Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Thời sự NVQG/HN
Chủ đề:
Văn Hóa
Tác giả:
Trần Xuân Thời
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
“Tấc lòng cố
quốc tha hương,
Đường kia nỗi nọ ngổn
ngang bời bờì.
Cảnh hồng bay bổng tuyệt
vời,
Đã mòn con mắt phương trời đăm
đăm.” –Nguyễn Du
Sau 44 năm trời viễn xứ, cảm giác chung
của chúng ta là không nơi nào bằng quê hương mình, và cũng không
có ngôn ngữ nào truyền cảm bằng ngôn ngữ chúng ta nghe từ thuở
còn cưu mang trong lòng quê mẹ.
Trong cuộc sống cộng đồng chúng ta ngày
nay, Việt ngữ vẫn đóng vai trò quan trọng, là dụng cụ bậc nhì để
ghi chép âm thoại sau lời nói, bắc nhịp cầu thông cảm giữa người
và người, để truyền thông cái tình và hoằng dương cái lý, lưu
truyền kiến thức và tình cảm cho hậu thế.
Lịch sử chứng minh cho chúng ta thấy,
trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, chúng ta vẫn giữ được truyền
thống văn hoá dân tộc, không để cho Bắc phương đồng hóa. Ngày nay
trên bước đường lưu vong, dù đôi khi bất mãn với hiện tại, tiếc
nuối quá khứ và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp, nhưng chúng ta
vẫn đặt tâm vào vấn đề giáo dục con em, bảo tồn và phát huy Việt
ngữ, nếu không Việt ngữ sẽ mai một dần.
Thời gian trôi qua nhanh như bóng câu
qua cửa. Lớp hậu sinh trưởng thành và được giáo dục trong sinh
cảnh văn hóa mới sẽ, có thể, không còn thiết tha đến Việt ngữ vì
không được học hỏi, không hiểu và do đó không thích, đúng như câu
“Vô tri bất mộ”.
Học Việt ngữ qua báo chí, kinh điển, sử
sách, vừa bảo tồn được ngôn ngữ Việt, vừa phát huy được năng
khiếu sinh ngữ. Truyền thông bằng ngôn ngữ là năng khiếu đặc
trưng của con người, vượt ra ngoài biên giới chủng tộc, không
gian và thời gian. Năng khiếu ngôn ngữ phát triển đồng thời với
khả năng tri giác ngoại giới, khả năng thu nhận và truyền thông
kiến thức, tinh luyện suy luận và phát triển sáng tạo.
Tiếng nói là phương tiện trực tiếp
truyền thông tư tưởng và tình cảm giữa người và người và được
mệnh danh là dụng cụ bậc nhất trong vấn đề thông đạt. Khi đã có
tiếng nói, người ta tìm ra phương thức diễn đạt tiếng nói bằng ký
hiệu gọi chung là văn tự. Văn tự được xem như dụng cụ bậc nhì để
có thể chuyển tải tư tưởng đến tha nhân qua không gian và thời
gian như sách sử, báo chí, và ngày nay còn có dụng cụ truyền
thanh và truyền hình để nối dài lời nói.
Nếu gọi nhạc là nghệ thuật tiết tấu âm
thanh, thì văn tự là nghệ thuật phối trí ký hiệu để ghi chép và
chuyển đạt tư tưởng. Tiến trình học hỏi để phối trí, lãnh hội và
diễn đạt tư tưởng không phải chỉ thu gọn trong trường thi trận
bút từ tiểu học cho đến đại học mà còn phải nghiên cứu, trau dồi
có khi suốt cả cuộc đời. Câu nói “văn ôn võ luyện” thật không
sai.
“Nước
ta vốn xưng văn hiến đã lâu, phong tục Bắc Nam sẵn có.”
Trong suốt thời Bắc thuộc chúng ta đã dùng chữ Hán, mãi đến sau
năm 936, thời tự chủ, theo truyền thuyết cụ Hàn Thuyên đã dùng
chữ Nôm để ghi chép tiếng Việt, chữ Nôm được xem như chữ viết đầu
tiên của nước ta.
Nhiều tác phẩm văn chương trong suốt
các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần được viết bằng chữ Hán. Chữ Nôm
được dùng nhiều vào đời Lê Trung Hưng và Nguyễn. Có lẽ vì sự cạnh
tranh giữa hai môn phái trọng Nôm và môn phái trọng Hán, nên các
văn kiện của triều đình đều dùng chữ Hán, mãi đến thời Tây Sơn
chữ Nôm mới được trọng dụng.
Chữ Nôm và chữ Hán đều là văn tự cho
giới khoa bảng và nho sĩ hơn là thứ dân vì tính chất phức tạp
trong lối ghép chữ, phải mất rất nhiều thì giờ mới có thể học hỏi
và lãnh hội được. Tình trạng này đã góp phần vào sự hình thành
giai cấp nho sĩ, khoa bảng, liệt vào hàng đầu của giai cấp xã
hội.
“Tước
hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt
Dân hữu tứ, sĩ vi
chi tiên
Có giang sơn thì sĩ đã có tên
Từ Chu, Hán vốn sĩ này là quý”
–Nguyễn Công Trứ
Trong thời phôi thai của nền văn học
Việt, các vị sư nổi danh như Ngô Chân Lưu và Trương Ma–Ni được
vua Đinh Tiên Hoàng phong làm Văn Tòng và Tăng Lục đã đóng góp
vào phần trước tác và truyền bá Hán học. Đến đời Tiền Lê, khi sứ
giả nhà Tống sang Việt Nam, vua Lê Đại Hành, đã thỉnh Sư Lạc
Thuận, giả làm khách lái đò, đối đáp văn thư với sứ giả nhà Tống.
Sư Ngô Chân Lưu soạn văn tiễn sứ giả. Các vị thâm nho này đã nổi
danh về văn học và tham dự quốc sự, được dân gian truyền tụng.
“Câu
thơ Lạc–Thuận, sứ Tống khen hay,
Bài ca
Chân–Lưu nổi danh muôn thuở”
Sang triều đại nhà Lý, Lý Công Uẩn, tức
là Lý Thái Tổ, lúc 3 tuổi đã được Pháp Sư Lý Khánh Vân nhận làm
con nuôi. Khi sang nghiệp nhà Lý, ngài rất tôn sùng đạo Phật. Đây
là thời cực thịnh của Phật giáo. Đặc điểm là các vị sư, dù được
triều đình kính nễ vẫn chủ trương hòa đồng tôn giáo “Tam Giáo
đồng nguyên” – Nho–Thích–Lão.
Nhà Lý đã mở ra những khoa thi Tam
Giáo. Sư Viên Chiếu đã sánh Phật Giáo và Khổng Giáo như mặt Trời
và mặt Trăng, “Trú tắc minh ô chiếu, dạ lai ngọc thố minh”. Ngày
thì mặt trời chiếu, đêm thì mặt trăng soi. Tinh thần hòa đồng của
các vị sư chiếu sáng trong suốt các triều đại khai quốc này như
sư Bảo Thịnh, sư Minh Tâm, sư Vạn Hạnh, sư Đạo Hạnh, sư Minh
Không, kể cả thuyết pháp lấy Thân, Khẩu, Tâm làm gốc của đạo.
Về phương diện tư tưởng, triết lý Phật
học đã thấm sâu vào nguồn tình tự dân tộc. Hai tác phẩm nổi danh
nhất của nền văn học Việt Nam là Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như
Hầu vào đời Lê Trung Hưng và Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du
vào thời Nguyễn sơ đã thể hiện rõ rệt triết lý Phật học về nhân
duyên, nghiệp báo làm phong phú hoá thêm triết lý nhân sinh Việt
vốn chịu ảnh hưởng của Nho học về luân thuờng đạo lý dựa trên Tam
Cương (quân, sư, phụ); Ngũ Thường (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín);
Ngũ Luân (Vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, bè bạn); Tam Tòng
(khi nhỏ ở với cha mẹ, lớn lên theo chồng, chồng qua đời theo
con); Tứ Đức (công, dung, ngôn, hạnh) qua phương pháp giáo dục
giúp con nguời. Cách vật chí tri (extention of knowledge by
investigating things), thành tâm (the will becomes sincere),
chánh ý (the mind is rectified), tu thân (personal life is
cultivated), tề gia (the family regulated), trị quốc (the state
put in order), bình thiên hạ (and peace is established throughout
the world) dựa trên Tứ Thư, Ngũ Kinh qua các thời đại.
Ôn Như Hầu, mượn lời Cung Oán, đã luận
về thân thế con người sinh ra trong bể khổ:
“Thảo
nào khi mới chôn nhau
Đã mang tiếng khóc
ban đầu mà ra.
Khóc vì nỗi thiết tha sự
thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu
Trắng răng đến thuở bạc đầu
Tử, sinh,
kinh, cụ, làm nau mấy lần.”
hay:
“Phong
trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả
hoa kia cỏ này
Tuồng huyễn hỏa đã bày ra
đấy
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau
Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nắm
cỏ khâu xanh rì!”
Đời sinh ra trong cảnh khổ vì vướng
phải nhân duyên, tiền kiếp.
“Hẳn
túc trái làm sao đây tá
Hay tiền thân
hậu quả xưa kia
Hay Thiên Cung có điều
gì
Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi”
Do đó, muốn thoát cảnh đời đoạn tâm can
của chốn trần ai khổ lụy, phải dứt thất tình lục dục, mượn chốn
thiền môn để tu niệm.
“Thà
mượn thú tiêu dao cửa Phật
Mối thất tình
quyết dứt cho xong
Đa mang chi nữa đèo
bồng
Vui gì thế sự mà mong nhân tình
Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa
Mượn
hoa đàm đuốc tuệ làm duyên
Thoát trần
một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật
là tiên trên đời”
Thân phận nàng Kiều trong Đoạn Trường
Tân Thanh của Nguyễn Du cũng ba chìm bảy nổi:
“Ma đưa
lối, quỷ đưa đường
Lại tìm những chốn
đoạn trường mà đi
Hết nạn ấy đến nạn kia
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần
Trong vòng giáo dựng gươm trần
Kề lưng
hùm sói giữ thân tôi đòi”
Cuộc đời lưu lạc giang hồ của Kiều cũng
chỉ vì nhân duyên, nghiệp chướng.
“Đã
mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách
lẫn, Trời gần Trời xa
Thiện căn ở tại
lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài nằm với
chữ tai một vần”
Sau 15 năm lưu lạc giang hồ, Kiều đã
được tái họp với Kim Trọng, thoát cảnh ngang trái của cuộc đời.
“Nửa
giấc đoạn trường tan gối điệp
Một dây
bạc mệnh dứt cầm loan”
Nhờ nước sông Tiền Đường đã giải oán;
“Mười
mấy năm trời nợ giũ xong
Sông Tiền Đường
đục hóa ra trong.
....
Tấm lòng thiên cố thương mà trách
Chăng trách chi Kiều trách hóa công!”
Nếu các vị danh sư của Phật Giáo đã
tích cực đóng góp vào sự hình thành nền văn học Việt từ thuở phôi
thai thì khoảng năm 1530 dưới thời Vua Lê Chúa Trịnh, các vị Thừa
sai Thiên Chúa Giáo đến giảng đạo tại Việt Nam đã sáng chế và lưu
truyền cho hậu thế một phương pháp ghi chép tiếng Việt độc nhất
vô nhị: chữ Quốc Ngữ, một chứng tích của tôn giáo góp công vào sự
phát triển của nền Văn hóa Việt Nam.
Khi các phái bộ Thiên Chúa Giáo đến
Việt Nam, vì nhu cầu giảng kinh Thánh và nhu cầu truyền đạt, các
Giáo sĩ thừa sai học nói tiếng Việt và dày công nghiên cứu cách
dùng mẫu tự La–tinh a, b, c... để viết tiếng Việt.
Công trình này do nhiều Giáo sĩ thực
hiện, nhưng người được nhắc nhở đến nhiều nhất là cố Giáo sĩ Đắc
Lộ (Alexandre de Rhode). Ngài đã học cách nói tiếng Việt với một
cậu bé Việt 13 tuổi. Cậu bé này là một thần đồng về ngôn ngữ. Chỉ
trong 3 tuần lễ, Cha Đắc Lộ đã đọc được hầu hết các thanh âm
tiếng Việt, và ngược lại cậu bé Việt đã học được tiếng La–tinh.
Cậu bé đã trở thành đồ đệ của Cha Đắc Lộ, đọc kinh cầu bằng
La–tinh và trở thành một thầy giảng nổi tiếng thời bấy giờ.
Ban đầu tiếng Việt có nhiều chữ khó
viết như Trời viết thành “blời”, nhưng dần dần chữ Việt viết theo
mẫu tự La–tinh biến thành một khí cụ sắc bén, một phương pháp mới
trong vấn đề ký âm, ghi chép tiếng Việt một cách giản tiện, dễ
dàng và nhanh chóng. Nhiều người có thể lãnh hội, không tốn công
phí sức như học chữ Nôm và chữ Hán. Người ta quen gọi là chữ Quốc
Ngữ để phân biệt với chữ Nôm và chữ Hán.
Chữ Quốc Ngữ được các Giáo sĩ Thiên
Chúa Giáo phát minh đã mở con đường sáng cho nền giáo dục nước
nhà, nhờ cách ghi chép và đánh vần giản tiện, chữ Quốc Ngữ ra đời
đúng lúc mà:
“Đạo
học ngày này đã chán rồi
Mười người theo
học chín người thôi
Cô hàng bán sách lim
dim ngủ
Thầy khóa tư lương trấp trỏm
ngồi”
–Tú Xương
Hai tác phẩm đầu tay là cuốn tự điển
Quốc Ngữ – Bồ Đào Nha – La–tinh (Dictionarium Annamiticum sey
Tunkinese cum Lusitana, et latina declaratione) và cuốn Kinh
Nghĩa dạy Giáo Lý cho tân tòng (Cathechimus pro iis qui volunt
suscipene Baptisraum in octodies divisus) bằng song ngữ La–Việt
do Giáo sĩ Đắc Lộ trước tác và xuất bản vào năm 1651.
Sau giai đoạn khai phóng, Giám Mục
Behaine và Giám Mục Taberd đã gọt dũa hình thức chữ Quốc Ngữ sắc
bén như ngày nay, qua các cuốn Tự Điển Việt–La xuất bản năm 1838,
cha Ravier nhuận sắc và được tái xuất bản vào năm 1880.
Trong thời gian này, tại Nam Việt có
đến 527 trường dạy Quốc Ngữ gồm hơn 17,000 học sinh nam nữ so với
209 trường dạy chứ Hán cho khoảng 2,300 học sinh. Sỉ số học sinh
Hán ngữ giảm sút rất nhiều. Mãi đến năm 1917 các khoa thi Hương
bị bãi bỏ. Hán học chỉ còn là lưu niệm vang bóng một thời! Theo
mới nới cũ phải chăng là luật đào thải của thiên nhiên?
Văn tự là phương tiện truyền đạt tư
tưởng và nối dài lời nói. Chữ Quốc ngữ đã đủ sắc bén để diễn tả
tư tưởng thì tội tình gì mà miệt mài Hán tự, tốn công, phí sức,
thiếu tính chất phổ cập trong quần chúng.
Kế nghiệp của các Giáo sĩ Thiên Chúa
Giáo, các giáo hữu cũng đã đóng góp tích cực vào sự bành trướng
chữ Quốc Ngữ như Pétrus Ký, Paulus Của, Nguyễn Văn Vĩnh... Petrus
Trương Vĩnh Ký (1837–1898) là một thần đồng về ngôn ngữ. Ông nói
được 12 thứ tiếng, và Chủ Bút tờ Công Báo đầu tiên ở Nam Việt là
Tờ GIA ĐỊNH BÁO, xuất bản năm 1865.
Gia Định Báo là tờ báo truyền bá Quốc
Ngữ đầu tiên làm nền tảng cho các báo Quốc ngữ sau này. Năm 1909,
ông Canavaggio xuất bản tờ Nông Cổ Mín Đàm với sự cộng tác của
các vị Lương Khắc Minh, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt. Ông
Trần Chánh Chiếu, sau đó làm Chủ Bút tờ LỤC TỈNH TÂN VĂN xuất bản
năm 1907.
Các
học giả của Phong Trào Duy Tân cũng đã rầm rộ truyền bá Quốc Ngữ
như quý ông Phan Chu Trinh (1872–1926), Ngô Đức Kế (1878–1929),
Trần Quý Cáp (1870–1908) và Huỳnh Thúc Kháng (1876–1949).
Tại Bắc Việt nhà giáo Bùi Xuân Phái và
các thông ngôn, tham biện lập Hội Trí Tri để phổ biến văn minh
học thuật Âu Mỹ vào năm 1892. Năm 1891 tờ Đại Nam Đồng Văn Nhật
Báo xuất bản bằng Hán Văn và sau đó thêm phần Quốc ngữ. Đến năm
1907 đổi danh thành Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo do Nguyễn Văn Vĩnh
làm Chủ Bút, đăng tải các tác phẩm dịch thuật như thơ La
Fontaine, kịch Molière, khảo luận tư tưởng chính trị về Tự Do,
Bình Đẳng... Năm 1905 tờ Đại Việt Tân Báo xuất bản song ngữ Hán –
Quốc Ngữ do ông Đào Nguyên Phổ làm chủ bút, nối liền giữa tân học
và cựu học.
Trên toàn quốc phong trào “Học Báo” đã được phát động rầm rộ, kể
cả chính quyền Đông Dương dưới thời Toàn Quyền Beau (1901–1908).
Toàn Quyền Paul Beau đã tích cực hỗ trợ chương trình truyền bá
Quốc Ngữ và thành lập Đai học Đông Dương tại Hà Nội năm 1906. Vì
sinh viên bãi khoá phản đối chính sách thuế khoá của chính quyền
thuộc địa nên Toàn Quyền Kolbukowski ra lệnh đóng cửa Đại học
Đông Dương. Đến năm 1917 Toàn Quyền Abert Sarraut cho phép mở lại
với danh xưng mới Đại học Hà Nội. Năm 1905, với Phong Trào Duy
Tân, cụ Phan Bội Châu xuất dương qua Nhật Bản, viết về những bức
Huyết Lệ Thư, kể rõ kinh nghiệm Duy Tân của Nhật Hoàng, được
phiên ra chữ Quốc Ngữ, truyền bá trong dân chúng 3 miền, và dùng
làm tài liệu giáo khoa cho Trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Trường
ĐKNT cũng đã bị đóng cửa sau 10 tháng hoạt động.
Về cơ sở giáo dục, ngoài các trường
công lập lớn như Pétrus Ký, Quốc học, Chu Văn An... Giáo Hội Công
Giáo Việt Nam đã mở thêm trên 850 ngôi trường, đóng góp lớn lao
vào nền giáo dục nước nhà. Từ năm 1889 đến 1904, ba ngôi trường
đã được các Sư Huynh Dòng Jean Baptiste De La Salle thành lập:
Trường Taberd ở Sài Gòn, Trường Pellerin ở Huế và Trường Puginier
ở Hà Nội. Sau đó đã lập thêm các trường khác ở những tỉnh lớn và
đã đào tạo hàng trăm ngàn công dân ưu tú phục vụ trong mọi ngành
hoạt động của quốc gia.
Ngoài những tạp chí nêu trên, hai tạp
chí nổi tiếng kết nối sự nghiệp truyền bá Quốc Ngữ là Đông Dương
Tạp Chí, Nam Phong Tạp Chí và Nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Các cơ sở này
dùng Quốc Ngữ để đẩy mạnh phong trào cải cách tư tưởng, đả phá
những tập tục cổ hũ, không còn thích ứng với trào lưu tiến bộ mới
“gió Mỹ mưa Âu” mà nhân vật Loan trong tác phẩm Đoạn Tuyệt đã nói
lên phần nào triết lý văn nghệ của nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Như vậy, trong suốt 300 năm chữ Quốc
Ngữ đã tiến đến giai đoạn tinh luyện, hầu hết các thể văn đều
được sáng tác như ký sự, văn khảo, dịch thuật truyện, thơ, kịch,
văn, luận thuyết... Nhiều sách giáo khoa được các học giả Bắc,
Trung, Nam sáng tác và đăng tải trên các tờ báo viết bằng chữ
Quốc ngữ cho đồng bào thưởng lãm.
Nhiều danh từ về triết học, kỹ thuật
bắt đầu xuất hiện bằng cách ghép danh từ Hán Việt hoặc phiên âm
từ ngoại ngữ để đáp ứng nhu cầu của nền giáo dục mới, dồi dào các
ngành học chứ không chỉ học văn chương thi phú như trước. Nền tân
học đòi hỏi nhiều danh từ không có trong Việt ngữ. Kho tàng Việt
ngữ dồi dào về danh từ tình cảm, văn chương nhưng thiếu danh từ
về khoa học, kỹ thuật và triết học.
Ngày nay, sự thiếu thư tịch để tham
khảo là một sự trở ngại lớn cho vấn đề viết văn khảo, họa chăng
văn hóa là những gì còn lại sau khi đã quên hết, đúng như câu “La
culture est ce qui reste quand on a tout oublié”. Theo Freud, thì
trí tuệ chia làm 3 phần. Phần nhớ rõ ràng những sự kiện gọi là
phần “Ý thức” (conscious); phần lờ mờ, nhớ nhớ, quên quên gọi là
“Tiềm thức” (subconscious) và phần ẩn náu sâu kín, có thể xuất
hiện một cách bất kỳ xuất ý, gọi là phần “Vô Thức” (unconscious).
Đa số những hành vi, cử chỉ hằng ngày của chúng ta do phần vô
thức điều khiển.
Mục đích của giáo dục nhằm truyền thụ
kiến thức, tinh luyện suy luận, và phát triển sáng tạo. Tiến
trình giáo dục là tiến trình “tiêm nhiễm” kiến thức vào vô thức,
càng nghiên cứu học hỏi, kho tàng vô thức càng phong phú. Trong ý
niệm đó “Văn hóa là cái gì còn lại sau khi đã quên hết”, hiểu
theo phân tâm học (psychoanalysis) của Freud. Văn hoá nói chung
là những gì thể hiện sự hiện hữu của con người trên trái đất này
vì các sinh vât khác không có văn hoá.
Dù nhớ hay quên, viết văn, làm báo chỉ
nhằm chủ đích phục vụ nhân sinh, trao đổi kinh nghiệm và kiến
thức để chúng ta “một phen tri kỷ cùng nhau” trong công tác bảo
tồn và phát huy nền văn hóa dân tộc.
Ghi lại công nghiệp của cổ nhân là một
niềm vui tinh thần, “Làm việc nghĩa không kể lợi hại. Luận anh
hùng không kể hơn thua”. Dù không biết “Những người muôn năm cũ,
hồn ở đâu bây giờ”, nhưng họ đã trồng cây cho chúng ta ăn trái và
hoa thơm tỏa ngát lòng đất. Hiểu một cách giản dị, văn là vẻ đẹp,
hoá là biến động. Công trình văn hoá của cổ nhân đã lưu lại trong
tâm hồn chúng ta chút gì để nhớ, chút gì để thương như lời Tú
Xương còn như văng vẳng bên tai:
“Ta nhớ
người xa cách núi sông
Người xa xa lắm
nhớ ta không?”
và thông cảm với tâm tư của Thôi Hạo:
“Ai
người trước đã qua
Ai người sau chưa tới
Ngẫm Trời, Đất mông lung,
Một mình tuôn
giọt lệ!”
Kẻ tha thương đâu đâu cũng cô độc,
“L’exilé partout est seul”! Nên chúng ta đồng cảm với tâm tư của
Vương Duy:
“Khuyến
quân cánh tận nhất bôi tửu.
Tây xuất
Dương quan vô cố nhân”.
Mong bạn ưống cạn chén bồ đào vì khi
qua bên kia phương trời tây thì không còn cố nhân nữa!
“Mưa
mai thấm bụi Vị Thành
Liễu bên quán trọ
sắc xanh ngời ngời
Khuyên anh hãy cạn
chén mời
Dương quan ra khỏi ai người cố
tri”
–Tống Nguyên nhị sứ An Tây
“Văn dĩ tải đạo”. Viết văn là để chuyển
tải đạo lý. “Đạo theo lẽ Trời mà ra và cũng bởi lòng người mà
đến”. Nhưng Trời không nói “Thiên hà ngôn lai”, thì người cũng
chỉ “truyền nhi bất tác”.
Sinh hoạt xã hội, viết văn, làm báo, vừa để sưởi ấm tâm hồn,
vừa bắc nhịp cầu thông cảm cổ, kim, vừa để hoằng dương công đức
của tiền nhân cũng là sứ mệnh văn hoá chung của chúng ta vậy.
Trần Xuân Thời
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Danh sách những Bài viết của Tác giả Trần Xuân Thời
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Thắng cảnh thiên nhiên Bắc Mỹ châu. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by psxh chuyển
Đăng ngày Thứ Hai, July 1, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang