Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Văn Hóa Việt
Chủ Đề: Việt Nho
Tác giả: Nguyễn Nhơn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
BS Thượng Quân Lê Văn Sắc: Thuyết Việt Nho của cha Kim Định cố gắng chứng minh rằng thuyết Nho Giáo của Tầu là Việt Nho của người Việt mà Tầu nhập nhằng nhận vơ chứ Tầu chẳng giỏi giang gì… Nhưng có điều khổ là trong lịch sử Việt Nam thì ta lại nhận là thuộc họ Hồng Bàng (Lộc Tục) là con vua Đế Minh của Tầu (cùng dòng dõi với Đế Nghi của Tầu), đi nhàn du xuống núi Ngũ Lĩnh, vùng Động Đình Hồ, gặp Vụ Tiên và sinh ra dòng giống Lạc Việt, và từ đó Việt Nam có thuyết con rồng cháu tiên, và người đến từ Biển Đông (tức người Nhật) là Đông Di… mà giống Nhật thì là gốc của Mông Cổ, cùng dòng giống với người Korea (Nam Hàn, Triều Tiên).
Hiện
tại, hán ngụy việt cộng đang âm mưu phân tán Môn học Sử Việt cùng
lúc sửa đổi chữ viết nhằm xóa nhòa lịch sử và ngôn ngữ Việt để mở
đường cho sách lược “Tàm Thực hán hóa dân Việt” của hán cộng bành
trướng.
Thân lưu
ly lạc xứ, tuổi đã 82 mà nhớ nhà, nhớ nước cứ ngỡ tuổi còn thơ, lần
tay giở trang thanh sử Việt:
Em đọc
sử Việt con cháu Rồng Tiên
Kinh Dương
vương
Kể từ trời mở viêm bang,
Sơ đầu có họ Hồng bàng mới ra
Cháu đời Viêm
đế thứ ba,
Nối dòng Hỏa đức gọi là Đế Minh
Quan phong khi giá Nam hành,
Hay đâu Mai
Lĩnh duyên sinh Lam kiều,
Vụ tiên vừa thuở
đào yêu,
Xe loan nối gót, tơ điều kết duyên
Dòng thần sánh với người tiên,
Tinh anh
nhóm lại, thánh hiền nối ra,
Phong làm quân
trưởng nước ta,
Tên là Lộc Tục, hiệu là
Kinh Dương
Hóa cơ dựng mối luân thường
Động Đình sớm kết với nàng Thần Long
Bến
hoa ứng vẻ lưu hồng
Sinh con là hiệu Lạc
Long trị vì.
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Lạc long lại sánh Âu ky.
Trăm trai điềm ứng
hùng bi lạ dường.
Noãn bào dù chuyện hoang
đường,
Ví xem huyền điểu sinh Thương khác
gì?
Đến điều tan hợp cũng kỳ,
Há vì thủy hỏa sinh ly như lời,
Chia con sự
cũng lạ đời,
Qui sơn, qui hải khác người
biệt ly.
Lạc long về chốn Nam thùy,
Âu cơ sang nẻo Ba vì Tản viên.
Chủ trương
chọn một con hiền,
Sửa sang việc nước nối
lên ngôi rồng.
LẠC LONG QUÂN
Lạc Long Quân (khoảng thế kỷ 8-7 TCN) (chữ
Hán: 雒龍君 hoặc 駱龍君 hoặc 貉龍君[1]) tên húy là Sùng Lãm (崇纜), là nhân vật
truyền thuyết Việt Nam, con trai của Kinh Dương Vương Lộc Tục và con
gái Động Đình Quân tên là Thần Long
[2]. Lạc Long Quân được xem là
vị vua của nhà nước sơ khai Xích Quỷ trước Văn Lang.
Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem là thủy tổ
sinh ra dân tộc Việt Nam theo truyền thuyết “bọc trăm trứng”. Lạc
Long Quân có thể là danh hiệu truyền lại trong dã sử của một tù
trưởng đã có công trong việc đi đến thống nhất các bộ tộc người Lạc
Việt. Con trai ông là tù trưởng bộ lạc Văn Lang đã thống nhất thành
công 15 bộ lạc, thành lập nhà nước Văn Lang, xưng hiệu Hùng Vương
đời thứ nhất.
ÂU CƠ
Theo truyền thuyết Việt Nam, Âu Cơ (嫗姬) là
tổ mẫu của người Việt. Tương truyền, Âu Cơ là con gái của vua Đế
Lai. Trong khi đi tuần thú phương Nam, ông đã để Âu Cơ lại trên một
cái động. Khi Lạc Long Quân đi đến đây thì thấy nàng xinh đẹp nên đã
đem lòng yêu mến và đem về làm vợ. Hai vợ chồng Lạc Long Quân và Âu
Cơ đã sống với nhau và sinh ra 100 người con
[1].
Sau đó vì thủy thổ tương khắc nên hai người phải chia con ra 50 con
theo cha về biển, 50 con theo mẹ về núi và chia nhau cai quản các
vùng [1].
Đây là tổ tiên của người Bách Việt.
Huyền thoại
Âu Cơ là một nàng tiên xinh đẹp sống ở
trên những ngọn núi cao. Nàng đi khắp bốn phương để giúp và trị
những người đang lâm bệnh và gặp khó khăn. Nàng có lòng từ bi và có
tài về y thuật. Một ngày nọ, một con quái vật làm nàng sợ hãi. Nàng
liền biến thành một con sếu mà bay đi. Lạc Long Quân, là thần rồng
từ biển cả, thấy nàng đang gặp nguy hiểm liền cầm lấy cục đá và giết
tên quái vật. Sau đó tình yêu đã nảy nở giữa hai người và họ cưới
nhau. Âu Cơ sinh ra một bọc trứng có 100 người con. Một ngày nọ, Lạc
Long Quân nói với nàng vì hai người đến từ chủng tộc và môi trường
rất khác nhau nên không thể chung sống với nhau trọn đời được. Họ
bèn chia nhau mỗi người 50 đứa con, 50 theo mẹ, 50 theo bố. 50 người
con theo mẹ đi đến ở Phong Châu, người anh cả trở thành Hùng Vương
đầu tiên của nước Văn Lang.
[2]
CON RỒNG CHÁU TIÊN
Đây
Bạch Đằng giang, sông hùng dũng của nòi giống TIÊN RỒNG giống anh
hùng Nam Bắc Trung
Trên trời
xanh muôn sắc đua chen bóng ô
Dưới đáy dòng
nước ánh sáng vởn vơ nhấp nhô
Hàng cây cao
soi bóng, gió cuốn muôn ngàn lau
Hồn ai
đang phảng phất trong gió cảm xiết bao!
Mây nước thiêng liêng còn ghi chép rành
Thời liệt oanh của bao người xưa trung chánh
Vì yêu quốc gia vui lòng hiến thân
Liều
mình ra tay tuốt gươm bao lần...
Dòng nước trắng xóa dưới trời quang đãng
Từ xưa nêu cao tấm gương anh hùng
Dù có sấm
sét bão bùng mưa nắng
Đằng Giang vẫn sáng
để cho nòi giống soi chung...
Nguyễn Nhơn sưu tập
Bách khoa
toàn thư mở Wikipedia
Huyền sử Việt Nho
Hiện tại bọn phản quốc bán nước cầu vinh
việt cộng đang mưu toan xóa nhòa việc học Lịch sử Dân tộc để chúng
chuẩn bị thay thế việc học sử Việt sang học sử tàu theo như cam kết
trong mật ước Thành Đô và cũng để xóa nhòa Tinh thần Dân tộc vì
chúng lo sợ, một khi tinh thần Dân tộc bất khuất chống tàu xâm lăng
trỗi dậy, toàn dân Việt sẽ vùng lên quét sạch bọn mãi quốc cầu vinh
việt cộng ra khỏi cỏi bờ Đất Việt.
Để chống lại âm mưu xóa nhòa Lịch sử Dân
tộc của loài quỷ đỏ phản quốc, ta cổ võ toàn dân đọc Sử Việt.
Khi Tổ tiên Việt đóng dấu trên
Kinh Dịch
LĨNH NAM TRÍCH QUÁI VỚI HUYỀN SỬ
VIỆT NHO
Khi Tổ
tiên Việt đóng dấu trên Kinh Dịch
(Dịch Kinh linh thể: Kim
Định. Tr. 9-26)
“Đánh dấu
một vật là ghi nhận vật đó thuộc về mình, cho nên nói Việt tộc đóng
dấu trên Kinh Dịch hay nói Kinh Dịch của Việt Nam cũng đồng một ý.
Cả hai câu này thoạt nghe sẽ dễ bị hiểu như một câu nói khôi hài vô
duyên, nhưng có thể tha thứ vì phát xuất từ một lòng ái quốc quá
trớn nên đâm ra nói nhàm. Sở dĩ có thế nghĩ như thế, vì hiện trạng
là thế, nghĩa là Kinh Dịch hiện nay là của Tàu chớ không phải là của
Việt Nam, nên trong bao nhiêu ngàn năm có người Việt Nam nào dám đả
động tới Kinh Dịch.”
Đó là việc mới được làm gần đây và tất
nhiên cũng lại học theo lối Tàu lối Tây, chứ đã có ai đọc theo lối
của nó. Phải là chủ cũ của nó mới đọc được và chủ cũ của nó tôi bảo
là người Việt.
Kinh Dịch là của người Việt, vì Tổ tiên của ta đã đóng dấu trên nó
và hôm nay xin mời bạn cùng tôi đi nhận lại dấu. Xin báo trước là
dấu đóng đã lâu đời nên phai mờ nhiều quá không thể dương hai mắt ốc
bưu ra mà thấy được, phải dùng tia sáng hồng ngoại gì đó mới trông
nhận ra. Bạn nào không thích thứ ánh sáng lung linh “hốt hề hoảng
hề”, xin ở lại nhà, vì không có lối nào khác.
Con dấu đã bị phai mờ không những vì đã
quá lâu, mà còn bị bôi cọ đi do người ăn cắp. Ai ăn cắp? Thưa là
Trọng Thủy từ Bắc phương mà tới. Nhưng sao lại dám đổ oan như vậy?
Thưa là vì có vụ văn tự tuy đã phai nhưng còn đọc được như sau:
“Thần Kim
Quy cho An Dương vương cái vuốt để làm nỏ thần nhờ đó đánh bại được
Triệu Đà. Đà biết thế nên sai con là Trọng Thủy cầu hôn con gái An
Dương Vương là Mỵ Châu để đánh cắp cái vuốt rùa, và Trọng Thủy đã
thành công đánh lừa được Mỵ Châu đổi lấy nỏ thần đem về Bắc, rồi
thay vào bằng cái nỏ giả làm vuốt rùa”.
Câu truyện này ai cũng thuộc lòng, nhưng
không mấy ai nghĩ rằng đó là câu chuyện thật đã gây nên một ảnh
hưởng quyết liệt trên sử mệnh Việt Nam hơn bất cứ câu chuyện nào có
chứng tích lịch sử cụ thể. Vì nó còn ảnh hưởng đến đời chúng ta hiện
nay, khiến chúng ta đang điêu đứng vì cộng sản hay các tư trào khác,
bởi vì chúng ta không còn Hồn Nước nữa! Cái hồn đó là móng chân Kim
Quy đã bị đánh tráo mất rồi.
Sự đánh tráo này quả là một biến cố tương
đương với tội A-dong E-và bên trời Tây, vì nó làm cho lịch sử rẽ
sang một lối khác, nó ghi dấu một sự mất nền tảng tức là mất cái Đạo
làm Người.
Đạo
Người là Thiên Địa chi đức, được biểu thị trong con rùa có lưng tròn
tượng Thiên, 4 chân tượng Địa. Vuốt chân rùa chính là tinh hoa của
cái Đạo Trời Đất, tức cũng là Nhân đạo. Cái nhân đạo đó đã bị Hán
Nho choán mất chỗ và nước Việt Cổ đại của Hồng Bàng đã chấm dứt với
Triệu Đà. Cái nước Việt Nam do Triệu Đà khai sáng không còn là nước
lý tưởng Văn Lang nữa.
Người Việt Nam đã bị đuổi ra khỏi nước lý
tưởng kia rồi, và hiện nay có còn nói bốn ngàn năm văn hiến thì cũng
chỉ là biểu lộ một tấm lòng hoài cổ về một nơi xa xôi ở mãi tận xa
xưa, chẳng còn mấy âm vang trong lòng, nên không còn được hiệu lực
nào nữa. Tuy nhiên có điều khác với cảnh huống A-dong E-và, vì hai
ông bà không những bị đuổi ra khỏi địa đàng, nhưng còn bị một thiên
thần coi chừng không cho trở lại cây hằng sống, còn chúng ta “Ai bắt
được ngọc châu Đông Hải (hiểu là triết Đông) mà múc nước giếng Mỵ
Châu lên rửa, thì càng rửa, sắc ngọc càng thêm rực rỡ”. Biết đâu nó
sẽ rực rỡ đủ để soi đàng cho chúng ta trở lại được Văn Lang.
Văn Lang là gì?
Thưa là nước lý tưởng nhất vì được cai trị
(trị thủy) theo đúng tinh thần Kinh Dịch là Âm Dương Hòa. Âm là Địa,
Dương là Thiên, hòa là Nhân.
Nói đến Âm Dương Hòa là nói đến trạng thái
con người chưa ly tính, chưa vong thân, vẫn còn sống cái sống tràn
đầy viên mãn của Người. Có ai sống trong đó chưa thì khó mà biết, vì
không một Lịch sử nào nói tới. chỉ có Huyền sử, mà Huyền sử thì
không những nói đến hôm xưa mà nói đến truyện hôm nay và ngày mai,
nghĩa là nói đến lý tưởng của con Người muôn thuở.
Khi cái lý tưởng ấy chung cho nhiều người
một nước một phương thì tôi gọi là sử mệnh, hiểu như thế và quay trở
lại câu hỏi đã có một nước Văn Lang chăng, đã có ai sống trong nước
ấy chưa, thì tôi thưa rằng đã có, và những người sống trong nước đó
là Phục Hy và Nữ Oa.
Hai ông bà tiên Tổ này đã hiện thực đúng
câu “Thiên Địa chi đức”, vì ông nắm cái Củ (┑): Địa phương), còn bà
bế cái Quy (┼): Thiên viên: ⊙. Vuông Tròn thì trái ngược, ấy thế mà
đuôi hai nguyên Tổ lúc nào cũng “Giao chỉ” xoắn xuýt để viết lên chữ
Văn (文) Sơ thủy. Vì chữ Văn gồm hai nét Đất Trời giao hội, nét phẩy
(丿) chỉ Đất và nét mác (乀) chỉ Trời quay ngược chiều nhưng cả hai
đều nằm dưới bộ đầu, nhưng cả hai đều nằm dưới bộ đầu (亠: không có
nghĩa chi cả) và nhờ đó thiết lập được một hoàng kim thời đại kêu là
Bình Văn, nghĩa là nền thái bình do Văn trị. Đấy là cảnh trí của
nước Văn Lang của Việt Nho nguyên thủy, trải khắp địa vực nước Trung
Hoa cổ đại. Thế rồi, một ngày kia văn minh Du mục của Tây Bắc dưới
quyền điều khiển của Hoàng Đế đã vào chiếm đất, chiếm người và chiếm
luôn cả đạo Dịch. Sự chiếm Kinh Dịch ở đây có nghĩa là sự chấp nhận.
Sự chấp nhận này được báo hiệu bằng vua Đế Nghi có nghĩa là thích
nghi với đạo Dịch.
Đế Nghi cùng với Lộc Tục là con của cha Đế
Minh lấy mẹ Vụ Tiên. Đây là đôi nguyên Tổ thứ hai sau Nữ Oa Phục Hy,
nói thứ hai là tính theo biến trình biến dịch đi từ đồng nhất vào
đường phân biệt, nên cặp thứ hai đã nói tới chồng Bắc vợ Nam. Nhưng
còn là Bắc Nam của chung một nền văn hóa nông nghiệp.
Chưa đến giai đoạn Bắc Du mục Nam nông
nghiệp như Trọng Thủy và Mỵ Châu. Ở đây Đế Minh là cháu Thần Nông mà
lấy Tiên nữ nước Việt cũng thờ Thần Nông thì nhất định tinh thần Văn
Lang vẫn duy trì đẹp đẽ: hai nét Âm Dương giao hội như thường. Những
sự việc trở nên rắc rối dần do ngành phía Bắc là Đế Nghi. Bởi vì Đế
Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai, ông này nhân nhớ lại việc ông
nội mình là Đế Minh tuần thú phương Nam gặp Tiên, nên cũng bỏ nhà đi
tuần thú phía Nam nhưng thay vì gặp Tiên lại mất Tiên, Tiên đó là Âu
Cơ.
Âu Cơ là vợ
của Đế Lai lẽ ra phải khắng khít cuốn lấy đuôi vợ như Phục Hy đã
làm, đàng này Đế Lai đã bỏ vợ đi chu du cùng khắp nước Việt. Như vậy
là dọn đường cho tội Tổ hon xảy ra. Tội Tổ hon là Âm Dương ly biệt.
Vậy sự ly biệt đó đã xảy ra khi Trọng Thủy bỏ vợ ra đi với cái vuốt
thần và như thế cái nỏ còn lại không phải là nỏ thần, mà An Dương
Vương vẫn tưởng là thần y như thế giới hiện nay kêu là thần nhưng
chẳng có chút thần nào hết. Sự lầm tưởng đó cũng là phát nguồn từ
tội Tổ tông lẫn vật chất làm tinh thần. Tuy nhiên tội Tổ hon bên
Đông phương nhẹ hơn bên Tây phương vì nhiều lẽ: Lẽ đầu tiên không do
các bà mà do phía các ông. Bên Tây bà E-và ra ngoài, còn bên này
Trọng Thủy là đực rựa, đàn ông mà chạy việc ngoài là trúng. Nhưng
trúng mà vẫn có tội vì chỗ quá đáng là “nước đi mãi không về cùng
non”.
Đế Lai
không về cùng Âu Cơ có nghĩa là văn minh Bắc phương chuộng “bình Võ”
hơn “bình Văn”, nên tỏ ra lơ là với nền minh triết đại biểu bằng Âu
Cơ (nền vàng: trung dung). Nhưng minh triết chưa chết bởi vì có Lạc
Long Quân đến với Âu Cơ và Âu Cơ lại đam mê Lạc Long Quân. Mê là
phải vì Minh triết nông nghiệp đã phát xuất từ phương Nam, mang nặng
tính chất nhu hòa phương Nam, vì đó mà bị chồng phương Bắc lơ là,
nhưng lại tìm được quê ngoại cái môi trường thuận lợi hon ó, nhờ đó
nó trở nên Nữ Hoàng cai trị mọi ngành văn hóa trong nước: “La
philosophie doit être la Reine des sciences: Triết phải là bà Chúa
các khoa”. Điều ấy đã được hiện thực trong nước Văn Lang nơi mà Lạc
Long Quân chơi vai trò mờ nhạt, còn chính chủ tịch lại là Âu Cơ.
Huyền sử chép rằng: Trong nước không có
vua nên Âu Cơ cùng với bộ chúng thị thiếp ở lại hành tại. Khoa xã
hội gọi đây là thời mẫu hệ và đa phu, vì Âu Cơ có hai chồng là Đế
Lai và Lạc Long Quân. Tục Táo Quân có lẽ khởi đầu từ đây vì trong ba
đầu rau thì có hai ông một bà.
Cái mà xã hội học kêu là mẫu hệ và đa phu
thì triết lý kêu là Bình Văn tức thời Minh triết ngự trị, nên đáng
gọi là một nước cai trị bằng văn hóa theo nghĩa cao quý nhất của hai
cữ văn hóa: lấy văn mà cảm hóa. Huyền sử chép rằng: Lạc Long Quân
nhận định với Âu Cơ rằng vì vợ Bắc chồng Nam: “phương viên bất đồng,
thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu nên chia nhau con
đi ở riêng, nhưng có việc thì cùng nghe không được bỏ nhau.”
Tội Tổ hon đã manh nha ở chỗ Âm Dương
không xoắn xuýt với nhau nữa, tuy nhiên chưa đến bước quyết liệt,
nên còn hẹn “hễ có việc thì cùng nghe, không được bỏ nhau”.
Nhờ đó mà nước vẫn còn là Văn Lang, dưới
quyền Minh triết của Âu Cơ, vì 50 con theo bố xuống thủy phủ không
xuất hiện. Huyền sử chép rằng: “50 con theo cha xuống biển, 50 theo
mẹ lên núi, tự suy tôn người trưởng lên làm vua hiệu là Hùng Vương,
quốc hiệu là Văn Lang.
Nước Văn Lang: Đông giáp Nam Hải, Tây giáp
Ba Thục, Bắc giáp Động Đình Hồ. Nam đến nước Hồ Tôn”. Đó chỉ là bờ
cõi của nền văn hóa phương Nam dưới quyền của Âu Cơ nghi mẫu, khác
với phía Bắc đã bị phụ hệ chinh phục dần do Hoàng Đế: Óc pháp hình
nổi hơn, không để cho Minh triết thấm nhuần.
Huyền sử chép rằng: “Lạc Long Quân ở dưới
thủy phủ, mẹ con Âu Cơ nhớ về Bắc quốc, liền đi lên biên cảnh, Hoàng
Đế nghe tin lấy làm sợ, mới phân binh trấn giữ quan tái, mẹ con
không về Bắc được”, tức văn hóa nông nghiệp không chiếm cứ lại được
miền Bắc đã bị rơi vào tay văn minh Du mục.
Thế là hết cái nước Xích Quỷ, nước lan
rộng khắp Tàu cổ đại, mênh mông như một châu, nên cũng gọi là “Thần
châu xích huyện”, và tự Hoàng Đế trở đi thì chỉ còn có Văn Lang tức
từ miền Dương Tử Giang trở xuống mà thôi, mà cũng không còn thông
thương được với miền Bắc nữa, vì miền Bắc đã rơi hẳn vào quyền Du
mục rồi.
Về phía
Nam thì Lạc Long Quân đã không xuất hiện, mà về phía Bắc thì sự giao
hội hai nền văn hoán rất hạn hẹp. Huyền sử gởi vào truyện Chức Nữ
một năm được gặp Ngưu Lang có một lần vào đêm thất tịch (7/7), đã
vậy sự gặp gỡ chẳng lấy gì làm vui vẻ, mà trái lại:
“Trong đêm
gặp gỡ mơ màng khóc nhau
Tục truyền tháng
bảy mưa ngâu
Con trời lấy đứa chăn trâu
cũng phiền”
Đấy là hiểu sai Chức Nữ.
Cầu Ô thước
Chức Nữ có khóc vì phải lấy đứa mục đồng
đâu, nhưng khóc vì nó không chịu giáo hóa, cứ dùng võ lực mà chen
lấn áp đảo hoài hoài, nên không còn thể về thăm quê Bắc được, đã
vậy, từ đấy mẹ con Âu Cơ cứ phải bồng bế nhau di cư mãi mãi, chạy
dài trên con đường Nam tiến.
Bởi vì văn minh Du mục của Ngưu Lang đặc
chuyên chú trọng hình thức và võ lực nên rồi sẽ đàn áp được văn minh
Nông nghiệp của phương Nam. Tuy nhiên còn phải qua biết bao nhiêu
cuộc giao tranh.
Huyền sử còn ghi lại trong truyện Sơn Tinh và Thủy Tinh tranh nhau
lấy con gái vua Hùng Vương tên là Mỵ Nương. Vì Sơn Tinh đến ban sáng
nên lấy được Mỵ Nương. Thủy Tinh đến buổi chiều nên hàm oán đem cả
loài thủy tộc đánh Sơn Tinh để cướp, Mỵ Nương, nhưng Sơn Tinh vươn
lên, Thủy Tinh không làm chi được. Câu chuyện này tả lại lúc Văn
Lang còn đang mạnh, nên còn chống cự nổi văn minh Du mục Bắc phương.
Tuy chống cự nổi nhưng cũng chỉ trên con đường rút lui.
Và hầu chắc xung quanh giai đoạn này xảy
ra chuyện chữ “Việt Mễ: (粵)” thay vào “chữ Việt Tẩu (越)” để thích
nghi với Thời Lữ.
Quẻ Lữ kép bởi quẻ Ly và Cấn: nên Lạc Long
Quân nói với Âu Cơ là Nước Lửa bất đồng.
Sao Âu Cơ lên núi mà lại nói đến lửa do
Thời Lữ vậy. Nước lửa bất đồng nhưng tinh thần Kinh Dịch mạnh nên
vẫn còn giữ được nét tương sinh tương tức nằm ngầm, nên Lạc Long
Quân nói với Âu Cơ có truyện gì thì cùng nghe nhau, đó là “Văn Đạo”.
Nghe được nhau, vì đây chưa đến giai đạn
Bắc Nam đối kháng như sau thời Hoàng Đế đem văn minh Du mục vào,
nhưng còn là văn hóa nông nghiệp: Và Âu Cơ tuy sinh ra ở Bắc nhưng
là Bắc còn nằm trong tay Viêm tộc, nên Âu Cơ vẫn là biểu tượng nền
Minh triết của Văn Lang. Chỉ tự đời Hoàng Đế thì danh từ Bắc mới chỉ
văn minh Du mục đầy óc hung hăng chiếm đoạt và Việt tộc mới hiện
thức quẻ Lữ, và trở thành mũi dùi cho cuộc Nam tiến mang theo nền
văn hóa Nông nghiệp đi cùng như sẽ đọc thấy trong truyện Hùng Vương.
Chỉ cần nói trước rằng tuy Việt tộc có
tinh thần chống cự bất khuất nhưng đất đai có hạn: Nam tiến mãi rồi
cũng ngày đất hết phải gặp biến và lúc ấy chỉ còn phép như An Dương
Vương “quay lại giết Mỵ Châu rồi cầm sừng văn tê bảy tấc, theo Kim
Quy rẽ nước đi vào biển”.
Thế là hết nước Việt Nam như một Văn Lang,
vì chưng tội Tổ hon đã phạm rồi: không phải ăn một trái cấm như E-và
mà trong lát gươm của An Dương Vương giáng xuống đầu Mỵ Châu: Thế là
văn minh Tây Bắc đã giết chết nền văn hóa Nông nghiệp để rồi trở về
với văn minh Tây Bắc. Tây tượng trưng bằng cái sừng văn tê bảy tấc,
do An Dương Vương cầm để theo Kim Quy dẫn vào biển. Biển là nước,
nước (Thủy) chỉ phương Bắc. Còn số bảy chỉ phương Tây (theo Lạc Thư)
và từ đấy “Nam thất (7) thắng Nữ Cửu (9).” Óc Hán tộc đã bủa vây
mạng lưới trên cương vực Văn Lang, Bắc giáp Động Đình Hồ...
Và vì thế ngày nay không còn ai thấy được
nước Văn Lang đâu nữa. Không trông thấy được vì Việt Nho đã ngã qụy
dưới lát gươm oan nghiệt của Hán Nho.
Bạn sẽ hỏi về cái số kiếp của cái vuốt rùa
của Trọng Thủy đã ăn cắp đưa về Bắc ra sao, có làm ích chi cho Hán
tộc chăng? Thưa rằng: Không, nó cũng mất luôn với chủ nó:
Huyền sử chép rằng: Trọng Thủy hối hận về
ác quả nên đã đâm đầu xuống giếng Mỵ Châu mà chết, vì độc Dương bất
sinh.
Sách Nhĩ
Nhã chép về một Hoàng Đế kia có con chim Loan mà nhà vua rất quý
mến, và chỉ ước ao được nghe tiếng nói của nó, nhưng không bao giờ
được mạn nguyện. Hoàng hậu mới bàn rằng: Tôi thường nghe nói chim sẽ
hót khi thấy một con chim khác cùng giống. Tại sao bệ hạ không để nó
đứng trước một tấm gương?
Nhà vua nghe lời bàn ấy, nhưng khi con
chim loan thấy hình của nó liền hót lên những tiếng thật bi ai, đoạn
đập cánh mà chết. Tại sao Loan chết vì không có con đực là Phụng mà
chỉ thấy hình hon của Loan. Hình hon là biểu tượng là ý niệm làm sao
có đối cực để làm nên biến dịch, mà thiếu biến dịch là chết cho nên
Loan chết. Trọng Thủy thiếu Mỵ Châu là Dương thiếu Âm nên bất thành
cũng lại chết. Loan phải đi với Phụng mới có khả năng “Loan Phụng
hòa minh”, còn nay “Loan phiêu Phượng bạt” thì làm sao sống nổi mà
chả chết.
Và đây là tội Tổ hon của Viễn Đông:
Cũng y như bên trời Tây, Trọng Thủy đã đem
óc tính toán của Bắc phương đến làm nghẹt thở tinh thần phương Nam,
khác nhau vài nét đặc biệt: Trước hết là Chồng đánh lừa vợ chứ như
không bên Tây, vợ lừa chồng.
Vì đàn bà biểu
thị Minh triết mà lại thủ vai đánh lừa thì tội nặng hơn nhiều. Thứ
đến văn hóa mẹ bên Viễn Đông đã chống chọi trải qua nhiều giai đoạn,
cuối cùng mới bị thua và trước khi gục ngã còn cố gắng cứu vãn tình
hình như được ghi trong việc Âu Cơ trở về thăm Bắc phương mà bị
Hoàng Đế ngăn chặn, hoặc trong trận Sơn Tinh Thủy Tinh tranh đua
nhau.
Ở trận này
tuy loại thủy tộc (phương Bắc) bị thua nhưng sơn tộc cũng bị hại.Vì
thế cuối cùng đuối sức dần để gục ngã, nhưng chết mà vẫn còn lưu lại
một cái giếng làm kỷ niệm.
Và việc trước hết của giếng là nó đã đón
nhận Trọng thủy nhảy xuống đó tự tử. Vậy là Trọng Thủy chết, nhưng
còn giữ được một điều là sống chết có nhau. Đúng hơn sống có nhau
được một dạo còn chết thì ở với nhau hoài trong một mồ gọi là Việt
tĩnh, để làm như dấu vết, như con chấm đã đóng vào Kinh Dịch. Chính
vì Trọng Thủy và Mỵ Châu đã chết nên nước Văn Lang không còn và vì
thế mà hôm nay khi nghe nói đến con dấu Việt Nho đã đóng lên Kinh
Dịch thì như như nghe một truyện tiểu thuyết.
Nghe như truyện tiểu thuyết vì chúng ta đã
đi hẳn vào nhị nguyên chỉ thấy có một một chiều, như vậy là không
còn biết nhìn sự vật trong hai chiều, như vậy là không còn biết nhìn
sự vật theo hai chiều, nói như Heidegger, chúng ta đã mất ý thức về
nét Gấp Đôi, nên chỉ còn đi tìm những cái gì độc khối kiểu Duy Sử
nên không hiểu nổi nét Gấp Đôi của Kinh Dịch nằm trong những trang
Huyền sử của nước.
Vì thế chúng ta hãy cố gắng tìm trở lại
những nét Gấp Đôi mà tôi gọi là con chấm của tiên Tổ đóng trên Kinh
Dịch. Nét Gấp Đôi lớn lao hơn hết nằm trong Hà Đồ và Lạc Thư. Hà Đồ
có thể gọi là con chấm của Bách Việt nằm từ vùng sông Hoàng Hà trở
xuống. Còn Lạc Thư là con dấu của Việt tộc, một ngành có tính chất
đại diện hơn hết của Bắc Việt, cũng như Bắc Việt là đại diện nổi
nhất của Viêm tộc.
Hà Đồ có 55 điểm tròn, Lạc Thư có 45, cộng
lại là 100 cái vòng tròn, gọi là 100 trứng, nhưng cùng nằm trong một
bào thai do mẹ Âu Cơ đẻ ra. Mẹ Âu Cơ biểu thị quẻ Khôn chỉ bụng:
“Khôn vi phúc” (Thuyết quái) hay nói cách khác Âu Cơ chỉ nền Minh
triết của Dịch lý. Nền Minh triết này xây trên hai trụ Âm Dương là
Trời và Đất: cũng gọi là ngang dọc hay thập tự nhai được bồng trong
tay Nữ Oa, nay thay bằng Âu Cơ. Khi trị nước theo tinh thần đó thì
gọi là “Văn Lang hay là “Bình Văn”. Bao giờ cũng nên nhớ Văn là hai
nét Trời Đất giao hội. Vì thế vua gọi là Hùng Vương và truyền 18
đời.
Vì có Hùng
có Dũng lắm mới ở chỗ chí thiện là ngang dọc giao thoa, nét dọc là
Càn 1, Khôn 8, cộng lại là 9, nét ngang là Ly 3 Khảm 6, cộng lại
cũng là 9: hai lần 9 vị chi là 18. Đó là cương vị tiên thiên (nguyên
lý) đến khi áp dụng thì dùng hậu thiên, lúc ấy sẽ là: Ly 3, Khảm 6
là 9. Chấn 4 Đoài 2 là 6, cộng 9 với 6 là 15. Vì thế mà nước Văn
Lang phải chia ra 15 bộ thì mới hợp với sách của dân Lạc gọi là Lạc
Thư gồm 9 lô mà cộng chiều nào cũng thành 15, nên gọi là Ma phương.
Khi đọc đến những tên Châu Diên (thuộc
chim) Việt Thường (vươn tới chỗ Thường hằng), Bình Văn (cai trị bằng
Văn)... thì chớ nên tìm ở Sơn Tây, Quảng Trị... đó là đợt sau mượn
tên xưa để đặt cho đất mới, để làm kỷ niệm, chứ nước Văn Lang không
ở đó, đúng hơn: Không chỉ có ở miền Bắc Việt, mà nó còn vươn lên đến
bên kia bờ Dương Tử Giang, cũng như chữ Bạch Hạc thì trước hết phải
hiểu là “Tây Nam đắc bằng của quẻ Khôn”. Tây sắc trắng (bạch) Nam:
Lông vũ là Hạc cũng như khi nói Lạc Việt thì phải vươn trí khôn lên
tận bờ sông Lạc vùng Lạc Dương thì mới đạt tầm thước cân xứng với
nội dung của Huyền sử.
Vì Huyền sử nước ta đã trải qua nhiều giai
đoạn được ghi theo chu kỳ tiên thiên của kinh Dịch là Nguyên, Hanh,
Lợi, Trinh được trình bày theo 4 mùa như sau:
Xuân: Nguyên
Hạ: Hanh
Thu: Lợi
Đông: Trinh
NGUYÊN
Nguyên là thời manh nha nó hợp với mùa
Xuân. Đời nhà Tiền Lý (544-604) nước ta gọi là Vạn Xuân, có lẽ là để
kỷ niệm thời nguyên sơ này. Đây là thời của Hồng Bàng Thị với vật tổ
chim là vật tổ chính của Việt Nam, vì trong Nguyệt Lệnh thì phương
Nam mục trùng là Vũ chỉ các loài chim.
Loại quẻ Khôn chỉ Văn, “Khôn vi Văn”
(thuyết quái). Vì thế khi nói tới Văn Lang hay Hồng bàng thì ta
thường chỉ thị bằng Chim, bằng Tiên nữ, bao gồm cả Mẹ lẫn Chim. Câu
nói “nhất điểu, nhì xà, tam ngư, tứ tượng” thường được giải nghĩa
theo lượng, tức là vật to lớn nhất là Chim, nhì là Rắn... nhưng đó
là điều không thấy xảy ra, dầu là giống cổ điểu Epiornis nay đã biến
mất và người ta tìm được dấu vết ở Madagascar, trứng to hơn trứng gà
150 lần. Vậy nếu căn cứ vào đó mà nói to hơn con gà 150 lần, thì
cũng nặng từ 1 tấn trở lại, còn lâu lắm mới bằng con cá voi nặng cả
từng chục tấn. Cho nên câu nói trên của người Việt Nam nên hiểu theo
nghĩa hon chỉ bốn giai đoạn nước Việt Nam cổ đại đã trải qua là
Điểu, Long, Ngư, Tượng. Giai đoạn Nhất là Điểu cũng là văn minh Mẹ,
nên ta thấy những cử chỉ gán cho Mẹ thì cũng gán cho Chim, nếu Mẹ Nữ
Oa đội đá vá trời thì Chim cũng đội đá vá trời, Chim cũng ngậm hòn
lấp bể... và nếu sâu quá lấp không xuể như sông Ngân Hà thì bắc cầu
“Ô Thước”.
Vậy
Chim là giai đoạn hoàn toàn Mẹ, giai đoạn của Điểu đi trước giai
đoạn Rồng thuộc vật tổ thú, nên nói nhất Điểu nhì Xà. Xà là Long,
Long là giai đoạn hai, hay nói theo kinh Dịch là Hanh sau Nguyên.
HANH
Hanh thuộc mùa Hạ khi mặt trời phương Nam
trút xuống những tia nắng chói, nên nước đặt tên là Nhật Nam, là
Xích Quỷ. Hanh là hanh thông tức thời mà Sơn Tinh và Thủy Tinh còn
kết nghĩa và Ngư Tinh chưa thành Ngư Tinh ăn thịt người nên Bắc Nam
giao thông không gì ngăn trở. Huyền sử chỉ bằng Đế Minh (Bắc) lấy Vụ
Tiên (Nam), Lạc Long Quân (Nam) lấy Âu Cơ (Bắc). Lúc ấy chưa xảy ra
truyện Âu Cơ về thăm quê Tổ bị Hoàng Đế cản đường.
Hoàng Đế đại biểu phương Bắc là thuộc hành
Thủy. Thủy là nơi sinh sống của Cá, nên khi nói Ngư Tinh hay Thủy
tộc thì đều chỉ văn minh Du mục phương Bắc. Như vậy nói giai đoạn
Ngư là nói đến sự ngự trị của tinh thần Du mục phương Bắc, chủ Lợi,
thuộc giai đoạn Lợi đến sau Nguyên và Hanh.
LỢI
Lợi trong chu kỳ tiên thiên kêu là Mỹ Lợi
(quẻ Kiền), nhưng nói đến lợi là rất dễ đâm hon lợi. Vì tư lợi nên
Hoàng Đế ngăn không cho Âu Cơ về Bắc, vì tư lợi Trọng Thủy đánh tráo
vuốt rùa. Vì thế nền văn minh phương Nam còn cầm cự được là phải có
đức Dũng cùng cực gọi là Hùng Vương, thì có nghĩa là cần phải có một
tinh thần can đảm phi thường, vì thế nên tiền nhân ta nói về ngày 9
tháng 9 (trùng cửu) bằng câu nói “trùng cửu đăng cao”, thì nghĩa đen
chỉ lúc cao nhất trong mùa Thu, còn ý sâu xa là chỉ tinh thần bất
khuất của Lạc Long Quân đã dám cầm khối sắt nung đỏ (tinh thần quẻ
Ly phương Nam) ném vào miệng Ngư Tinh: chống văn minh Du mục, để duy
trì văn hóa phương Nam. Nhờ đó mà văn hóa phương Nam vẫn còn sống
được và nội dung là sự hòa hợp Thủy, Hỏa, Mộc, Kim được giở vào một
số truyện huyền sử như việc thi gia chánh của Hùng Vương với giải
thưởng dành cho đôi bánh Dầy, bánh Chưng; cũng như trong truyện Chữ
Đồng Tử thôn dân kết hôn với công chúa Tiên Dung... đều nói lên tính
chất Dân Chủ chứ không phân giai cấp của Việt tộc, nhưng tất cả đều
hòa hợp trong một phẩm trật đẹp đẽ như chuyện Trầu Cau: Kim, Mộc và
Hỏa làm nên màu đỏ của nước Xích Quỷ.
Tuy nhiên sức người có hạn, bé tí hon
chống khổng lồ mãi cũng có ngày thua và phải đành bước vào giai đoạn
“Tam Ngư”, tức là giai đoạn đen tối mà nhà huyền sử Tây phương nói
đến là thời Cá (Poisson) xảy ra vào quãng vài ba thế kỷ trước công
nguyên.
Cũng như
giai đoạn sắp tới thuộc cung Verseau (xem chẳng hạn La nouvelle
culture de l’ère du Verseau par M. Constantinov. Courier du livre.
Paris).
Vậy giai
đoạn Ngư này đối với nước ta là lúc Triệu Đà khai quốc và dọn đường
cho sự ngự trị Hán học, là cái học nhiễm óc chuyên chế... của văn
minh Du mục Bắc phương. Hán học nối tiếp sang cả giai đoạn bốn là
Tượng.
TRINH
Là
giai đoạn nước ta lấy lại được nền độc lập chính trị để tiến vào các
miền theo văn minh Tượng như Chân Lạp, Chiêm Thành (Chàm) là những
miền lắm voi. Đây là giai đoạn mở mang nước về phía cùng cực Nam và
được tương đối độc lập về chính trị. Nhưng về văn hóa thì còn nằm
hầu trọn vẹn trong tinh thần Ngư Tinh của Hán Nho, nên đã mất ý thức
về nền văn hóa của Dân tộc, đến nỗi ngày nay không còn ai đọc được
tờ “Bằng Khoán Cơ Nghiệp” Tổ tiên giối lại, bởi vì chỉ còn biết chữ
Hán, mà không biết chữ Nho.
Hán Nho thì chuyên môn chỉ giải từng chữ
nên không thấy “vi ngôn đại nghĩa”, nên cũng như cái nỏ giả của
Trọng Thủy không cứu được nước.
Chỉ có cái học theo Việt Nho nhìn toàn
diện mới đọc ra được Đại Đạo. Tuy nhiên cái Đại Đạo vẫn còn hon ẩn
trong tiềm thức Dân tộc nên đã nhiều lần cứu được nước, đến nỗi ta
có thể nói không một nước nào trong cõi Viễn Đông lại mang đậm màu
sắc Kinh Dịch cho bằng Việt Nam!
Hãy nói từ Quốc Hiệu trở đi: Xích Quỷ, Văn
Lang, Giao Chỉ (Đã bàn trong lễ Vấn Danh trong Việt Lý). Ở đây chỉ
xin nhắc lại danh hiệu Giao Chỉ là hai nét lớn “Chỉ” Âm Dương giao
hội: quẻ Ngoại giao với quẻ Nội. Kinh Dịch có 64 quẻ là có 64 chữ
Giao Chỉ khác nhau, tức cũng 64 con dấu của Việt tộc đóng vào.
Vì đó Việt Nam đáng kêu là Văn Hiến chi
bang. Văn đây phải hiểu là nét Gấp Đôi uyên nguyên, tức là Trời Đất
giao hội, và nền văn hóa lên cao nhất là khi ở đâu không đánh mất
nét Gấp Đôi (Pli en Deux).
Con người ngày nay vong thân là tại đã
đánh mất ý thức về nét Gấp Đôi và sa đọa vào cõi người ta chỉ thấy
một chiều đồng nhất. Chiều duy nhất đó “là vụ lợi, là thành công, là
lấy công”. Đấy là sa đọa không phải là văn hiến. Văn hiến cũng đi
cấy, vì thuộc nông nghiệp, nhưng văn hiến nói rằng:
“Người ta
đi cấy lấy công
Tôi đây đi cấy còn trông
nhiều bề...”
Tôi đi cấy cũng lấy công, nhưng công mới
chỉ là một, còn ba bề nữa là Trời, Đất, Người, mà để đạt được phải
có Tâm, nên mới nói:
“Chữ Tâm
kia mới bằng ba chữ Tài”
Với chữ Tài, chữ Lợi, chữ Lấy Công thì chỉ
cần Lý Trí. Còn thành Nhân thì phải kiêm cả đạo Trời đạo Đất như hai
hạn từ nòng cốt làm nên con Người viên mãn như thập tự nhai là thứ
cũng tỏa ra nhiều bề: Cả Đông, Tây, Nam, Bắc, nghĩa là thần, vì thần
vô phương, nên không đâu không ở, rất linh nghiệm, nên người nào cảm
nghiệm được thì hy hiến toàn thân cho Văn đó, nên gọi là Văn hiến.
Và nước có nhiều văn hiến thì gọi là “văn hiến chi bang”.
Ở thời xa xưa dưới những triều đại của
hùng Vương có bóng dịu hiền của mẹ Âu Cơ thì Việt Nam đã có nhiều
văn hiến, nên cũng đáng tên là “văn hiến chi bang”. Đến nay những
nhà Duy Sử đang cố phủ định nước Văn Lang, bởi chưng: “người ta đi
học lấy công. Chúng ta nay đi học cũng trông kiếm tiền”.
Vì đã hết rồi cái học “Trông Trời trông
Đất trông mây”. Cái học biến-thông của Lạc Thư, sách gối đầu giường
của tiên Tổ Lạc Việt, nhưng đến nay hỏi còn được mấy ai biết ý nghĩa
ra sao nữa?
Huyền
sử nói: “Vì giếng bị bỏ hoang bẩn thỉu” (Xem truyện Việt tĩnh).
Truyện kể về Thôi Vũ được Ma Cô Tiên đền ơn đã chuộc tội, nên Tiên
cho hạt ngọc Long Toại, nói đó là ngọc châu từ thuở Trời Đất mới
khai tịch đã có một cặp Trống Mái, từ đời Hoàng Đế trải đến đời Ân,
truyền làm thế bảo. Trong trận đánh Trâu Sơn, Ân Vương bị Phù Đổng
Thiên Vương giết nên đeo nó mà chết, ngọc châu cũng hon trong đất mà
tia sáng chiếu thẳng lên trời. Đời nhà Tần binh hỏa liên miên những
vật trân bảo đều bị đốt cháy, các nhà vọng khí đều biết hòn ngọc còn
ở phương Nam. Người Tàu đem vàng bạc gấm vóc châu báu trị giá trăm
vạn để tìm mua. Thôi Vĩ nhân đây đại phú. Sau Ma Cô Tiên rước vợ
chồng Thôi Vĩ đi, không biết đi đâu. Nay giếng bỏ hoang bẩn thỉu,
hang thì còn ở núi Trâu Sơn. Người Việt gọi là Việt Tĩnh Cương (Lĩnh
Nam).
Đọc truyện
trên chúng ta được chứng kiến một trang huyền sử tuyệt đẹp: Thôi là
lớn lao nhưng tự dang gợi nên cái gì tế vi, nên Thôi Vỹ có nghĩa là
người biết đặt quan trọng vào cái tế vi, cái “vi ngôn đại nghĩa”, mà
vi ngôn đại nghĩa lớn nhất là Âm Dương Hòa kết thành Thái cực viên
đồ đã xuất hiện từ khi Trời Đất khai tịch, đã có một cặp Trống Mái
gọi là Long Toại.
Chữ Toại có nghĩa là khoan cây lấy lửa,
nhắc lại thời Toại Nhân, phát minh ra lửa. Còn Long là thuộc về Lạc
Long Quân, vua Viêm tộc. Nhưng đến lúc Hoàng Đế vào xâm lăng thì
chiếm luôn cả Kinh Dịch truyền cho đến đời Ân. Nhà Ân nửa trước kêu
là nhà Thương là một nhà thấm nhuần văn hóa nông nghiệp cao độ nhất,
nên huyền sử nói về vua Thành Thang có bệnh tê hết nửa mình “Thang
bán thể khô” (Dances 55).
Trong danh từ huyền sử thì câu đó có nghĩa
là đã “thể nghiệm được đạo Âm Dương Dịch lý”, nên có Lưỡng Nghi tính
vừa thích nghi với vòng ngoài thế sự, vừa thích nghi với vòng trong
Đại Ngã Tâm Linh, nên nói hon là bán thân bất toại, mà thực nghĩa là
nhà Thương Ân đã trở nên cùng dòng với nền văn hóa Viêm tộc (xem
Việt Điện trang 57)
Nhà Thương bị nhà Chu diệt, thì ngọc Long
Toại cũng bị hon vùi nhưng hon vùi bên phương Nam, mà nước tiêu biểu
nhất là Việt Nam. Còn bên kia thì mất, về sau có người tên là Khổng
Tử dòng tộc nhà Thương Ân nước Tống cứu vớt được một phần đạo lý ghi
lại trong Kinh Điển. Vì thế tuy sống ở Bắc nhưng lòng Khổng Tử vẫn
hướng về phương Nam, lấy làm nơi an trụ: “Nam phương chi cường dã
quân tử cư chi” (T.D). “Nam phương chi cường” cũng gọi là Hùng
Vương. Và vua nhà Ân đã chết hon ở đất Việt cũng như ngọc Long Toại
cũng nằm trên đất vua Hùng thứ ba.. Nghĩa là trọn vẹn đạo Dịch gồm
Tam Tài và Ngũ Hành: 3 lần 5 là 15 thuộc nước Văn Lang.
Người Tàu cũng phải công nhận y như Khổng
Tử. Khổng Tử nói kiểu Minh Triết, còn huyền sử nói kiểu u linh rằng:
“Các nhà vọng khí đều biết hòn ngọc Long Toại ở phương Nam.” Thế là
“vật bất ly chủ”. Chủ nó là Phục Hy, Thần Nông, Nữ Oa, rồi bị Hoàng
Đế chiếm lấy trao cho đến Ân Vương, vì Ân Vương cảm hóa được nên dẫn
thân sang hon táng ở bên đất Việt, y như Trọng Thủy lại trở về
phương Nam ôm xác Mỵ Châu và nhảy xuống Việt Tĩnh, cũng một trường
hợp như chim Loan của Hoàng Đế đập cánh mà chết. Tất cả đều nói lên
câu nói của khổng Tử: “Nam phương chi cường dã, quân tử cư chi”. Thế
có nghĩa là chủ sách Kinh Dịch là Việt Nam.
Cái phiền duy nhất là “giếng bỏ hoang
thành bẩn thỉu”.
Trong khi đọc chuyện Việt Tĩnh có một điều lạ là trong truyện không
nói đến giếng mà đến cuối truyện lại thêm một câu “nay giếng bỏ
hoang”. Giếng nào?
Không tìm ra trong truyện Việt Tĩnh cương
(Truyện XII), nhưng khi đọc xuống truyện Kim Quy thì mới nhận ra câu
trả lời là “xác Mỵ Châu hóa thành giếng ngọc”. Việt Tĩnh cương với
giếng ngọc là một. Và nó là chi khác hơn là khung của Lạc thư. Vì
Lạc Thư thành hình quanh chữ Tĩnh cho nên nói Việt Tĩnh chỉ là nói
lối khác của “Lạc Thư là sách của Lạc Việt đã được gợi hứng trên bờ
sông Lạc, nên gọi là Lạc Thư”.
Nhiều người không dám nhận ra Lạc Thư là
của Lạc Việt, vì chữ Lạc viết với bộ Trãi, hoặc Mã, hoặc Chuy. (豸,
馬, 隹) Chữ Lạc có 3 cách viết: 貉: 駱: 雒. Mà không với bộ thủy: 洛.
Nghĩ như vậy là không suy tư theo dòng
biến chuyển (génétique) tức là dòng Nam tiến liên tục, vì có cuộc
Nam tiến nên tiếng Việt từ bộ Mễ chuyển sang bộ Tẩu (粵 → 越) thì Lạc
Thư từ bộ thủy phương Bắc đổi sang bộ mã phương Nam (quẻ Khôn là tẩn
Mã, thay được bằng bộ Trãi) hay bộ Trĩ (quẻ Ly phương Nam chim Trĩ)
là truyện thường trong lối viết chữ Nho.
Thí dụ như chữ Trâu chỉ miền Khổng Tử có 4
lối viết (xem Legge I. 59) cũng có thể nghĩ rằng lúc ấy phương Bắc
đã hoàn toàn rơi vào tinh thần Du mục, ngư đã đốc ra Ngư Tinh nên
Lạc Long Quân phải giết, thì cũng là lúc bỏ chữ lạc-thủy đổi ra lạc
chim, từ 洛 biến sang 雒.
Cái lối đổi bộ trong chữ viết là truyện đã
xảy ra nhiều lần mỗi khi sửa đổi văn tự nhất là đời nhà Tần là đời
hon tang chữ viết của Việt Nam. Đấy cũng là một lối làm cho việc đọc
huyền sử khó thêm lên một độ. Tuy nhiên khi biết qua tiểu tiết mà
đọc cả kinh điển lẫn huyền sử thì câu nói chủ quyền của Việt Nam đối
với Kinh Dịch có nhiều bằng cớ và chứng tích. Điều quan trọng nhất
là nếu nhận làm chủ thì phải biết cách đọc theo chính chủ. Đó là
điểm chúng ta sẽ bàn trong chương sau (hai lối đọc Dịch).
Cần thêm mấy nhận xét cuối cùng về tên
sách Dịch. Hiện nay Hán Nho quen gọi là Chu Dịch để chỉ Dịch của nhà
Chu, vì trước đó đã có hai tên khác là Liên Sơn của nhà hạ
(2205-1776) vì bắt đầu với quẻ Cấn là núi và Quy Tàng của nhà Thương
Ân (1776-1150) bắt đầu với quẻ Khôn.
Nhà Hạ thỉ rõ ràng thuộc văn hóa Việt tộc
(xem Việt lý) nên nói Dịch Liên Sơn của nhà Hạ cũng là nói của Việt
tộc. Còn nhà Thương Ân thì đã cảm hóa theo Việt Nho hầu trọn vẹn nên
huyền sử nói Ân Vương bị chết hon cùng với ngọc Long Toại bên đất
Việt, có lẽ vì bị hon như thế nên gọi Dịch nhà Thương là Quy Tàng.
Xét về huyền sử nước ta được chia ra ba
giai đoạn là Thái Sơn, Ngũ lĩnh và Phong Châu. Thái Sơn thuộc thời
Tam Hoàng trong đó ông Tổ Việt tộc là Thần Nông cũng có hiệu là Liệt
Sơn cùng với Thái Sơn là một.
Thái Sơn ở tỉnh Sơn Đông giáp với tỉnh An
Huy, nơi khởi xuất của núi Ngũ Lĩnh, nên từ Thái Sơn sang Ngũ Lĩnh
liền nhau nên có thể vì đó mà gọi là Liên Sơn, vì đó là dãy núi rất
dài khởi từ An Huy mà chạy qua tỉnh Chiết Giang, Giang Tây Phúc
Kiến, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu. Rồi đến giai đoạn
Phong Châu tận cùng bằng câu truyện Việt Tĩnh nơi tang ẩn xác Trọng
Thủy với Mỵ Châu, nên gọi là Quy Tàng.
Hoặc vì Phong Châu là miền Nam nhất trên
con đường Nam tiến của Việt tộc mà phương Nam là quẻ Khôn, mà tại
quẻ Khôn là tàng trữ nên gọi là Quy Tàng. Đàng nào cũng hợp lý và
đều nói lên chủ của kinh Dịch là “Viêm Việt, còn Hán tộc chỉ là mượn
lại mà thôi, và vì không phải là chủ nên đọc Dịch không đúng cách.”
(Nếu muốn
đọc Dịch theo Việt Nho, xin xem tiếp chương “Hai lối đọc Dịch” tiếp
theo trong Dịch Kinh Linh Thể)
(Nhân Hậu
trích dẫn sách Kim Định)
LỜI NGƯỜI SƯU TẬP
Thế hệ học giả Kim
Định đã dày công nghiên cứu nhằm đánh đổ thành kiến rằng văn hóa
Việt chỉ mô phỏng theo văn hóa Tàu.
Công cuộc khảo cứu
chứng minh bản sắc, nguồn gốc văn minh-văn hóa Việt có chút thành
tựu căn bản thì lâm họa mất nước vào tay bọn giặc cờ đỏ họ giả
hồ.
Ngày nay bọn "hồ tinh chín đuôi" đang mưu toan xóa
nhòa Lịch sử Việt, dọn đường cho bọn Tàu bành trướng thu nhập,
đồng hóa dân tộc Việt Nam.
Ngày nay, công cuộc tranh đấu
đánh đổ chế dộ toàn trị việt cộng không chỉ đơn thuần là về thể
chế chánh trị mà trên hết và trước hết là đánh đuổi bọn việt gian
phản quốc để cứu dân, cứu nước khỏi lâm họa mất nước-diệt tộc.
Nguyễn Nhơn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những
bài liên hệ
Bài xích Thuyết Việt Nho và Huyền sử Con Rồng Cháu Tiên để làm
gì?
Sông cạn Đá mòn Bản sắc Lạc Việt vẫn Trường tồn
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Hoa Anh đào. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Nguyễn Nhơn chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật,
April 1, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang