Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Văn chương Việt Nam
Chủ đề:
Tiếng Việt
Tác giả: Trần Văn Tích
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Tôi
vốn nhất mực chủ trương phải viết sử dụng mà không thể viết xử dụng
vì viết xử dụng theo tôi là sai, do đó tôi mới được một anh bạn ở Úc
gửi cho đọc tài liệu “Thư gửi bạn trước khi vào sách” do Tủ sách TQH
chấp bút. TQH là viết tắt ba chữ Tiếng Quê Hương và tủ sách do nhà
văn Uyên Thao phụ trách.
Nội dung “Thư gửi bạn trước khi
vào sách”
“Thư gửi bạn trước khi vào sách” là
lời mở đầu của cuốn Nhân văn Giai phẩm với tác giả là nữ sĩ Thụy
Khuê nhưng tài liệu không giới thiệu mục đích sáng tác, nội dung
nghiên cứu, hoàn cảnh ra đời, tôn chỉ chính luận, v.v. của Bà Thụy
Khuê mà lại có phần phân trần về cách viết chữ sử dụng. Nguyên Bà
Thụy Khuê viết sử dụng nhưng Tiếng Quê Hương bác bỏ lối viết này và
tự cho phép sửa lại thành xử dụng. Sở dĩ có hành động không theo lệ
thường như thế là vì “Tủ sách Tiếng Quê Hương phải tự định một chuẩn
hướng theo các chỉ tiêu do cân nhắc chủ quan với mong mỏi không gây
hỗn loạn thêm cho cách viết và cách dùng từ.”
Dựa vào “chuẩn hướng” định sẵn, Tiếng Quê
Hương trình bày lý do viết “xử dụng” thay vì “sử
dụng” như sau:
(Trích) “Như
chúng ta đều biết, đa số từ Việt ngữ là Hán Việt tức có gốc Hán tự.
Chẳng hạn chữ sử hoặc xử của ta là 5 chữ Hán viết theo các bộ Khẩu,
Nhân, Mã, Hô, Mộc. Trước đây, các học giả Thiều Chửu, Đào Duy Anh đã
phiên âm 3 chữ viết theo các bộ Khẩu, Nhân, Mã là sử và 2 chữ viết
theo các bộ Hô, Mộc là xử. (...) Từ viết theo bộ Nhân được phiên âm
là sử có nghĩa sai khiến (...) Riêng từ viết theo bộ Hô phiên âm là
xử bao gồm nhiều nghĩa như thu xếp (...) Theo cách phân tích này,
chúng tôi thấy không thể viết sử dụng vì ở đây không hàm nghĩa sai
khiến (...) Chữ xử ở đây chỉ đơn thuần mang nghĩa thu xếp (...)
những thứ gì đang có trong tay mà thôi nên phải viết là xử dụng.”
(Hết trích)
Ai muốn bàn bạc về bệnh tật với chút ít
thẩm quyền thì phải theo học ngành y khoa trong bảy năm, sau đó còn
phải học thêm năm bảy năm nữa mới có thể góp ý về các vấn đề y khoa
vì y học là một khoa học. Tay ngang muốn lên tiếng về một vấn đề y
học nào đó, không ai cấm hết nhưng không ai dám đặt tin tưởng hoàn
toàn vào tay ngang. Ngôn ngữ cũng là một khoa học. Nó có những qui
luật, những nguyên tắc. Nó có những phương tiện từ vựng và các
phương tiện ngữ pháp. Người không thành thạo ngôn ngữ học, người
đứng bên đường, người ở ngoài nghề muốn phát biểu về ngôn ngữ cũng
không bị ai cấm đoán nhưng thực rất khó lòng thuyết phục được người
đọc người nghe.
Phép phiên thiết
Chữ viết tiếng Hán là loại chữ biểu ý, chữ
viết tiếng Việt là loại chữ biểu âm. Khi nhìn vào mặt chữ mà đọc thì
chữ viết tiếng Việt cung cấp ngay âm đọc. Nhưng khi nhìn vào mặt chữ
Hán thì không thể đọc được. Muốn ghi âm chữ Hán, muốn chỉ cách đọc
chữ Hán, phải dùng lối phiên thiết. Nguyên tắc phép phiên thiết là
ghép phụ âm (consonne) hay khung của chữ thứ nhất với nguyên âm
(voyelle) hay khung của chữ thứ hai thành cách đọc của từ được phiên
thiết. Nói chung, có thể xem phiên thiết là một hình thức nói lái.
Phiên thiết chỉ được sử dụng trong các từ
điển, tự điển đơn ngữ Hán-Hán. Cho nên điều kiện tiên quyết nhưng
cần và đủ là phải biết đọc chữ Hán mới vận dụng được phép phiên
thiết (không cần phải hiểu nghĩa chữ vì đây chỉ là vấn đề phát âm,
không phải vấn đề lĩnh ý).
Ví dụ tên tôi chữ Hán viết là ?. Tra chữ
này trong Khang Hy, bộ kim, mục tám nét, sẽ thấy ghi như sau: tiên
đích thiết (...) âm tích 先的切 (...) 音裼. Phụ âm ở đây do chữ thứ nhất
cung cấp, đó là chữ t; nguyên âm do khung của chữ thứ hai cung cấp,
đó là ích. Ghép t vào với ích (t + ích), chúng ta có cách đọc tên
tôi: tích. Ngoài ra, sau khi đã cho cách phiên thiết, Khang Hy còn
sử dụng lối chú âm bằng cách dùng một chữ đồng âm, gọi là phép trực
âm. Trong trường hợp tên tôi, Khang Hy ghi thêm “âm tích 音裼” nhằm
chỉ rõ rằng tên tôi đọc giống như chữ tích bộ y 裼.
Tôi xin nêu một ví dụ khác hơi rắc rối hơn
một chút. Đó là trường hợp chữ tôn trong tôn giáo. Khang Hy ghi ở
phần phiên thiết là tác đông thiết. Tác + đông = tông (chứ không
phải tôn) và như vậy là do kỵ húy. Cho nên – vẫn căn cứ theo phép
phiên thiết! – Đào Duy Anh mới ghi: “Nguyên chữ này trước
Nguyễn-triều vẫn đọc là tông, sau khi kiêng tên húy đời vua
Minh-mạng, mới đọc là tôn.” Vua Thiệu Trị có đến ba tên khác nhau:
Tuyền, Dung, Tông. Vì vậy đến đời vua Minh Mạng, dân chúng kỵ húy
phát âm chữ chúng ta đang bàn thành tôn, từ đó Sài Gòn có đường Lê
Thánh Tôn ở gần chợ Bến Thành; còn Tuyền thì biến âm thành Toàn,
Dung thì biến âm thành Dong. Như vậy do tên vua Thiệu Trị là Tông
theo phép phiên thiết nên quần chúng dân gian tránh tên húy của nhà
vua và đọc trại đi thành tôn.
Khi biên soạn các bộ từ điển, tự điển
Hán-Việt, các tác giả như Đào Duy Anh, Thiều Chửu, Trần Trọng San,
Nguyễn Văn Khôn, v.v. đã lấy cách đọc những từ Hán từ đâu? Chẳng lẽ
quý vị ấy đã rút cách phát âm những từ đó từ trên Trời xuống hay moi
chúng từ đất đen ra? Chư vị đã dùng phép phiên thiết. Cuốn Thiều
Chửu biên soạn rất sát theo qui cách của cuốn Khang Hy, cũng từng ấy
bộ, cũng cùng thứ tự sắp xếp theo số nét, thậm chí theo cả trật tự
các chữ nữa. Có chữ Khang Hy ghi vào chỗ chót, sau ghi chú với chữ
tăng 增 (thêm) thì Thiều Chửu cũng dành cho chữ liên hệ vị trí cuối
cùng. Có thể nói mà không sợ quá đáng là cách phát âm một từ
Hán-Việt như thế nào là do phép phiên thiết muốn thế, bắt thế, qui
định như thế, áp đặt như thế. Và không chỉ riêng Khang Hy mới có
phần phiên thiết, Từ Nguyên cũng trình bày mục phiên thiết giống
Khang Hy; đó là chưa kể đến các bộ bách khoa đại từ điển chữ Hán như
Hán văn đại Từ điển, Trung văn đại Từ điển.
Chữ Hán gia nhập vào tiếng ta không phải
chỉ từ đời Đường. Sau khi Triệu Đà xưng đế, sau khi Mã Viện thắng
Hai Bà thì tiếng Hán đã có cơ hội và thời gian để “chiếm lĩnh” phần
nào ngôn ngữ nòi Việt. Nhưng tiếng Hán thuở bấy giờ chỉ len lén vào,
qua hình thức khẩu ngữ. Đó là chữ Hán cổ. Đến thời Bắc thuộc lần thứ
hai, Trung văn, Trung ngôn chính thức gia nhập gia đình ngôn ngữ
Việt, qua chữ viết, qua thi cử. Đó là chữ Hán đời Đường. Cuối cùng,
có một số chữ Hán đã Việt hóa. Như vậy, những từ Hán vào tiếng Việt
thuộc ba loại.
1.
Chuông là âm cổ của chung; kim hay ghim là chữ châm đọc theo âm cổ.
2. Từ gốc Hán mượn của đời Đường chính là
những từ mà nay ta gọi là từ Hán-Việt. Hệ thống vần Hán-Việt là hệ
thống vần tiếng Hán đời Đường-Tống biến đổi theo qui luật ngữ âm
tiếng Việt, kể cả và nhất là thay đổi về thanh điệu. Chẳng hạn trong
y học, chúng ta có thương tích, thương hàn, chướng khí, tiêm nhiễm,
v.v. Trong ngôn ngữ gốc (tiếng Hán), chúng được biểu thị bằng chữ
khối vuông, khi chuyển sang ngôn ngữ đích (tiếng Việt), hiện nay
chúng được ghi chép bằng hệ thống chữ cái La-tinh. Sự chuyển dịch đó
dựa theo, tuân theo, phục tùng, vâng lệnh phép phiên thiết. Chính vì
thế mà nếu Khang Hy ghi nhiều vận luật (Quảng vận, Tập vận, Vận hội,
Chính vận) bên cạnh Đường vận thì các từ điển, tự điển Đào Duy Anh,
Thiều Chửu, Trần Trọng San, Nguyễn Văn Khôn, v.v. hầu như chỉ chọn
Đường vận để phiên thiết, tức là để đọc lên, để phát âm các từ
Hán-Việt.
3. Nhóm
các từ Hán đã Việt hóa khá đông, chúng ta không còn nhớ gốc gác của
chúng nữa. Xin thử liệt kê làm bằng: đại - đời, kính – gương, các –
gác, bổn - vốn, long - rồng, thanh – xanh, v.v.
Âm tiếng ta nhiều khi vốn rất gần âm tiếng
Tàu. Phiên âm Hán-Việt tương ứng với chú âm Trung văn lắm lúc rất
gần gụi, có khi giống nhau như hai giọt nước: ai: ai, ái, ải; ban:
ban, bản, bán, bạn, biện, v.v. Xem các từ điển Hán-Hán có phần pin
yin rồi đối chiếu với các từ điển Hán-Việt sẽ thấy. Cho nên phiên
thiết không hề thuộc lĩnh vực hàn lâm, không hề là món trang sức.
Phiên thiết là hơi thở, là mạch sống của một thành phần tiếng nước
ta.
Sử
dụng hay xử dụng?
Muốn biết sử dụng đúng hay xử dụng đúng
thì, như đã trình bày, phải dùng phép phiên thiết chứ không có cách
nào khác, lại càng không thể dùng lối lý luận theo kiểu của nhóm Tủ
sách Tiếng Quê Hương. Từ điển Từ Hải phiên thiết hai chữ “sử” trong
“sử dụng” và “xử” trong “xử sự” như sau:
sử, 使: sảng sĩ thiết; sư
chỉ thiết tinh âm sử 史 (phiên thiết là sư + sĩ = sĩ; hoặc phiên
thiết là sư + chỉ = sỉ, âm giống như sử).
xử, 處: xương dữ thiết
(xương + dữ = xử).
(Phép phiên thiết chỉ cho cách đọc và
cách viết nhưng khi chuyển từ Hán sang Việt-Hán thì có thể thay đổi
âm từ i sang ư hoặc thay đổi hai dấu hỏi, ngã).
Những người không thông thạo ngôn ngữ học
nhưng thích chủ trương viết “xử dụng” thay vì “sử
dụng” đưa ra các kiến giải sau đây nhằm biện minh cho chủ
trương của mình:
Có người nại cớ rằng phép phiên thiết là dành cho chữ Hán, sao lại
có thể áp dụng cho tiếng Việt được? Họ cố tình quên rằng chẳng có ai
mang phép phiên thiết áp dụng cho chữ nôm, cho các từ Việt thuần
túy; phép phiên thiết chỉ có hiệu lực đối với các từ Hán-Việt vì lẽ
giản dị các từ nôm na, các từ thuần Việt không thể nào được các tự
điển, từ điển đơn ngữ chữ Hán ghi nhận. Không ai tìm cách phiên
thiết hai chữ trùm chăn chẳng hạn vì các tài liệu tham khảo chữ Hán
không ghi từ trùm cũng như từ chăn. Có người lại hồn nhiên bảo tôi
nói sao thì tôi viết vậy, tôi nói “xử dụng” thì tôi
viết “xử dụng”. Họ quên rằng khi họ phát âm “xử
dụng” là họ đã phát âm sai! Có người Việt Nam gốc Hà Nội đọc là riệu
nên phát âm không đúng nhưng đương sự ý thức được là mình sai và tự
giác viết thành rượu. Trên internet, cách đây vài ba năm còn xảy ra
chuyện rất khôi hài liên quan đến một nhà ngôn ngữ học tài tử. Anh
ta thuộc thế hệ thứ hai trong cộng đồng người Việt tỵ nạn ở Hoa Kỳ
và phụ trách dạy tiếng Việt cho một lớp Việt ngữ ở bậc đại học. Anh
ta không biết viết “sử dụng” là đúng hay viết “xử dụng” mới đúng.
Một số người không chuyên nghiệp về ngôn ngữ học hăng hái góp ý với
anh bạn trẻ; người thì bảo “sử dụng” là đúng, kẻ lại cho rằng “xử
dụng” mới đúng. Tôi chỉ bảo cho anh bạn này biết rằng “sử dụng” mới
đúng chính tả tiếng Việt. Tôi không đá động đến phép phiên thiết vì
biết rằng anh bạn không đủ trình độ để hiểu tôi muốn nói gì. Sau một
thời gian thu góp ý kiến, anh bạn bèn tổng kết; kết quả số người bảo
“xử dụng” là đúng nhiều hơn số người bảo “sử dụng” mới đúng. Người
thầy giáo dạy tiếng Việt bất đắc dĩ bèn quyết định dạy cho học trò
viết “xử dụng” theo như đa số quyết định! Tôi chỉ biết thở dài và tự
dưng nhớ đến chuyện cán ngố dạy tiếng Pháp. Trong một buổi sinh hoạt
tập thể, “nhân dân” băn khoăn không biết tiếng Pháp gọi cái bàn là
la table hay le table. Tranh luận mãi, cuối cùng cán ngố lấy biểu
quyết và số người bảo cái bàn là le table đông hơn! Thế là cái bàn
biến thành giống đực trong Pháp ngữ!
Tủ sách Tiếng Quê Hương còn trình bày suy
tư về cách viết nhiều chữ Việt khác như dòng/giòng, dấu/giấu,
dây/giây, v.v. Nhóm chủ trương còn bác bỏ từ “toàn trị” của nữ tác
giả Thụy Khuê. Nhóm nại lý do nhóm phải theo đuổi và tôn trọng “chủ
hướng” riêng, nhóm phải dựa vào những “chỉ tiêu” riêng. (Chữ “chỉ
tiêu” dùng không đúng, lẽ ra phải là “tiêu chuẩn”. “Chỉ tiêu” là một
mức định ra để đạt tới, thường được biểu hiệu bằng con số).
Rất tiếc trong ngôn ngữ học, người chuyên
môn nghiên cứu theo khoa này phải chấp nhận những qui tắc, những
nguyên tắc khách quan, khoa học chứ không thể tùy tiện, tùy hứng đưa
ra những “chủ hướng”, những “chỉ tiêu” chủ quan, cá biệt.
Tủ sách Tiếng Quê Hương dường như còn có
một khuyết điểm khác: nhóm không để ý đến cách viết từ sử dụng trong
nhiều tài liệu tham khảo phổ thông và phổ biến – trong số các tài
liệu này có tài liệu mang tính quan phương. Đó là các từ điển, tự
điển, tự vị đơn ngữ Việt-Việt và song ngữ Hán-Việt, Pháp-Việt,
Anh-Việt, Đức-Việt, Việt-Đức. Các tài liệu sau đây đều viết sử dụng,
nghĩa là viết với chữ s (“ét”):
Đại Nam Quốc âm Tự vị, Huỳnh Tịnh Paulus
Của, Imprimerie Rey, Curiol & Cie, 1896, Saigon, mục từ sử dụng.
Pháp-Việt Tự-điển, Đào Duy Anh, Nhà Xuất
bản Trường Thi, 1957, Sài Gòn, mục từ emploi.
Việt-ngữ Chánh-tả Tự vị, Lê Ngọc Trụ, Nhà
Xuất bản Trường Thi, 1960, mục từ sử, số 2.
Anh-Việt Từ điển, Nguyễn Văn Khôn, Nhà
sách Khai Trí, 1968, Sài Gòn, mục từ employ.
Việt-Nam Tự-điển, Lê Văn Đức và Lê Ngọc
Trụ, Nhà sách Khai Trí, 1970, Sài Gòn, mục từ sử-dụng.
Hán Việt Từ-điển, Nguyễn Văn Khôn, Nhà
sách Khai Trí, 1960, Sài Gòn, mục từ sử dụng.
Vietnamesisch-Deutsches W#rterbuch, Otto
Karow, Otto Harrassowitz, 1972, Wiesbaden, mục từ sử dụng.
Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên, Nhà
Xuất bản Khoa học Xã hội, 1977, Hà Nội, mục từ sử dụng.
Sổ tay từ Hán Việt, Phan Văn Các, Nhà Xuất
bản Giáo dục, 1989, Hà Nội, mục từ sử dụng.
Từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Văn Đạm, Nhà
Xuất bản Văn hóa Thông tin, 1993, Hà Nội, mục từ sử dụng.
Từ điển Hán-Việt, Hầu Hàn Giang chủ biên,
Thương vụ Ấn thư quán, 1994, Thượng Hải, mục từ sử dụng.
Từ điển Hán-Việt Hiện đại, Nguyễn Kim Thản
chủ biên, Nhà Xuất bản Thế giới, 1994, TPHCM, mục từ shiyè và
shiyòng.
Từ điển
Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, 1994,
TPHCM, mục từ sử dụng.
Hán Việt Từ điển, Trần Trọng San, Bắc đẩu,
1997, Canada, mục từ sử.
Từ điển Đức-Việt, Nguyễn Văn Tuế, Nhà Xuất
bản Văn hóa Thông tin, TPHCM, 2000, mục từ benutzen, Benutzer,
Benutzung.
Chữ
nho trong đời sống mới, Nguyễn Ngọc Phách, Tác giả xuất bản, 2004,
Melbourne, mục từ sử dụng quyền tiên mãi.
Trong tủ sách cá nhân, tôi hiện có hai từ
điển viết xử dụng, nghĩa là viết với chữ x (“ích-xì”):
Pháp-Việt Tân Từ điển, Thanh Nghị, Nhà
Xuất bản Thời Thế, 1961, Sài Gòn, mục từ emploi, employer.
Anh-Việt Từ điển, Nguyễn Văn Khôn, Nhà
sách Khai Trí, 1968, Sài Gòn, mục từ usage. Tuy nhiên ở hai mục từ
employ và employable thì cũng cùng chính từ điển này lại viết sử
dụng!
Tủ sách
Tiếng Quê Hương đã phát hành sách của một số tác giả quen thuộc như
Hoàng Hải Thủy, Cung Trầm Tưởng, Hồ Trường An. Tôi chưa được đọc
thành quả trí tuệ nào do Tủ sách ấn loát và phát hành nhưng tôi tự
hỏi chẳng rõ những tác giả khác cộng tác với Tủ sách Tiếng Quê Hương
có ai phải chịu cảnh phải “thông cảm” với Tủ sách Tiếng Quê Hương
như trường hợp nữ sĩ Thụy Khuê không, khi Bà viết đúng chính tả
tiếng Việt mà lại bị cho là sai một cách vô cùng oan ức!
04-12-2017
BS Trần Văn Tích
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những bài viết của Tác giả đăng trong website này
|
Hình nền: Ngôi sao Phương Đông hướng dẫn Ba Vua tìm Hài Đồng Giê-su. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by Tôn-thất Sơn chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, December 5, 2017
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang