Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
Valentine’s
Day
Tác giả:
Minh Thảo
Elizabeth Hoàng
Bấm vào đây để in ra giấy(Print PDF)
Lời Tác giả:
Thưa Quý Vị,
Thấm
thoắt nhà tôi đã sang bên kia thế giới được 5 năm. Nhân dịp gia đình
chúng tôi kỷ niệm và tưởng nhớ tới nhà tôi. Tôi xin chia sẻ tới
quý vị bài Tiễn Biệt của tôi viết cho người chồng quá cố của tôi và
bài Điếu Văn rất chi tiết, đặc biệt cúa Trung tá Nguyễn Văn Dưỡng
viết cho nhà tôi khi chồng tôi mất.
Trung tá Dưỡng là một nhà
văn và cũng là người viết sử cùng làm với nhà tôi trước kia ở Việt
Nam.
Thưa Quý Vị, Tôi muốn chia sẻ tới quý vị những ai đã
biết nhà tôi và chưa biết về anh. Những niềm đau xót vợ mất chồng,
con mắt bố của gia đình chúng tôi sẽ được xoa dịu rất nhiều nhờ ân
tình của quý vị. Đâu đây vong linh nhà tôi chắc sẽ cảm động vẫn có
người tưởng nhớ tới anh một quân nhân hết lòng phục vụ Tổ Quốc bằng
Danh Dự và Trách Nhiệm.
Bà Quả Phụ Hoàng Ngọc Lung
(Xem bài Điếu văn của Trung tá Nguyễn văn Dưỡng ở phần Phụ Lục cuối
bài)
Anh Lung Yêu Quí,
Thấm thoát anh
ra đi đã được năm năm, đã để lại biết bao sự thương nhớ của em và
các con.
Em biết
rằng luật tạo hóa có sinh có tử. Đời sống hôn nhân chẳng thể bền mãi mãi,
rồi cũng phải đến lúc vĩnh biệt nhau.
Em rất hãnh diện đã đi được một bước đường
dài 50 năm cùng anh. Con đường chúng ta đi không phải lúc nào, chỗ
nào cũng đầy hoa thơm cỏ lạ. Anh và em đã trải qua nhiều chỗ gập
ghềnh, chông gai. Nhưng chúng ta đã nắm tay nhau bước đi trong niềm
tin tưởng tuyệt đối vào sự hướng dẫn bao dung của Thiên Chúa và niềm
tin đó là kim chỉ nam của đoạn đường đã qua của chúng ta.
Mỗi ngày tuổi già như thủy triều dần dần
dâng cao trên bãi cát và sức khỏe lão hoá cũng theo thời gian. Anh
và em đã nương tựa vào nhau, quấn quýt bên nhau để tiếp tục cho
chặng đường tiếp nối cho tới ngày anh lìa xa em và các con. Chúng ta
đã cố gắng gìn giữ tình thương yêu nơi các con cái và hãnh diện các
con của chúng ta rất hiếu thảo và thành tài trong xã hội.
Em làm sao có thể quên được những ngày
chúng ta hạnh phúc bên nhau. Thuở ban đầu đã đưa chúng ta vào một
chân trời hoa mộng, với những náo nức của những buổi hẹn hò. Anh đã
chờ đợi em nơi cổng trường Gia Long với tà áo trắng, rồi sau đó là
nơi góc đường Duy Tân khuôn cửa trường đại học Luật Khoa và cuối
cùng là tà áo Thiên Thanh xanh da trời nơi các chuyến bay ở phi
trường Tân Sơn Nhất và lãng mạn hơn ở dưới những hàng liễu xanh, bên
dòng suối nước.
Thời gian tuyệt đẹp này bỗng nhiên bị giông tố của thời cuộc đã đưa
chúng ta đi đến hôn nhân. Anh là một quân nhân với những âu lo về
thế sự lúc đó nên anh muốn đi tìm một tia sáng chan hòa tình yêu như
một linh dược để cho tinh thần của anh được bình thản hơn và khỏa
bớt được những suy tư.
Em mãi mãi nhớ câu nói của anh “Anh đã tìm
thấy vũ trụ của anh ở nơi em người anh yêu thương, để từ đó trở đi
anh không còn phải đi khắp vũ trụ nữa để tìm kiếm người trong mộng”.
Và anh đã ngâm câu thơ “Mắt em là một dòng sông, thuyền anh bơi lội
trong dòng mắt em”. Em thật cảm động khi nghe những lời nói đầy chân
tình của anh.
Em
và các con rất hãnh diện về anh. Đối với gia đình, anh là một người
chồng chung thủy luôn yêu quí săn sóc em. Đối với các con, anh là một
người cha gương mẫu mà các con rất kính yêu. Đối với Đất Nước Tổ
Quốc, anh đã mang tuổi thanh xuân của mình ra phục vụ quân đội suốt
24 năm trường với nỗ lực siêng năng, kiên trì hoạt động với hết khả
năng của mình.
Anh là một cấp chỉ huy tài giỏi, trí thức, đức độ và nhân hậu do các
sĩ quan làm việc dưới quyền của anh đã khen tặng. Đó là món quà tinh
thần rất quí báu không thể mua được bằng tiền bạc, vật chất.
Anh đã được sự nể phục của các tướng tá
Đồng Minh với những văn bằng và thư từ khen tặng. Đặc biệt anh cũng
được sự kính trọng quí mến của thuộc cấp toàn ngành tình báo chiến
trường Việt Nam.
Dù anh đã xa lìa em nhưng hình bóng anh và những kỷ niệm, những ngày
hạnh phúc tràn trề bên nhau mãi mãi ngự trị trong tâm khảm của em.
Bây giờ mỗi khi về nhà thiếu bóng dáng anh,
em cảm thấy trống vắng, cô đơn vô cùng và em đã thức trắng nhiều
đêm. Em không còn thấy tiếng anh săn sóc hỏi han em mỗi khi em về
nhà, em không còn nghe thấy tiếng chân anh nhẹ nhàng ra khỏi phòng
ngủ mỗi buổi sáng để tránh em thức giấc. Ôi biết bao kỷ niệm, mỗi
lần hồi tưởng lại lòng em dào dạt thương nhớ anh vô cùng.
Dù sao chăng nữa em sẽ cố gắng can đảm
sống nốt cuộc đời còn lại để săn sóc các con cháu của chúng ta.
Em xin anh hãy yên tâm thanh thản nơi miền
Đất Hứa dưới sự che trở của Thiên Chúa.
Vong linh anh sẽ theo lá Quốc Kỳ Việt Nam
Cộng Hoà mà yên lòng ra đi vì anh đã phục vụ tổ quốc bằng Danh Dự và
Trách Nhiệm của một quân nhân.
Với gia đình, anh đã làm tròn bổn phận của
một người chồng và người cha mà em và các con luôn thương yêu, kính
phục.
Thương nhớ anh vô vàn,
Vợ anh,
Minh Thảo Elizabeth Hoàng.
Sau đây là một bài thơ bằng tiếng Anh cho
người chồng quá cố của tôi.
“I Thought of You Today
I thought of you with love today,
but that
is nothing new.
I thought about you
yesterday and days before that too.
I think
of you in silence,
I often speak your name.
all I have are memories and your picture in a frame.
Your memory is my keepsake with which I'll never part.
God has you in His keeping,
I have you in
my heart”
Tôi xin đính kèm mấy tấm hình của chúng tôi:
Hình 1: Đám cưới của chúng tôi chụp lúc trao nhẫn cho
nhau
Hình 2: Chúng tôi chụp trước khi đưa nhà tôi ra phi trường đi
Pháp năm 1968
Hình 3
Hình 4
Hình 5
Hình 3, 4, 5 & 6: Chúng tôi chụp tại Pháp khi nhà tôi đi dự Hội Đàm Ba Lê
Hình 7: Nhà tôi chụp tại Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH
Hình 8: Chúng tôi chụp tại Mỹ
Phụ
Lục
Vĩnh biệt Cố Đại tá HOÀNG NGỌC
LUNG
Chủ đề: Điếu Văn
Tác giả: Văn Nguyên Dưỡng
ĐIẾU
VĂN
Đọc trong ngày đám tang của
Cố Đại
tá QLVNCH HOÀNG NGỌC LUNG
Kính thưa Phu Nhân HOÀNG MINH
THẢO và tang quyến,
Kính thưa quí vị
quan khách Việt–Mỹ điếu tang...
Thật là một hân hạnh lớn lao, nhưng với
nỗi buồn lớn lao hơn cho tôi, ngày hôm nay được tin cậy viết điếu
văn tiễn đưa cựu Đại tá HOÀNG NGỌC LUNG vị Trưởng Phòng II BỘ
TỔNG THAM MƯU, cũng là Trưởng Ngành Tình Báo Quân Sự cuối cùng
của QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ.
Tôi là Văn Nguyên Dưỡng hay nguyên
Trung tá Nguyễn văn Dưỡng, một sĩ quan tình báo quân sự đã phục
vụ 18, trong 20 năm quân ngũ Miền Nam Việt Nam, đã có được cái
duyên hạnh ngộ và phục vụ dưới quyền của Đại tá Lung suốt thời
gian dài đó mặc dù ở nhiều cương vị khác nhau trong Ngành, từ
huấn luyện, tham mưu đến chiến trường.
Sau ngày Quốc Hận, trong bốn chục năm,
nhất là kể từ khi tôi ra khỏi tù và được tị nạn ở Tiểu bang
Hawaii, từ năm 1991, Đại tá thường thăm hỏi tôi và gia đình qua
thư tín điện tử. Cảm động hơn, là mỗi lần viếng thăm thân quyến ở
thành phố Honolulu, Đại tá đều ghé nhà thăm tôi, uống trà, hàn
huyên chuyện cũ, không coi tôi là thuộc cấp mà là một... cố nhân,
một tri kỷ. Vâng, tôi đã tái ngộ cố nhân. Và, như vậy trước sau
hơn sáu thập niên, từ khi tóc còn xanh, chưa ai lập gia đình cho
đến khi đầu đã bạc, đã thành bậc ông nội ông ngoại... Trong thâm
tâm tôi hằng mong mỏi như vậy, được gọi nhau bằng cố nhân... trân
quí hơn bất cứ một danh từ nào khác. Xưa nay, con người sống với
nhau bằng tình nghĩa, sự tri ngộ hơn là... lý lẽ, là địa vị, mặc
dù không nên khinh bạc coi thường tôn ti trật tự xã hội và cấp
bậc trong quân ngũ. Vì vậy, tôi muốn được thưa gởi với cố nhân
bằng một danh từ thân mật hơn, là Niên trưởng, hay bằng danh từ
quí trọng hơn... là Tiên sinh. Thật là bất nhẫn khi gọi người cố
nhân mà thân xác đang nằm trong chiếc quan tài vô tình này là Đại
tá.
Chỉ có
người trong gia đình, những người tri kỷ, mới không phụ bạc nhau.
Thói thường người đời thường phụ bạc tha nhân dù người đó là một
công bộc của tổ quốc, của quân đội. Tiên sinh Hoàng Ngọc Lung là
một trong một số ít công bộc tài đức vẹn toàn từ khi nền Đệ Nhất
được thành lập và nền Đệ Nhị Cộng Hoà tiếp nối ở Miền Nam Việt
Nam, bị khai thác tài năng nhưng bị quên lãng... Nhất là trong 5
năm sau cùng của chế độ tự do, khi Tiên sinh nắm giữ chức vụ cao
nhất lãnh đạo toàn ngành Tình báo Quân sự QLVNCH, với tri thức
chiến lược về chiến trường thế giới, Á Châu và Đông Dương, với sự
đóng góp kiến thức thấu triệt về kẻ thù CSVN từ sách lược chính
trị đến quân sự, từ Miền Bắc, xuyên Lào, Miên, vào tận Chiến
trường Miền Nam... đã góp công lao lớn nhất cho giới chức cầm
quyền giữ vững được trận địa, lãnh thổ, trong thời điểm nguy nan
nhất, khi mà người đồng minh lớn của chúng ta đã muốn bán rẻ Miền
Nam... để tái lập bang giao với Trung Cộng hầu tạo nên “một trật
tự thế giới” do Kissinger bày vẽ. Đáng lý Tiên sinh phải được
thăng cấp Tướng như một số vị đồng khoá, mà có nhiều vị mang đến
hai ba sao, hoặc làm thủ tướng và bộ trưởng trong chánh phủ Đệ
Nhị Cộng Hoà. Thử hỏi một đất nước mà chiến tranh diễn ra ác liệt
ở khắp các mặt trận như dầu sôi, lửa bỏng từng giờ từng phút, thì
các cơ quan tình báo chính trị hay tình báo dân sự làm gì được
hơn cơ quan tình báo quân sự? Tại sao có sự đối xử bất công với
một công bộc cống hiến tâm huyết và trí não tuyệt vời cho đất
nước như vậy? Tại sao người ta khai thác khả năng và sự tận tụy
của người chỉ huy cơ quan tình báo quân sự QLVNCH trong 5 năm
khốc liệt nhất của Miền Nam mà không một chút tưởng thưởng công
lao. Vì vậy tôi cảm thấy bất nhẫn khi gọi vị cố nhân thượng cấp
tài đức đáng kính trọng của tôi bằng Đại tá. Tôi xin phép được
gọi là Niên trưởng Tiên sinh. Trước vong linh của Tiên sinh, tôi
xin nêu rõ hơn sự nghiệp cống hiến tâm huyết, tài năng và đức độ
của Tiên sinh trong hai thập niên hơn phục vụ Quân lực Miền Nam
VIệt Nam.
Những quân trường đào tạo sĩ quan nổi tiếng của Quân Đội Quốc
Gia, trong giai đoạn này, thuộc ngạch hiện dịch là Trường Võ Bị
Liên Quân mở ra ở Đà Lạt từ tháng 9, năm 1950; và ngạch trừ bị là
Trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định ở Bắc Việt và Trường Sĩ quan Trừ
bị Thủ Đức, ở Nam Việt. Các quân trường này được thành lập từ năm
1951. Khoá 1 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức–Nam Định có tất cả 590 sinh
viên tốt nghiệp cấp thiếu úy cuối mùa Xuân năm 1952. Tất cả những
sĩ quan này là những thanh niên trí thức của Việt Nam thuở đó,
được động viên đào luyện để trở thành cấp chỉ huy của Quân Đội
Quốc Gia. Sinh viên sĩ quan Hoàng Ngọc Lung tốt nghiệp ra trường
mang cấp thiếu úy khi mới 20 tuổi. Ông được bổ nhậm làm Trung đội
trưởng rồi Đại đội trưởng, Tiểu đoàn 16 Việt Nam (16e Bataillon
Vietnamien) đóng ở Bùi Chu, sau đó chuyển sang làm Đại đội trưởng
một đại đội ứng chiến ở Khu Chiến Hưng Yên là khu chiến đầu tiên
do sĩ quan Việt Nam chỉ huy trong tuyến phòng ngự De Lattre. Thời
điểm đó, Tướng VC Võ nguyên Giáp đã mở cuộc tổng tấn công suốt
dọc tuyến phòng thủ phía Bắc từ Vĩnh Phúc đến Bắc Ninh và vào
tuyến phía Tây Hà Nội xuống các tỉnh và thành phố nằm giữa Sông
Đà vào Sông Đáy.
Cuộc diện chiến tranh ở Việt Nam và
Đông Dương đổi mới đầy thất lợi cho Pháp. Quân Đội Quốc Gia Việt
Nam cũng bắt đầu gánh vác vai trò quan trọng của mình. Riêng
các sĩ quan xuất thân từ Khoá thứ nhất Trường Võ bị Đà Lạt,
thường gọi là Khoá 3, và Khoá 1 Thủ Đức–Nam Định đã trở thành cấp
chỉ huy ở tuyến đầu của cuộc chiến. Thiếu úy Hoàng Ngọc Lung nằm
trong số sĩ quan này. Hãnh diện và hào hùng.
Nhưng rồi lịch sử đất nước đã lật sang
trang mới, khi Pháp thất trận Điện Biên phủ, Hiệp định Geneve
tháng 7 năm 1954 cắt đôi Việt Nam. Gần một triệu đồng bào miền
Bắc di cư vào miền Nam. Các lực lương chính qui của Quân Đội Quốc
Gia Việt Nam cũng rút hết vào Nam. Định mệnh của mỗi quân nhân
quốc gia đều gắn liền với sự thịnh suy của chế độ Cộng Hoà Miền
Nam. Trung úy Hoàng Ngọc Lung từ cấp Đại đội trưởng thăng lên
Tiểu đoàn trưởng, mang cấp bậc Đại úy năm 1954, khi mới 22 tuổi,
chỉ huy gần 500 chiến sĩ Tiểu đoàn 720 Khinh Chiến ở vùng Đồng
bằng Sông Cửu Long. Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà Tiên sinh là vị
đại úy trẻ tuổi nhất. Sau đó Tiên sinh chuyển sang giữ chức vụ
Tham mưu trưởng rồi Trung đoàn trưởng Trung đoàn 52 tham dự cuộc
hành quân Thoại Ngọc Hầu tại Thất Sơn, Ba Thê tỉnh Rạch Giá. Năm
1956, Tiên sinh được bổ nhậm làm Chỉ huy phó Trường huấn luyện
Quân Báo, An Ninh Quân Đội và Tâm lý Chiến Cây Mai, Chợ Lớn.
Nếu ở vào tuổi vừa thành niên khi còn ở
Hà Nội, Tiên sinh có số vốn học thức để được động viên vào Khoá 1
Sĩ quan Trừ bị Nam Định, thì thời gian ở Trường Cây Mai, Tiên
sinh đã tự tôi luyện, tự học, để có được cái kiến thức bác lãm,
trở thành một cấp chỉ huy trí thức lỗi lạc của quân lực Miền Nam
sau đó. Năm 1958, tôi từ một đơn vị tác chiến ở Miền Trung về
Trường Cây Mai học một khoá An ninh Quân đội, tốt nghiệp, được
giữ lại làm Huấn luyện viên và Sĩ quan An ninh của Trường, tôi
thật sự ngưỡng mộ Thiếu tá Phạm văn Sơn, sử gia, Chỉ huy trưởng
Trường và Đại úy Hoàng Ngọc Lung, Chỉ huy phó. Lúc đó, thì giờ
rảnh rỗi, tôi tình nguyện giúp Thiếu tá Sơn tìm tài liệu ở Thư
viện Quốc gia để giúp Ông kiện toàn và xuất bản quyển Việt sử Tân
biên, thì Đại úy Lung mua tài liệu của Trường Luật Sài Gòn ngày
đêm miệt mài học, trong ba năm liền, không đến lớp nghe giảng mà
đã tốt nghiệp Cử nhân Luật. Tiên sinh sống độc thân, ở lứa tuổi
26, ôm sách mà học để thành người đạo đức có học thức cao rộng,
thành danh và thành công.
Thời gian trôi đi, đến năm 1961, Trường
Cây Mai chỉ còn huấn luyện hai ngành Quân Báo và An ninh Quân
đội. Ngành Chiến tranh Tâm lý tách ra trực thuộc Cục Tâm lý chiến
và có Trường huấn luyện riêng. Thiếu tá Hồ văn Lời từ Phòng II Bộ
Tổng Tham Mưu về thay thế Thiếu tá Phạm văn Sơn. Đại úy Lung và
tôi vẫn phục vụ ở vị trí cũ, nhưng cả hai được biệt nhãn dành
riêng của tân chỉ huy trưởng. Sau cuộc đảo chánh 1 tháng 11, năm
1963, Trung tá Hồ văn Lời được bổ nhậm làm Trưởng Phòng II Bộ
Tổng Tham mưu thay thế vị Đại tá Nguyễn văn Phước rất có uy tín
thời Đệ Nhất Cộng Hoà vừa bị các tướng đảo chánh bắt giữ. Trung
tá Lời đem Tiên sinh Hoàng Ngọc Lung và tôi lên Bộ Tổng Tham mưu,
giúp chấn chỉnh lại cơ sở và nhân sự bị phe thân đảo chánh phá
hủy và bắt giam. Tiên sinh thăng thiếu tá, tôi thăng đại úy là
những người không có công trong cuộc đảo chánh nhưng có gánh nặng
giúp vị tân trưởng ngành Quân Báo tái phục hồi hoạt động của
ngành này vừa bị thất sủng... nhân tài bị bắt bớ giam cầm. Tiên
sinh được chỉ định làm Trưởng Khối Kể Huấn Tổ lo về kế hoạch tái
tổ chức lại ngành Tình báo Quân sự từ trung ương đến các đại đơn
vị và địa phương, và đào luyện cán bộ cho toàn ngành theo nhu cầu
đòi hỏi của chiến trường. Tôi chỉ lo về phương tiện, tiếp liệu,
ngân sách và quản trị nhân viên cho riêng Phòng II Bộ Tổng Tham
Mưu.
Đến đầu
năm 1965, tôi mới hiểu rõ hơn tư cách khiêm tốn không có tham
vọng chính trị của Tiên sinh. Năm 1964, Tướng Nguyễn Khánh đảo
chánh Dương văn Minh, lên nắm chính quyền, rồi sau đó chính Ông
Khánh cũng bị mấy lần đảo chính bởi những tướng tá thất sủng. Một
lần diễn ra tháng 2/1965, viên Thiếu tá Chỉ huy trưởng Đơn vị
101, trực thuộc Phòng II Bộ Tổng Tham Mưu, đã kết bè với quân đảo
chánh. Thất bại nên bị bắt giam. Đại tá Lời chỉ định Tiên sinh
làm Chỉ huy trưởng Đơn vị 101 thay thế ông thiếu tá kia. Đơn vị
này là một đơn vị tình báo quân sự chiến lược được Tình báo Hoa
kỳ ở Sài Gòn yểm trợ tối đa phương tiện và mật phí, dĩ nhiên dễ
bị lợi dụng, dính dáng nhiều đến chính trị lúc đó. Tiên sinh từ
chối không nhận chỉ huy đơn vị nhiều tiền bạc kia. Tôi biết ông
là người không muốn dính líu vào chính trị và tiền bạc. Ông chỉ
muốn làm tròn nhiệm vụ của một quân nhân thuần túy. Tư cách đó
khả trọng. Tôi kính phục Tiên sinh hơn. Đầu năm 1965, Tiên sinh
được ủy nhiệm phối hợp với Phòng II Bộ Tư lệnh MACV Hoa Kỳ (US
Military Assistance Command in Vietnam) để phác họa tổ chức các
cơ quan Quân Báo phối hợp Việt–Mỹ như CICV (Combined Intelligence
Center), CDEC (Combined Documents' Exploitation Center), CMIC
(Combined Military Interrogation Center) và các Biệt đội Quân Báo
hoạt động chung với các Phòng 2 các đại đơn vị Đồng Minh từ cấp
sư đoàn trở lên. Tôi được đưa xuống Trung Tâm Quân báo, làm Chi
huy phó cho Đại tá Lời, Trưởng Phòng II BTTM kiêm nhiệm Chỉ huy
trưởng, để thực hiện cơ sở hỗn hợp, tuyển chọn và đào luyện thêm
nhân sự phục vụ cho các tổ chức nói trên. Như vậy, Tiên sinh và
tôi như bóng với hình, Tiên sinh sáng tạo tổ chức, tôi thực hiện
sơ đồ tổ chức, phối hợp nhịp nhàng để hoàn thành nhiệm vụ của
Trưởng Ngành Quân Báo giao phó, phục vụ tận tụy và bất vụ lợi,
làm lớn mạnh ngành tình báo chiến trường trong thời điểm
1965–1966 khi mà quân Bộ chiến Mỹ và Đồng Minh ồ ạt đổ vào chiến
trường Việt Nam.
Năm 1967, Tiên sinh thăng trung tá, tôi
cũng thăng thiếu tá, trong cùng một danh sách chỉ có hai người.
Chính thời gian phục vụ ở cơ quan đầu não của QLVNCH này tôi đã
trưởng thành và nhìn rõ thế thái nhân tình. Sau trận Tổng tấn
công của quân Cộng sản Việt Nam, Phòng II Bộ Tổng Tham Mưu bị tai
ách lớn sau một... cuộc đảo chính nhỏ nội bộ, từ đó mọi người mới
nhận ra mặt trái của con người phản bội. Tên Trung tá phó Trưởng
Phòng II, nhân cơ hội này ton hót với vị Tham mưu trưởng Bộ Tổng
Tham mưu, lật đổ người ơn là Đại tá Hồ văn Lời, để được bổ nhậm
thay thế chức vụ Trưởng Ngành Quân Báo. Đại tá Lời, vị Trưởng
ngành Tình báo Quân sự hiền đức này lặng lẽ rời chức vụ khi không
có một sơ hở nào. Cờ đến tay ông tân Trưởng Phòng II BTTM mới
phất bạo. Không bao lâu ông này thăng cấp đại tá và đưa ra khỏi
Phòng II BTTM năm sĩ quan cấp tá từng giữ chức vụ quan trọng của
ngành, ra các phòng 2 cấp sư đoàn. Trong khi đó Trung tá Hoàng
Ngọc Lung được đưa sang Hoa kỳ học khoá chiến tranh đặc biệt ở
Fort Brag và sau đó phía Hoa Kỳ yêu cầu Việt Nam xin được giữ
Tiên sinh ở lại quân trường này làm Cố vấn chính thức cho các
khoá huấn luyện sĩ quan Lục quân cuả Mỹ sắp đưa sang phục vụ ở
chiến trường Việt Nam và là instructor huấn luyện cho các nhân
viên Mỹ trước khi sang Việt Nam. Lúc đó, tôi được chỉ định theo
học Khoá Tình báo Cao cấp tại Maryland, Hoa Kỳ. Tháng 1, năm 1969
tôi về nước và bị thuyên chuyển ngay ra Phòng 2 Bộ Tư lệnh
SĐ22BB. Tôi nghe tin Tiên sinh đã lập gia đình với một trong các
hoa khôi ngành Hàng không Air Vietnam cuối năm 1968. Năm 1969
Tiên sinh được cử là một trong sĩ quan đầu tiên đại diện Bộ Tổng
Tham Mưu trong phái đoàn Việt Nam Cộng Hoà dự hoà đàm Paris. Cũng
vào thời gian này, Tiên sinh được thăng cấp đại tá.
Đầu năm 1971, Đại tá Hoàng Ngọc Lung
chính thức được bổ nhậm chức vụ Trưởng Phòng II BTTM thay thế ông
đại tá tiền nhiệm đã làm cho Ngành Quân Báo bị tai tiếng không
ít, bị lột chức về tội tham nhũng. Đây chính là thời kỳ Tiên sinh
tạo niềm tin lớn cho Ngành Quân Báo, được sự tin cậy của các
tướng lãnh Bộ Tổng Tham Mưu và gây uy tín lớn với các đại đơn vị
Đồng Minh.
Ngay khi từ Paris trở về, Tiên sinh đã viết một tờ trình lên TT.
Nguyễn văn Thiệu hai khả năng sắp đến của cả kẻ thù CSVN ở nội
địa Nam Việt Nam và người bạn Đồng Minh Hoa kỳ âm mưu bán đứng
Nam Việt Nam. Thứ nhất, CSVN sẽ tiệm tiến thi hành kế hoạch giành
dân chiếm đất ở Miềm Nam và gia tăng áp lực quân sự ở chiến
trường để chiếm ưu thế trên bàn hội nghị. Thứ hai, có triệu chứng
Kissinger bắt đầu đi đêm với Lê Đức Thọ có thể làm nguy hại cho
Miền Nam. Đây là hai cống hiến lớn nhất của Tiên sinh để cho cấp
lãnh đạo VNCH chuẩn bị kế hoạch đối phó và kiện toàn Quân Lực
VNCH. Trong hai năm kế tiếp, những điều mà Tiên sinh báo trình đã
tuần tự diễn ra. TT. Thiệu đã biết trước ý đồ bất chánh của
Kissinger và đã có những phản ứng thích họp.
Một cống hiến quan trọng nữa là Phòng
II Bộ TTM đã biết rõ và báo cáo đầy đủ kế hoạch tổng tấn công của
CSVN vào Miền Nam mùa Hè năm 1972, với mục tiêu và khả năng của
chúng trong từng mục tiêu. Nên Quân Lực VNCH đã phản ứng vô cùng
hiệu quả.
Đến
sau trận CSVN tấn công thử và chiếm Phước Long, với tư cách là
Thuyết trình viên thường trực về tình hình địch ở Hội Đồng An
ninh Quốc gia, Tiên sinh đã trả lời một câu hỏi quan trọng của
Tổng thống: “Sau trận này, bọn Cộng sản sẽ làm gì nữa?”. Tiên
sinh trả lời: “Chúng sẽ tấn công Cao nguyên, mục tiêu chính sẽ là
Ban Mê Thuột. Trong các trận tấn công này của quân CSVN, khả năng
yểm trợ của Không Lực Hoa Kỳ là không có. Mỹ chắc chắn sẽ bỏ rơi
Miền Nam.”
Sau
cùng Tiên sinh đã báo cáo cho Tổng thống Thiệu và Hội đồng An
ninh Quốc gia, âm mưu và ngày giờ chính xác quân CSVN sẽ tấn công
Ban Mê Thuột, nhưng các tướng lãnh ở Sài Gòn lại tin theo Tướng
Phạm văn Phú, Tư lệnh QĐ II & QK 2, là Cộng quân sẽ tấn công
Pleiku, điều SĐ23BB lên đó, bỏ trống Ban Mê Thuột. Sau khi thành
phố này thất thủ, TT. Thiệu hỏi Tiên sinh: “sau trận này, cộng
sản sẽ làm gì?” Câu trả lời của Tiên sinh: “Chúng sẽ tràn xuống
chiếm duyên hải, cắt đứt Quân khu 1, và mở trận tổng tấn công
chiếm Miền Nam.” TT Thiệu hỏi tiếp: “Họ dự trù chiếm trọn Miền
Nam trong bao lâu.” Tiên sinh trả lời: “Trong hai năm”. Như vậy,
theo Tiên sinh là miền Nam tuy đã bị cô lập, nhưng CSVN dự trù
phải mất hai năm, kể từ sau trận Ban Mê Thuột, tháng 3, năm 1975.
Không biết câu hỏi của TT. Thiệu lúc đó là để phản công hay để
giúp rút ngắn thời gian chiến thắng của CSVN bằng cách ra lệnh
rút bỏ Cao Nguyên Trung Phần làm cho Quân Lực VNCH tan tác trên
Liên tỉnh lộ 7–B, và sau đó ra lệnh bỏ luôn Quân khu 1, làm cho
tan tác thêm lòng quân và sụp đổ cả một chế độ, chỉ trong vòng
hai tháng... Năm năm trời đằng đẵng, cúc cung tận tụy, đem bao
nhiêu tâm trí vào khả năng phục vụ, công của Tiên sinh bị quên
lãng. Âu đó là công... của những con dã tràng xe cát... là định
mệnh chung của mọi chiến sĩ trong QLVNCH!... Nhưng những tướng tá
cao cấp Hoa kỳ từng phục vụ ở Nam Việt Nam trong 5 năm sau cùng
của cuộc chiến như các Đại tướng Creighton William Abrams,
Frederi C. Weyand, các Trung tướng Tình báo Quốc Phòng (DIA,
Defense Intelligence Agency) như Davidson, Tighe, Potts, Walters,
các Thiếu tướng Hudson, John Murray, Đại tá William B. Legro, đặc
biệt là Giám đốc CIA William Colby. Hai trong các vị này là Trung
tướng William Potts và Đại tá William Legro đã viết thư với lời
lẽ trân trọng mang ơn và nồng nhiệt khen ngợi sự hiểu biết sâu xa
của một nhà trí thức vượt bậc của Tiên sinh, người lãnh đạo cao
nhất ngành Quân Báo Việt Nam, đã góp công lớn nhất về tri thức
tình báo chiến trường giúp cho Tổng thống và Quân Lực VNCH chiến
thắng trong những chiến dịch lớn nhất của CSVN ở Miền Nam, huấn
luyện trên 10,000 nghìn sĩ quan Hoa kỳ hiểu biết nhiều hơn về
chiến trường Việt Nam. Hơn thế nữa, khi chiến tranh chấm dứt,
sang tị nạn ở Hoa kỳ, Tiên sinh còn đóng góp công sức và trí tuệ
viết cho Ủy ban Đặc biệt nghiên cứu chiến trường Đông Nam Á của
Cục Quân sử Bộ Quốc Phòng Hoa kỳ, bốn quyển sử về Chiến tranh
Việt nam: Vietnamese Intelligence, Communist General Offensive in
1968, Vietnamese Strategy và Vietnamese Tactics. Tiên sinh còn
giúp Đại tướng Cao văn Viên hoàn tất quyển sách “Những Ngày cuối
cũng của VNCH” và trả lời các cuộc phỏng vấn của các nhà viết sử
Hoa kỳ và Việt nam như Lewis Sorley, Jay Wright, Nguyễn Kỳ Phong
về Chiến tranh Việt Nam.
Một đời trong quân ngũ, tuy Tiên sinh
không thăng được cấp tướng như một số bạn đồng khoá nhưng được
tưởng thưởng Bảo Quốc Huân Chương và nhiều loại huy chương cao
quí khác. Công trạng của Tiên sinh còn được các nước Đồng minh
tặng thưởng, như huy chương của Vương quốc Thái Lan, của Hàn
quốc, của Trung Hoa Dân quốc, và Lục quân Huân chương lẫn Chiến
công Bội tinh của Hoa Kỳ với nhiều Bằng khen và tưởng lục.
Thưa quí vị, tôi có thể kết luận rằng,
Tiên sinh Hoàng Ngọc Lung được sinh trưởng từ một gia đình thấm
nhuần Nho học mà cụ thân sinh được phong chức Hàn Lâm cuả triều
đình, nên khi xuất xứ, đã đem truyền thống đạo đức, nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín, nhất là sự khiêm cung làm tiêu chuẩn cho đời sống
mẫu mực, dù là ở trong quân ngũ. Cộng thêm với ý chí tu thân,
Tiên sinh đã tự học, tự đào luyện, thành một cấp chỉ huy trí
thức, đức độ và nhân hậu, được sự tín nhiệm của tướng lãnh từ
Trung ương đến cấp Quân đoàn, Sư đoàn, được sự nể phục các tướng
tá Đồng minh và sự kính trọng và quí mến của thuộc cấp toàn
ngành Tình báo Chiến trường Việt Nam. Đối với gia đình, Tiên
sinh là một người chồng trung thành, yêu quí người vợ yêu kiều,
trí thức và hiền thục, là một người cha gương mẫu dạy ba người
con khôn lớn có nề nếp, hiếu thảo và đỗ đạt, thành công trong xã
hội. Tiếc thay, ở những năm cuối đời, Tiên sinh đã mất người con
trai duy nhất. Sự ra đi trước cha mẹ trong kiếp nhân sinh là niềm
đau vô tận cho các bậc sinh thành và gia đình. Chính vì vậy, với
tuổi già còn thêm nỗi thương đau, đã làm cho sức khỏe của Tiên
sinh suy giảm mau chóng. Vẫn biết rằng Đấng Tạo Hoá dựng nên con
người là kiếp phù sinh, một ngày thân cát bụi phải trở về với cát
bụi, nhưng cảnh sinh ly tử biệt tránh sao cho khỏi đau lòng người
ở lại. Người đưa tiễn níu quan tài người ra đi, không phải là
muốn níu lại thân xác của con người mà trái tim đã ngưng đập, sẽ
trở thành cát bụi, nhưng là muốn níu lại cái sự nghiệp đã cống
hiến cho tổ quốc, cho nhân loài, níu lại cái tình nghĩa đã trang
trải giữa con người và con người trong kiếp sống của người đã ra
đi. Công danh, sự nghiệp và tình thâm là những điều mà người ở
lại sẽ níu giữ lại được và sẽ mãi mãi được nâng niu trân trọng
khi biết rằng mình phải tiễn biệt vĩnh viễn người đã ra đi.
Hôm nay Thân xác tiên sinh trong cỗ
quan tài phủ Quốc kỳ này sẽ được chôn sâu trong lòng đất, nhưng
anh linh của Tiên sinh còn mãi mãi lưu lại trong lá quốc kỳ.
Người ta sẽ trao lá quốc kỳ này lại cho người cô phụ hiền đức
này, Phu nhân Hoàng Minh Thảo. Xin anh linh của Tiên sinh hãy
theo quốc kỳ mà trở lại mái nhà xưa, tiếp tục bảo bọc, che chở,
ấp ủ người vợ hiền chung thuỷ và làm tấm gương soi đường sáng cho
các con cháu trên bước trần ai nơi xứ sở lắm tự do nhưng không ít
nhiễu nhương này. Và bằng cách nào đi nữa, những thuộc cấp của
tiên sinh, vẫn mãi mãi ghi tạc trong lòng nếp sống đạo đức, sự
thanh bạch và tài trí xuất chúng của Tiên sinh. Riêng đối với
tôi, hơn sáu mươi năm, phong thái tao nhã, tư cách khả trọng, chí
công vô tư, tài đức vẹn toàn của Tiên sinh, tôi không bao giờ
quên. Tôi sẽ luôn luôn nhớ người như một người thầy, một thượng
cấp và một tri kỷ. Hôm nay với điếu văn này, không phải tôi tiễn
cố nhân ra đi mà chỉ muốn ghi lại tấm gương sáng cho thế hệ trẻ
tìm hiểu nhiều hơn về đức độ và tài trí của một người yêu nước đã
luôn luôn phục vụ Tổ Quốc bằng Danh Dự và Trách Nhiệm của một
chiến sĩ gương mẫu...
Tiên sinh Hoàng Ngọc Lung, xin anh linh
người hãy ở lại mãi với chúng tôi và với vợ con người. Linh hồn
người tài đức sẽ tồn tại trong lòng mọi người, mãi mãi.
Người viết sử.
Văn Nguyên Dưỡng
Bấm vào đây để in ra giấy(Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Alpha Lê Tiến Dũng chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, February 14,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang