Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Quốc
| Cộng
Tác giả:
Trần Văn Khang
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời Tác giả: Truyện ngắn dưới đây có nhiều chi
tiết giả tưởng. Tên gọi của một số địa danh cũng được thay đổi.
Nếu danh tánh và hoàn cảnh của các nhân vật trong truyện có sự
trùng hợp ngoài đời thì chỉ là do ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của
người viết.
Trần Văn
Khang
Tả ngạn sông Ngang Dừa là một xã ấp lớn, rất
trù phú. Lại có cả một khu chợ, đông người mua bán từ sáng sớm
cho tới quá trưa. Thêm hai tiệm cà–phê hủ tiếu và vài tiệm tạp
hóa của người Hoa, càng làm cho khu chợ đông người lui tới.
Hữu ngạn có nhiều đồng ruộng, thôn xóm
thưa và rải rác. Xa hơn chút nữa, độ ba bốn cây số đường thủy,
gần bên Sông Lớn, là một khu làng của những người đánh cá, dân ở
đây gọi là Xóm Chài. Nói là xóm, nhưng chính ra phải gọi là làng
mới đúng. Dân số của Xóm Chài chừng trên một ngàn năm trăm người,
với khoảng trên ba trăm gia đình. Nhiều nhà sàn, dựng ven bờ sông
nước. Vài ngôi nhà gạch, lợp ngói đỏ. Những gia đình chài lưới,
hàng ngày đem cá tôm đánh được sang bán bên khu chợ Ngang Dừa.
Khi được mùa lưới, dân chài bán thủy sản không hết, họ đem phơi
khô. Những tàu đò đem tôm khô, cá khô lên tỉnh bán. Trên đường
về, họ lại chở những nhu yếu phẩm như đường, sữa hộp, dầu hôi,
xăng nhớt để chạy máy tàu, máy xay lúa... về cho các tiệm buôn
trong vùng.
Nhưng câu chuyện không phải là nói về địa dư và sinh hoạt của cư
dân tại một vùng nhỏ thuộc đồng bằng Hậu Giang. Câu chuyện kể sau
đây là sự tương quan rất ngẫu nhiên giữa một y–sĩ mới ra trường,
còn phong cách thư sinh, và một người dân chài, chuyên đi câu
cua. Mọi người trong vùng vẫn quen gọi anh ta là Hai Cua.
Vào thời gian ấy, giữa thập niên sáu
mươi, An theo đơn vị đến đóng quân tại Ngang Dừa được chừng vài
tháng. Nếu không đi hành quân, thì công việc của An rất nhẹ
nhàng. Mỗi sáng anh đến trạm y tế, sát bên bờ sông, khám bệnh cho
thuốc những quân nhân trong đơn vị. Thỉnh thoảng săn sóc giúp cho
những nhân viên hành chánh bên quận. Gần như ngày nào cũng có một
số cư dân trong vùng đi ghe thuyền, đem thân nhân đến xin khám
bệnh, chữa thuốc. Chương trình dân sự vụ, cốt tranh thủ lòng dân
và cũng thêm cơ hội lấy tin tức tình báo của bên kia, cho phép An
làm công tác y tế miễn phí cho dân chúng trong vùng. An đã hai
lần đi dân sự vụ tại Xóm Chài. Cùng đi với anh, mỗi lần đều có
toán y tá quân y, Trung úy Hậu ban tình báo cùng một số nhân
viên, và một toán nghĩa quân bên quận. Mỗi khi thi hành công tác
y tế như vậy, An cũng như nhiều đồng đội khác, hay mặc đồ bà ba
vải sẫm mầu cho hòa mình với dân chúng.
Nhiều buổi trưa, An nằm nghỉ trên võng,
trong lều vải dựng ở ven sông. Anh thường thấy Hai Cua, ngồi trên
chiếc ghe nhỏ đơn độc, kiên nhẫn thả những bẫy cua dọc theo dòng
sông. Sông ở đây, gần biển, nửa năm nước mặn, và cua cá rất
nhiều. Những cái bẫy cua hình dáng như những chiếc vó nhỏ, bên
dưới có mảnh lưới thưa và một cục đá to bằng nắm tay. Người chài
cột mồi bằng cá ươn hay một con nhái nhỏ vào bẫy. Cua có nhiều
càng, bò vào lưới kiếm ăn. Một vài càng vướng mắc vào mạng lưới,
cua không thoát đi đâu được. Thế là một lát sau, Hai Cua chèo ghe
lại, dùng một cán cây dài có móc, kéo bẫy lên, ngon lành bắt một
hoặc hai con cua mắc lưới. An quan sát, thấy việc chài lưới này
cũng nhẹ nhàng. Nhưng An phục tài Hai Cua ở chỗ anh ta có cả mấy
chục cái lưới, không phao đánh dấu, thế mà lại nhớ từng “tọa độ”,
từng địa điểm của mỗi chỗ đặt bẫy. Anh ta dùng móc, kéo bẫy lên,
lần nào cũng trúng.
Hai Cua khoảng hai mươi lăm tuổi, dáng
dấp mạnh khỏe, nước da nâu sậm vì nắng miền tây và vì nghề chài
lưới trên sông nước. Vài lần An ra bờ sông, vẫy Hai Cua vào bến
để mua hàng. An chưa thấy cua ở đâu to, ngon, chắc thịt như ở
đây. Kể cả cua biển An được ăn khi còn nhỏ ở Hải Phòng, vùng cảng
miền Bắc, hay cua ở Vũng Tàu, hoặc cua tại nhà hàng Diamond Chợ
Lớn An hay dùng cùng bạn bè cũng không ngon bằng. Có khi An mua
cả hai chục con cua, rồi thưởng thức những món cua hấp, cua xào
me cùng với toán y tá của anh.
Một buổi sáng, An đang làm việc tại
trạm y tế thì Hai Cua cùng người em gái độ mười lăm tuổi, đem bà
mẹ lại nhờ chữa bệnh. Bà mẹ khoảng gần sáu mươi, nằm yếu mệt trên
chiếc cáng. Bà còn tỉnh nhưng có vẻ đau nặng, bịnh đã ba ngày, ói
mửa, nóng sốt và than đau nơi bụng. An chẩn bệnh. Lưỡi bệnh nhân
đóng trắng và khô. Mạch nhanh, tim phổi bình thường. Bụng mềm,
nhưng đau đều khi ấn chẩn. Một vài nốt lốm đốm đỏ trên da ngực và
da bụng. Vì ở xa các trung tâm y tế, An không có phương tiện thử
nghiệm để định bệnh qua huyết thanh. Anh tạm đoán là bệnh nhân bị
thương hàn. “Trung sĩ y tá trưởng” của An đồng ý ngay, anh ta
nói, mẹ một người bán cua bị bệnh “ban cua” chắc là phải... đúng!
Người bệnh có vẻ bị thiếu nước vì nóng và ói, không ăn uống đã
hai ngày. An cho y tá chuyền hai chai nước biển, có pha thuốc,
qua tĩnh mạch, cho bệnh nhân. Sau đó cho thêm một loại thuốc trụ
sinh và thuốc trị nóng để uống trong một tuần. Hai Cua chăm chú
nghe lời dặn dò, cám ơn An rồi dùng ghe đem mẹ về nhà.
Hơn một tuần sau, An thấy Hai Cua đi
chài lại. Anh ta đến tìm An ở trạm cứu thương, biếu An một buồng
chuối cau và cả chục con cua lớn. Anh ta nói bà mẹ đã thuyên giảm
nhiều, đang hồi phục. An vui vẻ nhận quà và cũng cảm thấy vui.
*
* *
Trong số những sĩ quan tại Trung đoàn,
An quen nhiều với Trung úy Hậu. An hay chơi Domino hoặc cờ tướng
với người sĩ quan trẻ này. Trung úy Hậu trước kia là sinh viên
luật khoa năm thứ hai ở Sài Gòn. Hậu không may mắn, thi rớt và bị
gọi nhập ngũ Thủ Ðức khoảng mấy năm trứớc. Có sẵn quá khứ học
Luật, anh được cho đi học khóa tình báo, rồi về làm Ban Hai của
Trung Ðoàn bộ binh tác chiến mà An đang phục vụ. Cùng một cỡ
tuổi, lại cùng có quá khứ sống đời sinh viên Sài Gòn, An và Hậu
dễ thông cảm nên chuyện trò rất hợp.
Vào một xế trưa, Trung úy Hậu và vài
nhân viên đem anh chàng Hai Cua vào lều thẩm vấn của đơn vị. An
tình cờ cũng có mặt. An được biết một nhân viên quân báo thấy Hai
Cua vừa đi chài, vừa ghi chép và vẽ những gì trên một mảnh giấy,
nên tạm giữ anh ta và đem trình Trung úy Hậu. Khai thác sơ khởi
cho biết Hai Cua ở Xóm Chài với mẹ và một đứa em. Anh ta có giấy
hoãn dịch vì lý do gia cảnh. Ai cũng biết rõ là ở miền quê, nếu
biết lo lót, nhiều người có giấy này! An được xem tờ giấy “tang
vật” mà Hai Cua đã vẽ. An thấy hình vẽ sơ sài con sông, dãy nhà
bên phía bờ bên kia, địa điểm trạm cứu thương, và một hàng những
chấm chấm nhỏ trên dòng nước. Không thấy vẽ doanh trại bộ chỉ
huy, không ghi vị trí hai khẩu đại bác. Bị thẩm vấn, Hai Cua nói
là vẽ những chấm trên sông để nhớ những địa điểm hay đặt bẫy cua.
Trung úy Hậu hỏi An:
– Bác sĩ nghĩ sao?
An không muốn lãnh trách nhiệm về việc
tha hay bắt giữ anh câu cua này. An cũng chẳng có kinh nghiệm gì
về khai thác các nghi can hay về tình báo. Việc bắt giữ, khai
thác những người phía bên kia cũng không phải là nhiệm vụ của An.
Anh đáp lời:
–
Trung úy cứ tính sao cho đúng. Riêng tôi thấy chưa có gì để xác
thực tội trạng anh này. Nhưng nếu trung úy nghi ngờ thì kế tiếp
mình sẽ làm gì?
Trung úy Hậu hơi ngần ngừ:
– Nếu nghi ngờ hay có nhiều bằng chứng,
mình cho giải về Sư đoàn, để khai thác thêm. Khai thác không có
gì thì lại thả ra, thường là vài tháng. Bắt đi khai thác thì cũng
tội cho người ta, chỉ vì mảnh giấy sơ sài này. Hay là thôi, mình
thả tên này.
An cũng nghĩ thêm về người mẹ và người em của Hai Cua. Người đàn
bà miền quê mộc mạc, đứng tuổi, đơn chiếc, mới lành bệnh. Nếu anh
chàng này bị bắt mang đi, hai người thân của anh ta chắc sẽ không
có ai giúp đỡ. Vì thế An cũng nói theo người trung úy phòng nhì:
– Tôi cũng nghĩ vậy, thôi cho người ta
về.
Hai Cua
được cho đi, nhìn An, không nói, nhưng có vẻ như ngầm cảm ơn.
*
* *
Tin điện báo từ Vị Thanh, bằng siêu tần
số, cho biết cha của An trở bệnh nặng, nằm bệnh viện Ðồn Ðất Sài
Gòn, chắc khó qua khỏi, cả nhà cần An về gấp. An được vị chỉ huy
cấp giấy cho phép về ngay, nhưng anh chờ trực thăng hai ngày rồi,
không có. Chiều hôm trước, có một chuyến trực thăng, nhưng điểm
về lại là Cà Mau, còn xa Sài Gòn hơn. Không có đường bộ cho xe
chạy, vì cả một vùng xung quanh nơi đồn trú toàn là xã ấp, đồng
ruộng và kinh rạch. Nếu không dùng trực thăng, chỉ còn đường
thủy. An chưa bao giờ dám đi ghe tàu từ đây về Cần Thơ vì vài sĩ
quan và binh sĩ gấp đi về nghỉ phép bằng tàu đò đã bị du kích bắt
giữ đem đi mật khu, mất tích. Nhưng An không thể chờ lâu hơn
được. Những tháng trước, An đã biết về bệnh nặng của cha anh,
chắc cha An khó qua khỏi lần trở bệnh này. An đành liều, tính
toán rời Ngang Dừa về Cần Thơ bằng đường thủy. An có quen thân
ông Phó hành chánh Hưng, bên quận. Ông ta làm gấp ngay cho An một
căn cước dân sự, một giấy chứng nhận là giáo viên trường tiểu học
Ngang Dừa, và một sự vụ lệnh nói An về họp với Khu học chánh tỉnh
Phong Dinh. An nhờ cô giáo Hương cho mượn chiếc cặp da của Cô và
vài cuốn sách giáo khoa bậc tiểu học. An mặc đồ dân sự, như một
thày giáo làng và ngay buổi sáng sớm, đáp tàu đò để đi Cần Thơ.
Anh dự tính sẽ kịp chuyến chót của xe đò Ðức Hiệp từ Cần Thơ về
Sài Gòn cùng ngày.
Chiếc tàu đò rời bến từ khu chợ Ngang
Dừa. Khói của động cơ dầu cặn bay tỏa mùi hắc. An muốn kín đáo
nên ngồi trong khoang tàu. Nhưng hơi khói làm ngột ngạt, anh phải
ra phía đầu tàu, hứng gió mát và tìm không khí trong lành. Hành
khách trên tàu chỉ có sáu người đàn bà, buôn bán, nói chuyện ồn
ào, tuổi của họ khoảng chừng từ hai mươi đến bốn mươi. Có hai
người trông khá đẹp, trẻ trung, nước da mặn mà. An thầm nghĩ, một
cách thơ thẩn và khôi hài, như muốn quên đi nỗi lo âu trong lòng
cho một chuyến đi có thể coi là nguy hiểm cho anh: không ngờ tại
Bến Ngang Dừa mình lại có dịp đi chung thuyền với các thương nữ
như chàng Tư Mã Áo Xanh ngày xưa ở Bến Tầm Dương. Khác biệt rất
xa là An vô danh tiểu tốt về thơ văn, mà người xưa thì thi tài
lừng lẫy một thời. Thi sĩ họ Bạch tới bến vào lúc canh khuya. An
rời bến vào buổi sớm mai. Tư Mã Áo Xanh đất Giang Châu ngày trước
gặp có một thương nữ đàn hát tài hoa. An gặp tới sáu bà buôn bán
ồn ào. Cô nào, bà nấy cũng lo chuyện làm ăn, chẳng ai đàn hay,
hát ngọt!
Ông
chủ tàu, cũng là tài công, độ ngoài năm mươi, còn tráng kiện. Ðã
có người gửi gắm An cho ông nên ông tiếp An rất thân tình, cởi
mở. An thấy mấy hành khách trên tàu, quen thuộc kêu ông ta là Chú
Tư. Phụ với ông là đứa con trai, độ mười bốn, mười lăm tuổi. Cậu
giúp cha bằng cách dùng sào chống đỡ hai bên lúc tàu rời bến. Khi
tàu di chuyển, An thấy cậu bé thỉnh thoảng lấy bình nước, tưới
nước nơi động cơ, có lẽ để làm cho máy bớt nóng. Như vậy, kể cả
An, trên tàu chỉ có ba người là đàn ông, còn sáu hành khách kia
là phụ nữ. An nghĩ thầm là tàu có chín người, con số này hên.
Chiếc tàu đò qua Cồn Dừa, rồi qua Xóm
Chài, sắp sửa vào Sông Lớn. Tên gọi là Sông Lớn, nhưng đây cũng
chỉ là một nhánh của dòng Hậu Giang. Lần đầu tiên, An rời xa vị
trí của đơn vị bằng đường sông nước.
Mấy người hành khách phụ nữ bắt đầu nói
chuyện lời lỗ, buôn bán. Các “thương nữ” này lo việc hàng họ,
không để ý gì tới An. Có lẽ họ cũng quen với cảnh có người quá
giang kiểu này. Chú Tư chủ tàu mời An một ly trà nóng. Có gió
mát, hơi lạnh trên sông vào buổi sáng, được ly trà ấm, An thấy dễ
chịu. An hỏi chuyện vài câu với chú Tư và cậu bé, nhưng anh hạn
chế đối thoại, sợ nói nhiều lộ tung tích của mình. Có lẽ trên
chiếc tàu đò nhỏ này, chỉ mình Chú Tư biết An là ai. Nhưng chú
cũng gọi lại An là chú, có nghĩa là chú em. An thầm cám ơn vì Chú
Tư đã muốn giữ kín tông tích cho mình.
Tàu ra tới sông lớn, tăng thêm tốc độ,
gió như mát hơn. Hai bên bờ là những lùm cây xanh tươi, phần
nhiều là cây cần đước và dừa nước. Lâu lâu, tàu lại qua những xóm
làng nho nhỏ, xanh những bóng dừa. Nhiều hàng dừa, quả trái chi
chít dưới những tàu lá xanh phía gần ngọn cây. Cảnh trí sông nước
miền Hậu Giang thật là đẹp, và có dáng an bình quá. Lác đác vài
ghe tàu xuôi ngược trên dòng sông. An mở chiếc cặp–táp Cô Hương
cho mượn, lấy mấy cuốn sách giáo khoa tiểu học ra coi cho qua
thời giờ. Những sách tập đọc, sách dạy làm toán sơ đẳng cộng trừ
nhân chia, vài trang lại có những dòng chữ viết tay ghi chú của
Hương. Nét chữ đẹp và mềm mại, hiền như người con gái chủ nhân
những dòng chữ. An cũng mới quen Cô Giáo Hương được một hai tháng
nay.
Tàu đã
chạy được độ trên hai mươi cây số đường sông, chợt có ba tiếng
kẻng từ ven bờ vọng ra. Một bà hành khách nói:
– Lại “mấy ổng” đòi kiểm soát, thu thuế
rồi!
An nhìn
ra phía trước. Bờ phía bên phải có một chiếc cờ xanh đỏ, cột vào
một cây sào dài, đang đưa qua đưa lại bên sông. Cờ của Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam! An biết ngay là tàu của anh bị phía bên kia
chặn lại. An thực sự lo sợ, phen này bị bắt ra bưng thì hết hy
vọng gặp lại Cha đang đau nặng. Có khi vĩnh viễn xa mẹ và các
người thân. Sẽ gian khổ và nhục nhằn. An nghĩ thầm nếu bị cầm tù
trong một chế độ không có tự do cho ngay cả những người chưa bị
bắt giữ, quả sẽ là một tai họa nặng nề cho anh, có khi còn mất
mạng. Tim An đập mạnh, nhưng ngoài mặt anh cố giữ bình tĩnh. Chú
Tư chủ tàu và mấy bà buôn bán thì rất thản nhiên. Họ đã quá quen
với cảnh “kiểm soát” này.
Tàu cặp vào bến, sát bên một chiếc cầu
nhỏ đưa ra mặt sông. Cầu làm bằng thân hai cây dừa, không có tay
vịn. Bốn năm người du kích đứng ở trên bờ, chờ đợi, mặt mày họ
cũng như thường, không có gì là dữ dằn như An thầm nghĩ từ trước.
Có người mới độ mười sáu, mười bảy tuổi, có người trạc gần ba
mươi. Trong đám chỉ có hai người võ trang bằng súng carbine,
những người khác mang lựu đạn nội hóa, và tất cả đều mặc đồ bà
ba. An đoán là xung quanh đây, phải có những toán yểm trợ của họ,
đang nằm trong những lùm cây đây đó, với súng đạn đã lên nòng,
sẵn sàng hành động ứng phó với mọi biến cố.
Hai người du kích lên tàu kiểm soát,
một người hỏi chủ tàu:
– Có gì lạ không Chú Tư?
– Cũng thường thôi. Tàu chở mấy bà con
đem hàng lên Cần Thơ.
– Chú và bà con có gì yểm trợ Mặt Trận
không?
Ðây là
một cách đòi nộp thuế. Một bà nói:
– Tôi đem tôm khô đi bán trên tỉnh. Ðể
tôi tặng mấy chú ít kí.
Bà này lấy một bịch lớn tôm khô, bọc kỹ
càng trong bịch giấy dầu, đưa cho người du kích trẻ. Anh ta nói
ngắn: “Cám ơn cô bác”.
Chưa ai để ý gì đến An và anh đang tạm
mừng thầm.
Một
bà khác tặng cá khô. Một bà cho một thùng giấy đựng đầy rau
cải... Những người du kích nhận hết, không từ chối một món gì.
Việc “thu thuế” có lẽ là công tác chính, kiểm soát chỉ là việc
phụ. Thấy “thuế” nộp đã đầy đủ, họ không hỏi gì thêm mấy người
kia. Một người du kích bây giờ mới quay lại nhìn An:
– Chú Tư, còn anh này là ai dzậy?
Chú Tư thản nhiên đáp lại:
– “Ông thầy giáo” quá giang đi Cần Thơ,
lo việc trường học cho mấy trẻ.
Người du kích nhìn An, quan sát, giọng
nghiêm nghị:
–
Anh cho coi giấy tờ, chứng minh thư.
Bao nhiêu giấy tờ quan hệ, căn cước
quân đội, An đã dấu kỹ giữa hai lớp da của chiếc cặp–táp, dán keo
kỹ chỗ cất dấu. An đưa tấm căn cước mà ông Phó quận Hưng mới làm
giùm, và tờ sự vụ lệnh về họp với Ty Học Chánh Phong Dinh.
Người du kích coi giấy tờ, rồi nói nhỏ
gì với người kia, An không rõ. Rồi anh ta nói:
– Trường hợp này phải hỏi Anh Hai.
Họ giữ tàu lại, ra lệnh cho An lên bờ,
đứng bên một gốc dừa. Một người lục những túi áo và chiếc bóp của
An. Một người khác nắn người anh xem có mang võ khí gì không.
Không có gì để họ nghi ngờ, một du kích nói với người khác:
– Mậy vô trỏng, mời anh Hai.
An hồi hộp thêm, nhưng rán làm vẻ bình
tĩnh. Chỉ ba phút, nhưng An thấy rất lâu, “Anh Hai” từ mấy lùm
cây phía xa bước tới. An bàng hoàng cả người vì nhận ra Anh Hai
chỉ huy toán du kích là Hai Cua. An đã có dịp chữa bệnh cho mẹ
anh ta và đã nhiều lần mua cua của anh. Hai Cua chỉ hơi sững
người vài giây, nhưng rồi anh ta làm như không có chuyện gì quan
trọng, như chẳng hề quen biết gì với An. Anh ta nói với mấy đàn
em:
– Có
chuyện gì dzậy, tụi bây?
Một người du kích nói:
– Anh Hai, anh này khai là thày giáo.
Tụi em thấy anh ta còn trẻ, tóc lại cắt ngắn, dám là sĩ quan Ngụy
lắm. Mà thầy giáo thì cũng là công chức Ngụy rồi, tụi em phải hỏi
anh tính sao.
An lo lắng nhưng cố giữ bình tĩnh. Anh không thể ngờ rằng cả vận
mạng và tương lai của anh bây giờ lại éo le nằm trong tay người
chài lưới Hai Cua này.
Hai Cua quay sang An:
– Anh đưa lại giấy tờ coi.
An hồi hộp nhìn Hai Cua, đang coi chứng
minh thư “thày giáo giả” của mình. Tuy mặt Hai Cua lúc này lạnh
lùng, An phải tinh ý lắm mới thấy một khóe cười rất là thầm kín
trên miệng hắn.
Cùng lúc, mấy người phụ nữ buôn bán chờ
lâu trên tàu, coi bộ nóng ruột. Bà đã “yểm trợ Mặt Trận” bọc tôm
khô lúc nãy, đứng ở mũi tàu nói vọng lên:
– Chú Hai mạnh giỏi, hôm nào có cua
lớn, dành bán cho tôi vài con nghe.
Hai Cua quay lại:
– Dì Năm. Tui hồi này mắc bận ở đây, ít
đi lưới lắm. Nhưng nếu có cua ngon, tui cho con Lài đem sang dì.
Một người phụ nữ trẻ trên tàu nói với
lên phía bờ:
–
Thôi cho đi đi Chú. Lỡ phiên chợ chiều của tụi tui mất. Ông này
là Thày giáo. Ðể cho người ta đi. Không có ổng, con em tụi tui
lấy ai dạy học.
Hai Cua xem qua giấy tờ của An, thoáng
một chút suy nghĩ, trao trả lại cho An, rồi nói với đàn em:
– Thày Giáo, chỉ biết dạy học, để cho
đi.
Hai Cua
nhìn An, không chào từ giã, không nói gì thêm. Dù đã quen trước,
chắn chắn là An không tính chuyện bắt tay cám ơn, hay chào từ
biệt, hoặc hẹn “tái ngộ”. Không hợp lúc, và An cũng chẳng bao giờ
muốn phải tái ngộ với anh chàng du kích Hai Cua này nữa, nguy
hiểm quá.
Ðược
tự do, An trở xuống tàu, khẽ thở ra nhẹ nhõm. Khi nhìn lên, An
thấy Hai Cua thong thả đi vào phía sâu trong bờ, rồi bóng dáng
khuất sau những lùm cây xanh. Con tàu nhỏ rời bến, một người du
kích nói với xuống:
– Chú Tư ơi, bận về nhớ nói bà con đem
đường và sữa hộp cho anh em.
Một anh du kích khác nói thêm:
– Có la–de Con Cọp nữa càng tốt.
An nghĩ thầm: Hóa ra tất cả họ đã biết
nhau, và tâm lý chung, dù ờ bên chiến tuyến nào, con người bình
thường có lẽ ai cũng mong bình an, có nhu cầu vật chất, những ham
muốn thông thường như nhau.
Trên đường sông về Cần Thơ, An thầm cầu
nguyện. Cầu cho cha anh có một phép lạ nào để sống thêm. Nhưng sự
cầu nguyện khẩn thiết nhất mà An mong được ban cho lúc này là
không gặp thêm toán du kích nào chặn đường nữa.
An an toàn tới Cần Thơ bằng đường sông
và kịp về Sài Gòn cùng ngày bằng chuyến xe đò chót. Cha An còn
nhận được anh, nhưng bệnh đã tới giai đoạn cuối. Hai ngày sau,
cha An qua đời.
*
* *
Cùng gia đình lo xong tang lễ của cha,
An ở lại Sài Gòn ít ngày với mẹ và anh em. Hai tuần sau, anh trở
lại Ngang Dừa, tiếp tục nhiệm vụ của người y sĩ trong quân ngũ.
An tự hứa là sẽ không bao giờ dùng đường thủy để từ đơn vị đi Cần
Thơ hay để trở về đơn vị nữa.
Trong ba ngày đầu, sau khi về lại nhiệm
sở, An suy tư thật nhiều. Thấy An ít nói, không linh hoạt như
trước kia, mọi người trong đơn vị tỏ ra thông cảm, như hiểu cho
sự mất mát lớn lao trong đời anh. Thực ra, An suy tư nhiều vì nhớ
tiếc cha cũng có, nhưng chuyện làm An bận tâm chính là người chài
lưới Hai Cua.
Hai Cua biết rõ An là trung úy quân đội quốc gia. Trong ngày An
bị chặn giữ bên sông, nếu Hai Cua bắt anh đem ra bưng biền, không
biết số phận An bây giờ ra sao. Giờ đây, rất rõ ràng là An và Hai
Cua, mỗi người ở mỗi bên chiến tuyến. Hai Cua lại hiểu rõ địa
hình, vị trí đơn vị của An. Anh ta có thể chỉ điểm hoặc phụ giúp
các lực lượng bên kia pháo kích chính xác hay tấn công doanh trại
của An khi có dịp thuận lợi. An và bao nhiêu đồng ngũ có thể tử
thương, đơn vị An sẽ tổn thất nặng nề. Còn nếu An tố cáo Hai Cua
với ban tình báo, họ sẽ sang Xóm Chài tìm cách bắt anh ta. Sẽ
khai thác, sẽ tra tấn để tìm thêm những đường dây “phiến Cộng”
trong vùng. Làm vậy chắc là sẽ đưa Hai Cua đến chỗ cùng khổ, luôn
cả mẹ và người em của anh ta sẽ không có ai săn sóc, trợ giúp,
che trở. An có nỡ hại một người đã có hành động tốt với anh
không.
Trong
đời An, anh đã nhiều lần phải cân nhắc, chọn lựa, nhưng chưa bao
giờ mất công tính toán, suy nghĩ nhiều như lần này. Khi còn nhỏ
dại, An thường phải chọn một trong hai món đồ chơi cha mẹ đồng ý
mua cho, như lựa khẩu súng giả hay chiếc xe chạy bằng giây thiều.
Khi lên trung học, anh phải suy nghĩ mất vài ngày để chọn học ban
văn chương hay ban toán. Xong trung học, anh lại phải chọn học
trường kỹ sư Phú Thọ hay trường Y khoa đường Trần Quý Cáp. Ðậu
xong Nội trú tại Sài Gòn, anh phải chọn ngành nội thương hay là
giải phẫu. Bây giờ An cần quyết định tố cáo hành tung của Hai Cua
hay là giấu nhẹm mọi chuyện, coi như không có gì xảy ra.
Sau cùng, An có một lựa chọn. Anh nói
cho Trung úy Hậu ban tình báo biết là chuyến về Cần Thơ của anh
mấy tuần trước, anh đã bị du kích chặn xét và trưởng nhóm du kích
chính là Hai Cua. Hắn biết An là Trung úy y–sĩ nhưng không bắt
giữ. Trung úy Hậu quyết định rất nhanh chóng:
– Tôi sẽ không nói chuyện này cho ai,
sợ họ lại thẩm vấn bác sĩ, có khi phải lên trình diện phòng nhì
Sư Ðoàn, rất phiền phức lôi thôi. Nhưng bác sĩ đã cho tin tức
tình báo chính xác, bổn phận tôi phải bắt hắn. Tôi xin phép Chỉ
Huy Trưởng, ngày mai xin thanh sát tuần phòng Xóm Chài, có bác sĩ
đi khám bệnh dân sự vụ cùng với chúng tôi. Mình phải tìm bắt Hai
Cua để khai thác. Cả một mạng lưới do thám của tụi nó quanh đây!
An đã có những giao hảo khá thân với
Trung úy Hậu, anh nói:
– Vì an ninh chung cho cả đơn vị, tôi
nghĩ trung úy làm vậy là đúng. Nhưng tôi sẽ cho ông sĩ quan trợ y
và toán y tá của tôi đi lo dân sự vụ và phát thuốc cho dân lần
này. Toán thám báo và trung úy sẽ lo việc kia. Tôi muốn tránh, vì
trong lòng thấy không thoải mái nếu tôi hiện diện và chính thức
tham dự việc dẫn giải Hai Cua.
Trung úy Hậu đồng ý.
Sáng hôm sau, cả một lực lượng đến Xóm
Chài. Vừa công tác dân vận, vừa truy lùng người du kích cộng sản
Hai Cua. Nhưng không tìm ra hắn, nghe nói Hai Cua đã cùng mẹ và
em dọn nhà đến một thôn ấp, một làng xóm nào xa xăm, không ai rõ.
Hay là có rõ, họ cũng không dám nói. Hắn đã rời Xóm Chài hơn hai
tuần trước, chỉ ít ngày sau khi hắn cùng với toán du kích gặp An
lần chót bên ven bờ Sông Lớn.
*
* *
Trong một dịp hàn huyên với bạn bè tại
Sài Gòn, An đem chuyện Hai Cua kể cho các bạn nghe. Một anh bạn
đặt câu hỏi:
–
Hai Cua không bắt giữ bạn, mặc dù biết rõ bạn là sĩ quan bên
mình. Bạn lại tố cáo, để lùng bắt hắn. Có lúc nào bạn nghĩ là
mình hành xử thiếu nhân hậu, kém tình nghĩa, chưa bằng một người
du kích cộng sản không?
An đã có sẵn câu trả lời:
– Không! Bạn ơi. Việc liên hệ, mua bán,
trị bệnh lúc đầu giữa tôi và Hai Cua là theo tình cảm riêng, giao
thiệp hàng ngày rất thông thường, rất tự nhiên của con người.
Chuyện sau này phải báo cáo Hai Cua là du kích bên đối phương khi
đã biết chắc chắn tông tích của hắn, chỉ là bổn phận của tôi với
đơn vị, là việc phải làm của một quân nhân cho sự an toàn của
đồng ngũ và của chính mình nữa. Mặc dù khi làm ơn, trả nghĩa ta
không nên kể, cũng chẳng nên tính sổ, chẳng nên “cộng trừ”. Nhưng
trong trường hợp đặc biệt này, lại càng dễ để tôi quyết định. Tôi
lo chữa trị, cứu chữa Mẹ của Hai Cua một lần. Góp phần thả hắn
khi còn nghi ngờ một lần. Hắn cho lại tôi một buồng chuối cau
cùng một chục cua. Rồi “tha tào” tôi một lần. Nếu “kết toán” ân
nghĩa, “sổ sách” coi như quân bình rồi. Việc thông báo về tông
tích Hai Cua là chuyện tôi phải làm. Quyết định lùng bắt Hai Cua
là trách nhiệm của ông trung úy an ninh và của vị chỉ huy. Hơn
nữa Hai Cua có để tôi đi, cũng chẳng hại gì đến cái tổ du kích
của hắn. Trái lại, nếu không báo cáo hành tung của hắn, tôi thấy
có lỗi với Trung Ðoàn tôi đang phục vụ và tôi không thể nào...
ngủ yên được.
Tại đơn vị, cũng như với bạn bè, sau này không ai nhắc tới chuyện
Hai Cua nữa. Nhưng An lại gặp một trở ngại nhỏ. Cho đến bây giờ,
mỗi khi dùng món cua, cua hấp, cua xào me, cua rang muối, cua
gừng hành, cua farci..., dù đặc sắc đến đâu, An không bao giờ
thưởng thức món hải sản ngon miệng này một cách hồn nhiên, “tận
tình” như ngày trước nữa. Mỗi khi dùng cua, anh luôn luôn nhớ tới
người du kích cộng sản, nhiều lần gặp gỡ, khi buồn khi vui, một
thời đã xa...
Trần Văn Khang
(Trích trong tập Hai Bên Chiến Tuyến)
Nguồn:
https://freedom-vaca.org/2023/08/28/truyen-ngan-nguoi-chai-luoi
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Sương Nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, August 29,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang