý
do là, mỗi người hiểu tình yêu theo một nghĩa khác nhau.
Tình yêu, ai cũng có một lần nghe qua,
ai cũng đã có ít ra một lần yêu (thử hay thật cũng được), thế
nhưng, khi nào thì được phép yêu? Khi nào thì nên... chấm dứt?
Không ai dám trả lời cả! Người lính chiến quanh năm với bưng
biền, tròn ba tuổi lính, chưa hề có bạn tâm tình, cũng không thể
kết luận rằng anh ta không biết gì về tình yêu. Ngay cả ông lão
đầu tóc còn vài cọng không đủ làm thuốc, răng cỏ theo nhau rụng
xuống cầu hết trơn rồi, cũng không dám nói là mình có đủ kinh
nghiệm về tình yêu. Tôi cũng như bạn vậy, cũng đã nghe nói về
tình yêu, cũng đã làm thử một lần. Chỉ có một điều đặc biệt là
tôi đã được nghe kể lại một chuyện tình thời hậu chiến. Chuyện
tình này có thật, rất là cảm động, đã được nhiều anh em biết tới.
Theo đúng như những kết luận về chuyện tình thời cổ tích, hai vai
chính tới nay vẫn còn sống, vẫn thương yêu nhau, gia đình thật là
đầm ấm.
Chuyện
tình yêu này thật là đẹp, thật là đáng ghi nhớ, hay hơn tất cả
những chuyện tình yêu trên thế giới. Love Story của Mỹ cũng thua
xa! Một câu chuyện tình yêu kéo dài cả ba năm trời, trong đó hai
vai chính, một nam một nữ không hề quen biết nhau, không hề tiếp
xúc với nhau, nhưng kết cục lại lấy được nhau thật là ngọt ngào.
Câu chuyện tình yêu này đã được đặt tên là... Chuyện Tình Khoai
Lang, theo lời kể của một chịến hữu Nhảy Dù của tôi, như sau:
Ngày đó, vào khoảng năm 1977, tôi đang bị bọn VC bắt đi tù vì tội
có ông Tổng Thống đầu hàng. Cả bọn tôi, đa số là các sĩ quan trẻ
(cấp bậc từ thiếu úy tới đại úy) được tập trung ở trại Suối Máu,
sau đổi qua Trảng Bom (Biên Hòa). Bọn VC độc ác bắt chúng tôi làm
việc cật lực nhưng không cho ăn uống tử tế, thuốc men hoàn toàn
không có. Ai sống được thì sống, ai về chầu ông bà ông vãi thì cứ
việc đi. Phương cách giết người này thật là độc ác, giết nguời mà
không cần gươm súng. Mỗi ngày đi lao động bên ngoài, anh em cố
gắng kiếm được thêm cái gì thì ráng mà kiếm để sống cho qua ngày.
Có người lượm được cái trứng chim, bắt được con thằn lằn, rắn
mối... cũng đã cho rằng mình có số sung sướng lắm rồi. Dân làng
thì ở ngoài xa, thỉnh thoảng mới gặp một vài người. Bọn VC quái
ác không cho dân tiếp xúc với anh em chúng tôi và cũng cấm tuyệt
anh em chúng tôi không được lân la tới khu dân chúng. Đói, đói
lắm, đói thê thảm, đói lả người ra! Nhưng anh em còn trẻ, sức
chịu đựng cao, tinh thần càng cao hơn, nên ráng sống đợi một ngày
mai tươi sáng.
Bọn VC khoe với chúng tôi: “Đảng ta
đã... Đại Thắng Lợi”
Thì chúng tôi lại vui mừng nhìn nhau,
nói trong ý nghĩ: “Anh em ta... Đợi Thắng Lại!”
Ruộng mía, khoai lang, khoai mì của
đồng bào ở chung quanh rất nhiều, nhưng chúng tôi không đụng tới,
vì đó là của dân, mồ hôi nước mắt của họ. Họ cũng đói như chúng
tôi vậy, đâu thể nào lấy của dân được. Ngày xưa, chúng tôi bảo vệ
họ, ngày nay không làm gì được nữa nhưng không vì đói mà mất tư
cách. Đồng bào biết chúng tôi đang bị đày đọa, họ cũng thương cảm
lắm, họ cũng đã tìm đủ mọi cách mà giúp đỡ chúng tôi. Bọn VC cũng
biết như vậy, cho nên mỗi lần phải đưa chúng tôi di chuyển ngang
khu dân cư, bọn chúng đi kè kè sát bên, không cho ai tiếp xúc với
ai. Muốn mua thêm ít đường, ít muối cũng khó lòng mà làm được!
Thế nhưng trời cao còn có mắt mà, không
sao! Miễn được thấy dân là lòng người lính thấy ấm lại rồi! Buổi
sáng hôm đó, chúng tôi đang trên đường đi lao động. Từ xa, chúng
tôi đã thấy khu dân cư ở đằng trước, và thấy bóng dáng những trẻ
em, những cô gái đang tung lúa, thảy khoai lang ra trước nhà để
phơi. Khi tới gần khoảng chừng chục thước, chúng tôi thấy một
bóng dáng phụ nữ cầm thúng thảy khoai lang ra ngoài đường đi, chỗ
chúng tôi đang bước thấp bước cao. Chúng tôi tuyệt đối không đụng
tới tài sản của dân, dù là mấy củ khoai lang nhỏ bé, nên vẫn cứ
thế mà bước đều. Mấy hôm sau, khi đi ngang qua xóm nhà này, chúng
tôi lại thấy bóng dáng người phụ nữ này. Cô cũng dáng điệu như
cũ, cầm thúng khoai lang thảy ra đường đi. Lần này cô nói bâng
quơ:
–
Má à, mấy đám khoai lang hư này, mình đâu có bán cho ai được!
Thôi, dục bỏ, nha Má!
Cô vừa nói vừa thảy khoai lang ra chỗ
chúng tôi.
Cô đứng ở xa nói tới, chúng tôi cũng
không đi gần nên chỉ nghe cô nói như vậy thôi. Nói là cô gái thì
cũng là nói vậy thôi, chứ không thấy rõ hình dáng, nói chi tới
mặt mày.
Mấy
hôm sau nữa, chúng tôi lại có dịp đi lao động ngang qua khu dân
cư này. Chúng tôi lại thấy cô gái hôm trước. Cô vẫn đứng xa xa,
nhưng lần này cô cố tình cầm khoai lang thảy vào chúng tôi rồi bỏ
đi, dáng vẻ rất là bình thường.
Tối về khu trại, chúng tôi bàn tán về
cô gái, về những củ khoai lang mà cô thảy ra ngoài. Chúng tôi
cùng đồng ý là thái độ của cô rất lạ: Không có ai phơi khoai lang
ở chỗ đường đi đó, mà cũng không có ai dục khoai lang trên đường
đi như vậy cả.
Một người bạn – tên Phúc – đã nói với
tôi:
– Tao
nghĩ rằng cô gái này muốn cho mình những củ khoai lang đó. Chứ
nếu cô muốn dục đi, thì thiếu gì chỗ dục. Hơn nữa, khoai lang dù
là hư, không cho người ăn được thì để cho heo ăn, dễ gì mà dục
bỏ!
Lần sau
nữa, khi đi ngang khu nhà dân đó, chúng tôi lại thấy cô. Lần này
chúng tôi không thấy cô thảy khoai lang ra nữa, mà đứng yên ở
phía xa xa chỉ trỏ chỗ này, chỗ kia, ý như muốn chỉ cho chúng tôi
những củ khoai lang mà cô đã thảy ra trước đó.
Tối về, chúng tôi lại có dịp bàn tán.
Phúc nói với tôi:
– Tao có nhìn thấy mấy củ khoai lang
ngay trên đường mình đi. Tao thấy khoai lang kỳ này cũ rồi, không
tươi như bữa trước nữa. Tao nghĩ rằng, cô thảy ra cho tụi mình
lượm, nhưng không ai lấy, nên cô lại thâu lại để dành, bữa nay
thảy ra nữa. Chắc chắn là cô cho tụi mình đó, tụi mày đồng ý
không?
Tất cả
cùng có ý nghĩ đó! Chắc là cô còn có lòng thương những người lính
sa cơ đói khổ, mà tặng những củ khoai lang ăn lót lòng. Củ khoai
lang nhỏ nhoi không đáng là bao, nhưng tấm lòng của cô thật đáng
quý! Chẳng có ai ở không mà chờ anh em chúng tôi đi gần tới mới
thảy khoai lang ra. Cũng chẳng có ai có nhiều khoai lang để mà
thảy chơi như vậy. Chắc chắn là khi chúng tôi đi khỏi, cô lại
thâu lại những củ khoai đó mà để dành thảy lại cho chúng tôi vào
ngày hôm sau. Anh em chúng tôi cùng đồng ý là kỳ tới, nếu có đi
ngang khu nhà dân, nếu cô còn có lòng hảo tâm mà thảy khoai lang
ra, chúng tôi sẽ chia nhau lượm.
Dịp may đã tới, chúng tôi lại có dịp đi
ngang khu nhà dân cũ, và lại thấy bóng dáng cô từ xa. Cô lại thảy
khoai lang ra rồi bỏ đi. Chúng tôi đã bàn với nhau trước rồi, nên
chia ra làm nhiều toán nhỏ: Toán đi trước bao chung quanh đám
quản giáo để chúng khỏi nhìn thấy phía sau, toán thì đi chậm chậm
lượm thật lẹ những củ khoai lang bỏ vào giỏ xách thật nhanh. Lính
mà! Chúng tôi thanh toán chiến trường khoai lang lẹ lắm, không
thua gì những lúc thanh toán bọn quỷ đỏ trên chiến trường trước
đây.
Buổi trưa
hôm đó, chúng tôi lại chia ra nhiều toán để dắt bọn quản giáo đi
ra xa, trên đầu gió, để đám còn lại lo nướng khoai. Đói lòng ăn
được củ khoai lang. Ôi, sung sướng nào hơn!
Đám này ăn xong thì lại ra canh bọn VC
để đám kia trở lại ăn những củ khoai lang tình nghĩa đó. Lần sau
đi ngang khu nhà dân, đến phiên Phúc lo lượm những củ khoai lang
của cô gái hảo tâm. Buổi trưa, Phúc nói nhỏ với tôi:
– Đúng như tao dự đoán, mày ạ! Kỳ này
cô ta cho mình toàn là khoai mới, bự và ngon hơn khoai bữa trước
nhiều lắm! Chắc cô đã núp đâu đó, thấy mình đã lượm hết khoai kỳ
trước nên mới đưa khoai lang mới ra đó!
Nhờ những củ khoai lang đó mà anh em
chúng tôi có thêm sức khỏe. Nhờ ở cảm tình mà người dân đã dành
cho chúng tôi qua củ khoai lang mà chúng tôi thêm được sức mạnh
để chịu đựng cực khổ, chờ đợi ngày mai trời lại sáng. Chúng tôi
ăn những củ khoai lang đó của cô gái tốt bụng, nhưng chỉ nhìn
thấy dáng của cô từ phía xa xa mà thôi, chứ chưa bao giờ được
nhìn thấy mặt cô cả. Cũng chỉ duy nhất có một lần được nghe giọng
nói của cô mà thôi.
Thời gian cứ thế trôi qua, chúng tôi
vẫn sống, vẫn hiên ngang với đời.
Rồi ngày mai đã tới, ngày tôi và Phúc
được bọn VC trả về nguyên quán. Chúng nói là chúng tôi đã... học
tập tốt. Nhưng đối với chúng tôi, với riêng tôi và Phúc, chúng
tôi vẫn vậy. Muôn đời chúng tôi vẫn là người lính VNCH và càng
căm thù bọn Việt Cộng hơn bao giờ hết. Tôi được gia đình lo liệu
sẵn, một thời gian ngắn sau khi về lại nhà, tôi đã may mắn vượt
biên trót lọt và qua định cư ở Melbourne xứ Úc Đại Lợi.
Tôi cũng có nghe bạn bè nói, Phúc cũng
đã vượt biên và hiện ở Sydney, cùng xứ Úc với tôi.
Một ngày đẹp trời vào năm 1990, vợ
chồng tôi có dịp đi Sydney và đã ghé thăm Phúc.
Bạn bè ngày xưa gặp nhau mừng mừng tủi
tủi, nói chuyện huyên thuyên – Chuyện xưa còn đó, nhưng bạn bè
nay đâu? Thằng nào còn sống? Thằng nào chết trong trại tù? Thằng
nào vượt trại? Thằng nào vượt biên? Đi đâu?
Cuối cùng mới tới chuyện đời sống hiện
tại.
Mày lấy
vợ hồi nào? Lấy từ hồi ở VN hay qua đây mới lấy? Bao nhiêu đứa
con rồi? Đứa lớn bao nhiêu? Đứa nhỏ mấy tuổi. Chúng tôi nói như
chưa bao giờ được nói.
Phúc kể, đã lấy vợ từ hồi ở VN, hai vợ
chồng cùng vượt biên qua đây. Vợ của Phúc chỉ cười cười khi nghe
chồng giới thiệu là tôi ở cùng trại tù với anh từ năm 1977.
Một lúc sau, vợ Phúc bưng ra một đĩa mà
Phúc nói rằng rất đặc biệt: Khoai lang Dương Ngọc!
– Ăn đi mày, ăn để nhớ lại cái thời bị
tù đày, bị bọn VC vo tròn bóp méo!
Tôi sáng mắt lên, vồ lấy củ khoai lang,
ăn không kịp bóc. Tại sao lại phải bóc vỏ? Vỏ khoai cũng là khoai
vậy! Tại sao lại vứt bỏ đi?
Bao nhiêu kỷ niệm xưa quay trở lại. Tôi
cũng đã kể chuyện khoai lang cho vợ tôi nghe nên tất cả đều cùng
nhau góp lại chuyện xưa. Tôi vừa ăn vừa ngậm ngùi:
– Không biết cô gái đã cho mình những
củ khoai lang đó, bây giờ ra sao? Có ai biết cô đó là ai không?
Cô ta còn ở đó hay đã trôi nổi đi phương trời biền biệt nào rồi?
Phúc trầm ngâm một lúc rồi trả lời tôi:
– Cô gái cứu sống mình bằng những củ
khoai lang... đang ở trước mặt mày đó! Tao cưới cổ rồi!
Thật là không ngờ! Vợ chồng tôi ngạc
nhiên tới há hốc miệng, rớt cả củ khoai lang ra ngoài:
– Mày... mày nói cái gì? Cô này đây...
vợ mày đây... là... là cô gái cho tụi mình khoai lang ở Trảng
Bom? Mày... nói chơi hay... nói dỡn vậy? Thiệt không? Làm sao mà
mày kiếm ra cổ? Mà... phải thiệt là cổ không? Làm sao mày biết là
cổ mà dám nói là cổ? Dám lấy cổ?
Vợ Phúc (Dung) mỉm cười giải thích cho
chúng tôi:
–
Em đâu có gueng [quen], đâu có biết ảnh là ai đâu! Tự dưng ảnh
tới kiếm em rồi... hỏi cứ (cưới) em đó chớ!
Phúc giải thích rõ ràng hơn:
– Khi còn ở trong trại tù, mình đã nói
chuyện với nhau thật nhiều về cô gái đó, tao thầm cám ơn cô đã
còn nghĩ đến những người lính VNCH đang mắc nạn. Tao đã nghĩ
trong đầu rằng, nếu có dịp trở về, thế nào cũng đi tìm cô gái đó
mà cảm ơn. Nếu cô ta còn độc thân, tao sẽ cưới cô ta làm vợ. Mặc
dù chỉ với một hành động nhỏ nhoi tặng những củ khoai lang cho
chúng ta, nhưng cô đã chứng minh được rằng, cô là người chống lại
bọn VC, cô là người đã còn nhớ đến người lính VNCH xưa. “Miếng
khi đói bằng gói khi no” mà! Mình đang sa cơ mà còn có người dám
nghĩ tới mình, thì làm sao mà không cảm động cho được? Đến khi
được thả về, tao trở ra Phan Thiết ở với cha mẹ anh em một tuần,
thì nói với ba má là tao kiếm đường làm ăn. Tao quay trở lại Biên
Hòa, đi vào khu Trảng Bom, nói với Tổ Trưởng vùng đó là tao ở
Biên Hòa, muốn về làm rẫy, mua đất trồng khoai lang. Ông này dẫn
tao đi giới thiệu với những gia đình đang trồng khoai lang, có dư
đất muốn bán. Nhà nào tao cũng vào làm quen để hỏi mua đất, hỏi
kỹ thuật trồng khoai, nhưng mục đích chính là kiếm cho ra cô gái
đó. Tao cũng như mày, như những anh em trong trại, đâu có ai biết
mặt mũi cô ra làm sao? Ngay cả dáng người cũng không nhìn được,
nên khó kiếm hết sức. Nhưng tao còn nhớ được giọng nói của cô ta
khi nói: “Má à, khoai lang của mình hư hết rồi, không bán được
đâu, dục đi nha Má!” Tao nhớ có nhiêu đó thôi. Rồi duyên số cũng
giúp cho tao kiếm ra bả. Buổi chiều hôm đó, khi tao đã hết hy
vọng kiếm cổ rồi, đang trên đường đi tới nhà Tổ Trưởng chào từ
giã. Chợt tao đi ngang qua một căn nhà ở cuối xóm, thấy một cô
gái đang gom khoai lang bỏ vô thúng. Tao ngừng lại hỏi bâng quơ:
– Cô lựa khoai lang đem bán hả?
Cô này không quay lại, vừa tiếp tục lựa
khoai, vừa trả lời:
– Tui lựa khoai lang dư đặng mai đem
thảy cho mấy người lính “học tập cải tạo”.
Tao thấy coi bộ trúng mối rồi, bèn hỏi
tới:
– Khoai
lang trồng cực khổ mới có. Bộ cô có bà con đang học tập trong đó
hay sao mà lại cho họ khoai lang?
– Tui đâu có gueng ai ở trỏng đâu! Bị
tui thấy họ tội nghiệp thì tui giúp đở chúc ít dzậy mà! Hồi xưa,
mấy người này đi lính để giữ cho làng xóm được yên, khỏi bị bọn
VC phá đám giết hại người ta. Nay những người này bị bắt ở tù,
mình phải nhớ ơn họ, phải giúp họ chớ! Hổng giúp được nhiều thì
có mấy củ khoai lang cũng giúp họ chút đỉnh dzậy mà!
Mới nghe bả nói là tao nhớ lại liền.
Đúng y là giọng nói “Má à, đám khoai lang này hư rồi...” mà tao
nhớ không bao giờ quên. Tao lại còn kỹ càng hỏi cho ra lẽ tại sao
bả lại giúp mấy đám tù cải tạo như mình? Nghe bả trả lời ngon
lành như vậy là tao chịu quá đi, nhất định giá nào cũng phải làm
quen, nếu được, sẽ cưới bả làm vợ. Lính mà! Dễ lắm! Giản dị lắm:
“Hễ ai thương lính là lính thương lại liền”.
Tao lại đang trong tình trạng độc
thân... “Tròn năm năm lính, chưa hề có bạn tâm tình”. Tới luôn!
Tao đi tới đi lui nhiều lần làm quen với bả, với gia đình bả, nói
là xin học làm rẫy. Khi biết rõ gia đình bả, và biết bả còn đang
độc thân, chưa có đám nào, tao mới trở về Phan Thiết kể lại
chuyện của bả cho ông bà già tao nghe và nói ý định muốn cưới cô
gái quê, nhưng có lòng thương lính đó. Ba má tao đồng ý tao muốn
lấy ai thì lấy, miễn là hai vợ chồng hạp với nhau là được rồi.
Nhưng mà cô đó có lấy tao hay không thì lại là chuyện khác nữa.
Tao trở lại nhà Dung phụ làm rẫy tiếp. Trong một bữa nghỉ trưa ở
ngoài ruộng, chỉ có một mình tao với bả, tao mới nói rõ tao là
ai? Đã cảm cái tấm lòng của bả và muốn được cưới bả làm vợ. Bả
rất ngạc nhiên mà nói với tao, y như bả vừa mới nói với mày vậy:
– Tui đâu có gueng biếc gì anh đâu? Tui cho mấy anh khoai lang là
cho nguyên đám đó chớ đâu phải cho một mình anh! Bị tui nhớ hồi
xưa mấy anh đã đi lính giữ làng xóm tụi tui, chứ tui đâu có biết
anh ở trỏng đâu? Mà anh... cứ (cưới) tui làm chi?
Làm chi thì tao không biết làm chi,
nhưng tao nói tao cảm tấm lòng của bả mà cưới bả, vậy thôi. Tao
nói:
– Ít ra
thì anh với em cũng còn giống nhau ở một điểm là “THƯƠNG LÍNH”.
Nói ba điều bảy chuyện một hồi, bả cũng
không biết nói sao nữa, kêu tao muốn gì thì về nói chuyện với ba
má cổ, chứ cổ... hổng biết. Vậy là chịu rồi! Tao mừng quá, cả hai
đưa nhau về gặp ông già bà già của bả, tao lại kể rõ lai lịch của
tao ra và xin đưa cha mẹ tới xin cưới Dung. Hai ông bà ngạc nhiên
hết sức, cuối cùng nói là:
– Nếu vậy đúng là duyên số rồi. Con
Dung nhà tui nó đâu có gueng biếc gì ông đâu. Nó xin tui ít phai
lang [khoai lang], nói là để cho mấy ông bị tù cải tạo, tội
nghiệp mấy ổng quá. Ai dè có ông ở trỏng, ông thương nó, ông được
dzìa rồi thì ráng lội bộ đi cùng khắp chốn kiếm cho ra nó đặng
xin “cứ” nó! Đó là do Ông Tơ Bà Nguyệt cột đó, chứ hổng có ai bày
ra được đâu!
Tụi tao định ngày, đưa cha mẹ tao tới làm đám hỏi, xong rồi mới
mời ổng bả và Dung về nhà tao chơi. Tới Phan Thiết, thấy nhà cửa
của ba má tao thì ổng bả và Dung hoảng hồn, vì nhà tao hồi đó cha
mẹ cũng còn nhà cửa, cơ sở làm ăn khá lắm! Dung đã nghéo tao ra
sân mà nói:
–
Nhà anh giào như zậy, mà anh cứ tui là gái guê làm chi? Thôi, thả
tui zìa Trảng Bom tui làm rẫy sướng hơn!
Tao phải nói khó với bả:
– Mấy thứ đó là của cha mẹ anh, chứ
anh... “‘Trên Răng Dưới... Dế’, đâu có cái gì nữa đâu! Có cái
mạng cùi cũng nhờ em cho mấy củ khoai lang mới còn sống tới ngày
nay. Mà em đừng có lo, mình còn đủ chân đủ tay, mình tự làm mà
nuôi thân, chịu không?”
– Anh nói dzậy thì tui chịu!
Chịu hay không chịu thì cũng trễ rồi!
Lính đã nói là Lính làm:
– Em có ý kiến nhiêu đó là đủ rồi, mọi
thứ còn lại để anh lo, đừng có lộn xộn gì hết nữa!
Rồi tụi tao làm đám cưới. Cưới xong,
tao lo đường vượt biên. Ông bà già vợ thảy một mớ khoai lang lên
tàu, vậy là tụi tao dông. May mắn cho tụi tao, trời yên bể lặng.
Sau bốn ngày lênh đênh trên biển, tàu tụi tao cặp được tới
Bidong. Tao chọn đi Úc cho nó lẹ và an toàn. Khoảng hai tháng sau
tụi tao tới Sydney, gởi điện tín cấp tốc về cho ông bà già tao
hay. Hai ổng bả mừng quá, lập tức mướn xe chạy tới Trảng Bom cho
ba má Dung hay. Ba Má Dung cũng mừng quá, xá trời xá đất cám ơn
lia chia. Ba của Dung cười lớn:
– Dzậy là thằng rể tui khỏi sợ bị Diệc
cộng bắt cải tạo nữa rồi ha!
Má của Dung hỏi thêm:
– Ở bển có đất cho tụi nó trồng khoai
lang hông dzậy, anh chị sui?
Tụi tao ở bên đây thì cũng giống như
tụi bay vậy, ra sức làm mà lo cho gia đình, con cái, lo cho cha
mẹ bên Việt Nam. Tụi tao có hai con rồi. Bây giờ bả hết dám hỏi:
– Anh “cứ” tui làm chi, nữa rồi.
Tụi tao lo làm nuôi con ná thở, đâu còn
thì giờ mà hỏi nữa! Hỏi nữa tao để... đẻ nữa!
khuyết danh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: phong cảnh thiên nhiên đẹp & hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Đoàn Hữu Định chuyển
Đăng ngày Thứ Ba,
August 11, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang